Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển Công ty cổ phần Đại chúng tỉnh Lâm Đồng
4,570
86
76
61
Đồng thời tùy theo từng điều kiện hiện tại cụ thể của các công ty cổ phần tỉnh
Lâm Đồng mà có thể thay đổi cấu trúc vốn dựa theo Lý thuyết thứ tự tăng vốn. Lý
thuyết thứ tự tăng vốn (pecking order theory), cho rằng khi công ty cần tiền mặt
để
đầu tư vào dự án mới, công ty sẽ lần lượt thực hiện theo thứ tự sau. Đầu tiên là
lợi
nhuận giữ lại chưa chia của chủ sỡ hữu. Kế tiếp là mượn nợ, sau cùng là phát
hành cổ
phiếu. Cũng theo lý thuyết này, sự “sốt sắng” phát hành cổ phiếu của doanh
nghiệp
chứng tỏ rằng cổ phiếu của công ty đó đang được thị trường đánh giá cao hơn giá
trị
thật (overvalued).
VỐN NỘI BỘ
(LỢI NHUẬN TÁI
Đ
ẦU TƯ)
PHÁT HÀNH
NỢ MỚI
PHÁT HÀNH
VỐN CỔ PHẦN
MỚI
Như vậy, trong điều kiện khó khăn về vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh, khó khăn trong thời kỳ hậu cổ phần hóa như hiện nay, để thay đổi cấu trúc
vốn theo chiều hướng có lợi, dựa vào lý thuyết trật tự tăng vốn nêu trên thì các
công
ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng cần ưu tiên sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư, cần tập
trung
tích lũy để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
3.2.2. Giải pháp phát hành chứng khoán ra công chúng
Chúng ta biết rằng, cổ phần hóa DNNN và thị trường chứng khoán có mối
quan hệ khăng khít và biện chứng lẫn nhau. Cổ phần hóa DNNN hay nói cách khác là
quá trình chuyển đổi sở hữu từ một chủ (Nhà nước) sang đa thành phần sở hữu (cổ
phần) đã tạo ra cổ phiếu, đó là công cụ tài chính quan trọng và là hàng hóa của
thị
trường chứng khoán (TTCK). Vì vậy, có thể nói rằng cổ phần hóa DNNN là một tiền
đề kiên quyết để tạo ra hàng hóa chứng khoán cho TTCK hoạt động. Và đến lượt nó,
TTCK hoạt động lại tao ra tính thanh khoản cho các chứng khoán, tạo ra một cơ
chế
chuyển nhượng linh hoạt cho người nắm giữ chứng khoán khi muốn chuyển hóa để
thay đổi hình thức đầu tư một cách nhanh chóng và dễ dàng, từ đó kích thích DNNN
đẩy mạnh cổ phần hóa.
62
Hiện tại các công ty cổ phần tại Lâm Đồng chưa có công ty nào tham gia thị
trường chứng khoán, phần lớn các công ty còn ngại chưa muốn tham gia. Một mặt do
những trở ngại trong công ty về cơ cấu sở hữu vốn, về hạn chế chuyển nhượng vốn
nội bộ, về đặc thù của lĩnh vực kinh doanh cần hạn chế; mặt khác các công ty
chưa
thấy hết được những lợi ích của việc tham gia niêm yết chứng khoán mà họ được
hưởng những ưu đãi về thuế, phí,.. nên chưa thật sự quan tâm và mặn mà với thị
trường chứng khoán.
Thực trạng khan hiếm hàng hóa cho TTCK là một vấn đề nổi cộm hiện nay và
các công ty muốn huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và xây dựng cấu
trúc vốn thì cần phải tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán, gắn cổ phần
hóa
với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Tại địa phương tỉnh Lâm Đồng cần ban hành những quy trình cụ thể cho từng
loại doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn và không đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường
chứng khoán, đồng thời nên khuyến khích hoặc có những chế tài bắt buộc phải tham
gia niêm yết. Song song, cần thay đổi quan điểm trong việc định giá giá trị
doanh
nghiệp. Một mặt cần cho phép các doanh nghiệp được loại trừ các khoản lỗ, các
khoản nợ khó đòi và tài sản không cần dùng khi xác định giá trị doanh nghiệp và
áp
dụng các phương pháp định giá tiên tiến trong việc xác định giá trị doanh nghiệp
theo
hướng tạo điều kiện thuận lợi và tăng tính hấp dẫn cho các doanh nghiệp đã cổ
phần
hóa và cả doanh nghiệp chưa cổ phần hóa.
