Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam – Chi nhánh 8 TPHCM
3,285
791
105
41
nói cách khác, nguồn vốn này có tính ổn định cao phục vụ cho công tác cho vay
tại
chi nhánh.
Về hoạt động sử dụng vốn, chúng ta đi sâu tìm hiểu về tình hình cho vay và
biến động lãi suất cho vay qua các năm từ 2011 đến quý 2 năm 2014 tại Ngân hàng
TMCP Công Thương Việt Nam.
Năm 2012 tiếp tục cho thấy sự ổn định trong hoạt động tín dụng của NHCT,
đóng góp quan trọng vào việc tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận. Việc tăng
trưởng
tín dụng của NHCT đều dựa trên cơ sở áp dụng và tuân thủ đầy đủ các thông lệ,
chuẩn mực quốc tế và các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về an toàn
tín dụng.
Với chiến lược kinh doanh hướng tới lợi nhuận của khách hàng, NHCT luôn
cố gắng huy động tối đa mọi nguồn lực để đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu của khách
hàng. Ngân hàng đã không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy nhanh
thời gian xử lý hồ sơ, phát hành bảo lãnh, thanh toán quốc tế… Ngoài ra, NHCT
cũng tăng cường hợp tác liên kết với các đối tác để tạo tính đa dạng, linh hoạt
cho
từng sản phẩm. Nhờ đó, năm 2013 chi nhánh cũng đạt được một số kết quả nhất
định.
Tính đến ngày 31/12/2013, tổng dư nợ tín dụng của NHCT CN8 TPHCM đạt
2,053.11 tỷ đồng, đạt 93% kế hoạch cả năm, trong đó dư nợ KHDN lớn chiếm
74,5%, KHDN VVN chiếm 12 % và KHCN chiếm 13,5%. Nếu xét về kỳ hạn vay,
dư nợ ngắn hạn chiếm 51%, dư nợ trung dài hạn chiếm 49% tổng dư nợ. Dư nợ ngắn
hạn tăng 26,9% so với cùng kỳ năm trước, nhưng tổng dư nợ giảm so với năm 2012,
do năm 2013 đến hạn thanh tóan một số món dư nợ ngắn hạn và trung hạn, một số
công ty vay dài hạn đã trả nợ, tất toán khoản vay trước hạn. Đồng thời, trong
tháng
12 công ty đã xử lý rủi ro nợ của khách hàng 92,3 tỷ đồng.
NHCT CN 8 TPHCM nằm trên địa bàn quận 8 với đặc thù dân cư và kinh tế
ít có điều kiện phát triển như các quận khác, tuy nhiên với mối quan hệ tốt và
sâu
rộng từ phía Ban giám đốc cũng như chú trọng cung cấp các sản phẩm dịch vụ tối
ưu, triển khai 8 PGD tại địa bàn các quận khác đã mang lại những điều kiện cơ
bản
cho chi nhánh phát triển tín dụng
42
Trong thời gian đến, NHCT CN 8 TPHCM tiếp tục định hướng chiến lược
phát triển tập trung vào những khách hàng truyền thống, duy trì và tăng trưởng
dư
nợ, bên cạnh đó, tập trung phát triển mảng khách hàng doanh nghiệp và khách hàng
cá nhân, là những mảng khách hàng tiềm năng, hứa hẹn sẽ phát triển mạnh, đem lại
nguồn lợi nhuận cao cho chi nhánh.
Tình hình lãi suất cho vay những tháng đầu năm 2014 có xu hướng giảm do
lãi suất huy động giảm mạnh theo chính sách chung của NHNN, lãi suất huy động
VND đến thời điểm tháng 06/2014 là 5.5%/năm đối với cá nhân và 5%/năm đối với
tổ chức kinh tế. Theo đó, lãi suất cho vay theo VND trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn, xuất khẩu phổ biến ở mức 8.5%/năm, lãi suất cho vay xuất khẩu – kinh
doanh khác phổ biến ở mức 8.5-9%/ năm, lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất
10.5%/năm. Ngoài ra, để phù hợp với tình hình thực tế, NHCT liên tục đưa ra các
gói ưu đãi về lãi suất, lãi suất cho vay VND tốt nhất áp dụng đối với các khách
hàng
lớn, truyền thống là 7%/năm đối với các khoản vay có kỳ hạn từ 6 tháng trở xuống
và lãi suất cho vay ưu đãi USD thấp nhất vào khoảng 3%/năm đối với các kỳ hạn
vay từ 3 tháng trở xuống. 2,8% đối với chiết khấu bộ chứng từ, và 5% đối với
trường
hợp cho vay VND tham chiếu lãi suất USD. Có thể thấy lãi suất thị trường đã giảm
xuống đến mức thấp nhất để hỗ trợ các doanh nghiệp.
Tiếp theo sau đây, chúng ta đi sâu vào tìm hiểu sự tác động tình hình biến
động lãi suất huy động và cho vay cũng như cơ cấu nguồn vốn và tài sản tác động
ảnh hưởng như thế nào đến lợi nhuận của ngân hàng hay những tiềm ẩn rủi ro về
lãi
suất xảy ra sẽ làm ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của Ngân hàng.
Bảng 2.3: Lãi suất huy động vốn bình quân tại NHCT CN 8 TPHCM
năm 2011 đến 6 tháng đầu năm 2014.
43
Kỳ hạn
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
6 tháng đầu
năm 2014
1 tháng
14%
11%
6.50%
5.00%
2 tháng
14%
11%
6.50%
5.00%
3 tháng
14%
11%
7.00%
5.50%
6 tháng
13.25%
11%
7.00%
5.80%
12 tháng
12.75%
12.50%
8.00%
6.80%
“Nguồn: NHCT CN 8 TPHCM, báo cáo lãi suất năm 2011, 2012, 2013, 6
tháng đầu năm 2014” [2,3,4,5]
Biểu đồ 2.3: Lãi suất huy động vốn bình quân tại NHCT CN 8 TPHCM
năm 2011 đến 6 tháng đầu năm 2014
“Nguồn: NHCT CN 8 TPHCM, báo cáo lãi suất năm 2011, 2012, 2013, quý
II 2014” [2,3,4,5]
Từ bảng (2.3) tương ứng biểu đồ (2.3) cho thấy, bắt đầu từ năm 2011, lãi suất
huy động được khống chế theo trần lãi suất huy động của NHNN theo chủ trương
của chính sách tiền tệ nhằm tránh tình trạng chạy đua lãi suất trong hệ thống
Ngân
hàng.
Trần lãi suất huy động được khống chế ở mức 14%/năm trong năm 2011, do
lãi suất biến động dự kiến theo chiều hướng giảm dần, do đó diễn biến lãi suất
trong
năm 2011 nhìn chung ở những kỳ hạn dài, lãi suất thấp hơn lãi suất huy động của
các kỳ hạn thấp.
14% 14% 14%
13.25%
12.75%
11% 11% 11% 11%
12.50%
6.50% 6.50%
7.00% 7.00%
8.00%
5.00% 5.00%
5.50%
5.80%
6.80%
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
16%
1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng 12 tháng
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
6 tháng đầu
năm 2014
44
Tiếp theo đó trần lãi suất biến động giảm dần trong năm 2012, 2013 và những
tháng đầu năm 2014, trần lãi suất hiện tại là 6%/năm. Lãi suất huy động tháng
6/2014
của NHCT – CN 8 TPHCM là 5%/năm đối với kỳ 1 tháng của khách hàng tổ chức,
thấp hơn trần huy động của NHNN 1%/năm.
Lãi suất huy động biến đổi liên tục, còn lãi suất cho vay có kịp biến động của
lãi suất huy động hay không, chúng ta tiếp tục phân tích diễn biến của lãi suất
cho
vay.