Bất cứ một công ty cổ phần nào muốn phát hành ra công chúng, công ty phải
đăng ký phát hành với ủy ban chứng khoán và thị trường. Một vấn đề quan trọng và
thiết yếu hiện nay đối với các công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng đối với việc phát
hành
chứng khoán ra công chúng đó là phương thức các doanh nghiệp phát hành chứng
khoán ra công chúng như thế nào. Việc tham gia và niêm yết cổ phiếu trên thị
trường
chứng khoán sẽ giúp các doanh nghiệp đang tăng trưởng vượt qua những khó khăn
của giai đoạn “thành niên” ban đầu của một công ty cổ phần đại chúng, đồng thời
vấn
đề đặc biệt quan trọng trong giai đoạn này là quyết định phát hành lần đầu cổ
phần
63
thường ra công chúng và việc đăng ký cung ứng với UBCK và Trung tâm giao dịch
chứng khoán.
Thực hiện cung ứng ra công chúng lần đầu và niêm yết trên thị trường chứng
khoán đem lại nhiều lợi ích khác nhau. Giá trị thị trường của cổ phần công ty sẽ
cung
cấp một số đo có sẵn về thành quả của công ty, điều này rất quan trọng cho sự
phát
triển trong tương lai của doanh nghiệp, do thông tin của doanh nghiệp sẽ được
phổ
biến rộng rãi, từ đó có thể đa dạng hóa các nguồn tài chính và cắt giảm được chi
phí
vay. Nhìn tổng thể, các lợi ích này cao hơn chi phí phát hành ra công chúng và
các
chi phí tiếp theo của việc quản lý một công ty cổ phần và liên hệ, giao tiếp với
các cổ
đông.
Một vấn đề quan trọng trong việc cung ứng ra công chúng lần đầu mà các
công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng cần đặc biệt quan tâm đó là bảng cáo bạch trong hồ
sơ đăng ký được phân phối cho các nhà đầu tư. Các cáo bạch phải thực sự đi sâu
vào
chi tiết để thể hiện các thông tin giá trị của công ty cổ phần cung cấp cho các
nhà đầu
tư. Trong khi chờ đợi hồ sơ đăng ký và các thủ tục ban đầu khác được chấp thuận,
các công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng nên chuẩn bị cho việc định giá phát hành. Đối
với việc định giá phát hành, trước tiên phải xem xét tỷ số giá thu nhập P/E của
cổ
phần của các đối thủ cạnh tranh chính để hướng đến giá trị thị trường công ty.
Tiếp
đến có thể phải tổ chức hội nghị để nói chuyện với các nhà đầu tư tiềm năng về
công
ty của mình. Các nhà đầu tư sẽ phát biểu các phản ứng của họ với việc phát hành
và
cho biết số lượng cổ phần họ muốn mua. Một số cho biết giá tối đa mà họ sẵn lòng
chi trả, cũng có một số nhà đầu tư sẽ đầu tư ở bất cứ giá phát hành nào được
chọn, từ
đó công ty phân loại cổ đông, cổ đông chiến lược… Ngay sau khi được thông qua
các
công ty sẽ thực hiện định giá phát hành.
Một vấn đề nữa cũng không kém phần quan trọng trong phương thức phát
hành chứng khoán ra công chúng mà các công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng cần chú ý là
chi phí của một phát hành mới; việc phát hành mới thường kéo theo các chi phí
hành
chính rất lớn. Việc chuẩn bị hồ sơ đăng ký và cáo bạch liên quan đến ban giám
đốc,
cố vấn pháp lý, các kế toán viên cũng như các nhà bao tiêu và các cố vấn của họ.
64
Ngoài ra, công ty còn phải trả chi phí đăng ký chứng khoán, chi phí in ấn và gửi
tài
liệu… chi phí quan trọng thứ hai của phát hành là bao tiêu, các nhà bao tiêu
kiếm lợi
bằng cách mua phát hành của công ty với một chiết khấu tính trên giá mà họ bán
ra
công chúng. Ngoài ra còn có một số tốn kém khác do giá cung ứng thấp hơn giá trị
thực của cổ phần phát hành, các chi phí do định dưới giá, không hiển hiện nhưng
cũng là chi phí thực tế. Với các cung ứng ra công chúng lần đầu, chi phí này
thường
cao hơn các chi phí phát hành khác.