Bảng 2.4: Lãi suất cho vay vốn bình quân tại NHCT CN 8 TPHCM năm
2011 đến 6 tháng đầu năm 2014
Kỳ hạn
Năm
2011
Năm 2012
Năm 2013
Quý II 2014
1 tháng
17.80%
15.62%
11.16%
8.57%
2 tháng
17.80%
15.62%
11.16%
8.57%
3 tháng
17.80%
15.62%
11.16%
8.57%
6 tháng
18.32%
16.24%
11.98%
8.93%
12 tháng
18.32%
16.24%
11.98%
8.93%
Trên 12 tháng
20.16%
17.48%
12.36%
10.02%
“Nguồn: NHCT CN 8 TPHCM, báo cáo lãi suất năm 2011, 2012, 2013, 6
tháng đầu năm 2014” [2,3,4,5]
Biểu đồ 2.4: Lãi suất cho vay vốn bình quân tại NHCT CN 8 TPHCM
năm 2011 đến 6 tháng đầu năm 2014
45
“Nguồn: NHCT CN 8 TPHCM, báo cáo lãi suất năm 2011, 2012, 2013, 6
tháng đầu năm 2014” [2,3,4,5]
Lãi suất cho vay biến động cùng chiều với lãi suất huy động vốn, thể hiện qua
bảng (2.4) tương ứng với biểu đồ (2.4) cho thấy lãi suất cho vay cao nhất là
những
tháng năm 2011, do chính sách thắt chặt tiền tệ nên lãi suất đầu vào cao dẫn đến
đầu
ra phải cao tương ứng. Lãi suất cho vay thấp nhất vào những tháng đầu năm 2014
nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế nên Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp
giảm lãi suất và hỗ trợ lãi suất giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, tăng
trưởng
kinh tế. Lợi nhuận của ngân hàng được xác định từ việc chênh lệch lãi suất mua
vốn
– lãi suất huy động và lãi suất bán vốn – cho vay ra, lợi nhuận ngân hàng còn
phụ
thuộc vào khối lượng giữa nguồn vốn huy động với việc sử dụng nguồn vốn đó để
cho vay.
2.2. Thực trạng điều hành lãi suất của NHNN
Trong những thập kỷ gần đây, thị trường tài chính – tiền tệ thế giới có sự phát
triển vượt bậc về quy mô và chiều sâu, cơ chế điều hành lãi suất của NHTW các
nước thay đổi theo hướng tự do hoá.Tuy nhiên, ở mỗi nước, NHTW căn cứ vào luật
định, điều kiện và bối cảnh phát triển kinh tế – xã hội, thị trường tài chính –
tiền tệ
ở mỗi nước, cũng như địa vị pháp lý của NHTW, mục tiêu của chính sách tiền tệ
(lạm phát hoặc đa mục tiêu) để áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp trong
từng
thời kỳ nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt
động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Đối
với
17.80% 17.80% 17.80%
18.32% 18.32%
20.16%
15.62% 15.62% 15.62%
16.24% 16.24%
17.48%
11.16% 11.16% 11.16%
11.98% 11.98%
12.36%
8.57% 8.57% 8.57%
8.93% 8.93%
10.02%
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
25.00%
1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng 12 tháng Trên 12 tháng
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
6 tháng đầu
năm 2014
46
nước ta, cơ chế điều hành lãi suất có sự thay đổi qua nhiều giai đoạn; từ giữa
tháng
5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng cơ chế điều hành lãi suất
cơ bản. NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường
mở, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền
tệ. Lãi
suất cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung - cầu
vốn
thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị
trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước.
Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh
lệch khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường: “Trần” là lãi suất tái cấp vốn,
“sàn”
là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 6.5% - 4.5%/năm); Lãi suất nghiệp vụ thị
trường
mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc “bơm” tiền ra hoặc “hút” tiền về,
từ
đó tác động đến cung - cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất
huy
động, cho vay của NHTM.
Cụ thể, từ khi có Nghị quyết 13/NQ- CP ngày 10/5/2012 của Chính phủ, NHNN
đã ban hành nhiều thông tư liên quan đến lãi suất như thông tư số 19/2012/
TT-NHNN
và Thông tư số 20/2012/TT-NHNN, trong đó quy định lãi suất huy động tối đa bằng
VND có kỳ hạn dưới 12 tháng là 9%/năm, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND
đối với 4 lĩnh vực ưu tiên là 13%/năm. Tiếp đó, ngày 09/7/2012, tại Thông báo
198/TB-
NHNN, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng đánh giá, rà soát dư nợ
các
khoản cho vay cũ, trên cơ sở khả năng tài chính, xem xét điều chỉnh giảm lãi
suất về
mức tối đa 15%/năm để giúp các doanh nghiệp và hộ dân vượt qua khó khăn, duy trì
ổn định và từng bước phát triển sản xuất kinh doanh. Đầu năm 2013, lãi suất cho
vay
phổ biến tại các tổ chức tín dụng đối với khách hàng thuộc 4 lĩnh vực ưu tiên từ
10 -
12%/năm; lãi suất cho vay tối đa đối với doanh nghiệp và hộ dân chỉ từ 15%/năm
trở
xuống. và từ ngày 26/3, trần lãi suất tiền gửi VND các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng
đến dưới
12 tháng giảm từ 8% một năm còn 7,5% / năm. Trong khi đó, các kỳ hạn từ 12 tháng
vẫn tiếp tục theo cơ chế thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Cơ quan quản
lý
cũng giảm 1% đối với một vài lãi suất điều hành khác như lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất
tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng. Cụ thể,
lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9% xuống 8% một năm trong khi lãi suất tái chiết
khấu
47
giảm từ 7% xuống 6% một năm. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử
liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ còn 9%
một
năm.
Lãi suất huy động giảm là cơ sở để lãi suất cho vay hạ, việc giảm trần lãi suất
góp phần hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên,
việc
này cũng sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận của các TCTD, bởi thực tế, trần lãi suất huy
động
giảm ít hơn. Tuy nhiên, đây là việc cần thiết để chia sẻ khó khăn cho DN, từ đó
đem lại
sự ổn định cho hoạt động ngân hàng khi doanh nghiệp bớt khó khăn hơn. Thời gian
qua, các TCTD đã có nhiều cố gắng trong việc giảm lãi suất của những khoản cho
vay
cũ, cụ thể, trước ngày 31/12/2012, tỷ trọng dư nợ các khoản dư nợ có lãi suất
trên
15%/ năm chiếm 60% thì nay chỉ còn khoảng 18%. Ngoài ra, năm 2012, các TCTD
cũng phải phải trích lập dự phòng rủi ro và trên thực tế, nhiều TCTD đã giảm
mạnh lợi
nhuận
Từ tháng 3/2012, NHNN đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để từng bước
giảm dần mặt bằng lãi suất cho vay, nhất là đối với các lĩnh vực ưu tiên (nông
nghiệp,
nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ và doanh
nghiệp
ứng dụng công nghệ cao). Theo đó, mặt bằng lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3
-
6%/năm, lãi suất cho vay giảm từ 5 - 9%/năm so với đầu năm 2012 (hiện lãi suất
cho
vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9 - 12%/năm; cho vay lĩnh vực
sản
xuất - kinh doanh khác và tiêu dùng ở mức 11 - 15%/năm, trong đó, lãi suất cho
vay
đối với các khách hàng tốt chỉ từ 9 - 11%/năm); thanh khoản của các TCTD đảm bảo
và dư thừa, tăng trưởng tín dụng của các TCTD ở mức thấp.
Thực hiện Nghị quyết số 53/2013/QH13 ngày 11/11/2013 của Quốc hội về
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2014 và Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày
2/1/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm
2014, ngày 15/1/2014, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Chỉ thị
số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân
hàng an toàn, hiệu quả năm 2014. Theo đó, trong năm 2014, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với
48
chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế
vĩ
mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bảo đảm thanh khoản của các TCTD
và nền kinh tế; tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại hệ thống
các
TCTD và xử lý nợ xấu nhằm nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả hoạt động của
các TCTD.
Giữ ổn định các mức lãi suất điều hành, lãi suất huy động tối đa bằng VND
và USD, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu
tiên;
tiếp tục yêu cầu các TCTD giảm lãi suất cho vay (kể cả các khoản cho vay cũ).
Đến
nay, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay bằng VND đã giảm 0,5-1,5%/năm so
với cuối năm 2013, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh nhưng vẫn
đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ.
Lãi suất của các khoản vay cũ tiếp tục được các TCTD tích cực giảm; đến
ngày 18/9/2014, dư nợ cho vay bằng VND có lãi suất trên 15%/năm chiếm 4,25%
tổng dư nợ cho vay VND, giảm so với tỷ trọng 6,3% cuối năm 2013; dư nợ có lãi
suất trên 13%/năm chiếm 12,16% tổng dư nợ cho vay bằng VND, giảm so với tỷ
trọng 19,72% cuối năm 2013.
Từ thực tế diễn biến tiền tệ, lãi suất trong thời gian qua, có thể rút ra một số
nhận xét sau đây:
Một là, việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đã ngăn chặn
được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM
trong những tháng đầu năm 2008, nhất là đối với NHTM cổ phần quy mô nhỏ chuyển
đổi mô hình từ nông thôn lên; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố
lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân
hàng.
Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa
các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên cao. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng
giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các NHTM đảm bảo khả năng thanh
toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong những tháng đầu năm 2009
tương
đối ổn định.
Hai là, cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực
và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, thể
hiện
49
là lãi suất thị trường liên ngân hàng đã biến động xoay quanh các mức lãi suất
chủ
đạo của NHNN; lãi suất huy động và cho vay của các NHTM biến động theo cung
– cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của
NHNN,
đã tác động làm cho thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng.
Ba là, việc điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết thị
trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trơng của Chính phủ và giải pháp
điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ, đã và
đang
trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trờng tài chính, tiền tệ, được
các
doanh nghiệp, người dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các NHTM quan tâm,
theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư,
tiết
kiệm và tiêu dùng. Kết quả này cú ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện đợc vai trò
và
những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và
điều tiết kinh tế vĩ mô.
Bốn là, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật NHNN
và Bộ luật Dân sự, mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện nay và các năm tới đây
là
kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.
Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối
với lãi suất kinh doanh của NHTM, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra
thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên
thị
trường. Xử lý vấn đề này, NHNN đã ban hành cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận
đối
với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống và phát hành thẻ tín dụng, đi kèm theo đó
là
cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. Hiện nay,
đã
và đang xuất hiện ý kiến cho rằng NHNN cần dỡ bỏ trần lãi suất cho vay = Lãi
suất
cơ bản x 150% mà để cho các NHTM được tự ấn định lãi suất kinh doanh. Ý kiến
này cần được xem xét ở một số khía cạnh:
Theo kinh nghiệm của quá trình tự do hoá lãi suất ở các nước và nước ta
trong nhiều năm qua cho thấy điều kiện để tự do hoá lãi suất là kinh tế vĩ mô ổn
định, thị trường tài chính – tiền tệ minh bạch và có chiều sâu, mục tiêu chủ yếu
của
chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát; phát triển hệ thống thanh toán có khả
năng
kiểm soát được hầu hết các luồng vốn khả dụng của khu vực ngân hàng, chứng khoán
50
và các định chế tài chính khác; hệ thống NHTM có năng lực cạnh tranh và khả năng
đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh; ngân sách nhà nước thâm hụt ở mức thấp.
Với các điều kiện này, có lẽ nền kinh tế và thị trường tài chính – tiền tệ của
nước ta
hiện nay chưa đáp ứng được;
Khủng hoảng tài chính thế giới đã trải qua tình trạng tồi tệ nhất, nhưng suy
thoái và phục hồi kinh tế thế giới còn diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực
đối với
kinh tế và thị trường tiền tệ trong nước, trước mắt cần thực thi các giải pháp
tiền tệ
theo hướng đảm bảo an toàn hệ thống;
Kinh tế trong nước, nguy cơ lạm phát cao chưa được ngăn ngừa một cách
vững chắc, kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, hệ thống các NHTM còn chênh
lệch lớn về quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản nợ và tài sản có; năng lực tài
chính,
khả năng cạnh tranh và quản trị kinh doanh của các NHTM còn nhiều mặt hạn chế.
Thị trường hàng hoá, tài chính, tiền tệ, vàng, ngoại hối, bất động sản, chứng
khoán còn chứa đựng những nguy cơ bất ổn do hiện tượng đầu cơ còn diễn ra khá
phổ biến và các biện pháp điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước chưa đủ mạnh để
có
thể ngăn ngừa hoặc hạn chế các hiện tượng này, sẽ kéo theo các rủi ro cho hệ
thống
ngân hàng.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thời gian tới – giai đoạn hậu
suy giảm kinh tế, việc tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một
giải
pháp thích hợp, phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung – cầu vốn thị
trường.
Việc điều tiết lãi suất thị trường theo hướng ổn định được thực hiện kết hợp
giữa
điều tiết khối lượng tiền thông qua các công cụ gián tiếp, điều hành linh hoạt
các
mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông. Sự thay đổi cơ chế điều
hành
lãi suất theo hướng tự do hoá phải trên cơ sở đánh giá một cách khoa học và thực
tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính – tiền tệ ở trong và ngoài
nước, cũng
như các rủi có thể xảy ra và các biện pháp xử lý để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô,
sự an toàn và phát triển của hệ thống tài chính.
2.3. Thực trạng quản trị rủi ro lãi suất của Ngân hàng TMCP Công Thương
Việt nam chi nhánh 8.
Những diễn biến phức tạp của lãi suất thị trường trong thời gian qua tạo khó