Một nội dung tiếp theo cần đề cập đến cho các công ty cổ phần tỉnh Lâm
Đồng khi cung ứng ra công chúng là các phương pháp bán chứng khoán ra công
chúng. Có hai phương pháp mà tùy theo từng điều kiện cụ thể của các doanh nghiệp
có thể bán chứng khoán qua một cung ứng giá cố định hay bán đấu giá, hoặc thực
hiện kết hợp cùng một lúc cả hai phương pháp này. Nếu thực hiện cung ứng giá cố
định, khi định giá cao, các nhà đầu tư sẽ không hoặc ít đặt mua cổ phần đang
cung
ứng, nhưng ngược lại nếu giá thấp, việc đăng ký mua sẽ vượt quá số lượng cổ phần
cung ứng và các nhà đầu tư chỉ nhận được một phần số lượng cổ phần đặt mua. Như
vậy, với các điều kiện hiện tại, các công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng nên thực hiện
cung ứng cổ phần bằng phương thức đấu giá, các chứng khoán sẽ được bán cho
người trả giá cao nhất, với phương thức này sẽ đảm bảo sự khách quan và có lợi
cho
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, tại địa phương tỉnh Lâm Đồng cần khắc phục cơ bản những trở
ngại lớn hiện nay đối với việc các công ty e ngại công bố thông tin công khai,
chế độ
kiểm toán bắt buộc… Vì vậy cần phải điều chỉnh theo hướng bắt buộc các công ty
cổ
phần phải thực hiện công khai báo cáo tài chính định kỳ có kiểm toán, dù công ty
đó
có tham gia niêm yết cổ phiếu hay không. Ngoài ra một vấn đề quan trọng và có ý
nghĩa chiến lược trong việc phát triển thị trường chứng khoán và đưa các công ty
cổ
phần tại tỉnh Lâm Đồng tham gia niêm yết, đó là thực hiện bình đẳng trước pháp
luật
về cơ hội kinh doanh cho mọi loại hình doanh nghiệp, chấm dứt sự bao cấp, nâng
đỡ
của nhà nước đối với DNNN. Điều này liên quan mật thiết và rất quan trọng đến
việc
65
đổi mới, sắp xếp lại hệ thống DNNN và quá trình cổ phần hóa cũng như việc tham
gia niêm yết của các công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán.
Tóm lại, các công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng đang gặp rất nhiều khó khăn
trong việc phát hành trái phiếu và tham gia niêm yết cổ phiếu trên thị trường
chứng
khoán, đặc biệt là khó khăn với điều kiện đầu tiên về vốn điều lệ góp tại thời
điểm
phát hành trái phiếu và cổ phiếu ra công chúng, hiện tại chỉ có ít các công ty
cổ phần
tại Lâm Đồng có thể phát hành trái phiếu và niêm yết cổ phiếu. Như vậy, điều đầu
tiên các công ty cổ phần phải tăng vốn điều lệ và thực hiện một số biện pháp
khác
cũng như cần sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước thì mới thực hiện được.
3.2.3. Giải pháp thu hút vốn đầu tư gián tiếp FII
Theo ch
ương trình của Chính phủ, từ năm 2006 – 2010 sẽ cổ phần hóa
khoảng 1.500 doanh nghiệp Nhà nước và 79 trong tổng số 105 công ty nhà nước.
Hiện cả nước có khoảng 2.176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó có 1.546
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh nghiệp quốc phòng, công
ích và 295 nông trường, lâm trường.
Tính đến thời điểm này, Việt Nam đã tiến hành cổ phần hóa được hơn 10
năm. Trong khoảng thời gian đó, cả nước đã tiến hành cổ phần hóa được gần 3.500
doanh nghiệp , nhưng số vốn đưa vào cổ phần mới chiếm 8% tổng vốn nhà nước tại
các doanh nghiệp quốc doanh. Hầu hết các tổng công ty và các doanh nghiệp hạng
đặc biệt chưa được cổ phần hóa. Việc đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
sẽ tạo ra những cơ hội rất lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của
các
doanh nghiệp này, thông qua đó, sẽ có những đóng góp tích cực nhất định đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các công ty cổ phần cũng là đích nhắm của các nhà đầu tư gián tiếp nước
ngoài và các công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng cũng không ngoại lệ. Các công ty cổ
phần có nhiều ưu điểm về mặt quản lý và luân chuyển vốn. Các nhà đầu tư gián
tiếp
nước ngoài nhắm đến các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa vì thường là các
doanh nghiệp được định giá thấp hơn giá trị thực của nó, hoặc là những doanh
nghiệp
chưa được khai thác hết tiềm năng của mình, nên đây chính là những thương vụ đầu
66
tư mang lại hiệu quả cao cho các nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy, tỉnh Lâm Đồng
cần có những giải pháp quan trọng để thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài, thông
qua
việc đầu tư vào các công ty cổ phần, từ đó giúp các công ty cổ phần huy động vốn
phát triển sản xuất kinh doanh.
3.2.4. Các giải pháp bổ trợ khác
Doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh đều cần có vốn, bao gồm vốn cố
định và vốn lưu động. Một thực tế hiện nay là các công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng
đang thiếu vốn hoạt động một cách nghiêm trọng, gặp khó khăn trong tiêu thụ sản
phẩm. Doanh thu của các công ty đều có chiều hướng tăng chậm có công ty giảm
đáng kể, dẫn đến khả năng thanh toán nợ rất thấp, hệ số bảo toàn vốn không đảm
bảo.
Trong khi đó, không ít công ty có các khoản trả nợ gốc và lãi về vay đầu tư, về
vốn
kinh doanh đã đến hạn trả. Thậm chí tình hình tài chính DN giữa suy thoái với
phá
sản đã cận kề. Trước tình hình như vậy, thiết nghĩ mỗi công ty cổ phần cần phải
chủ
động và khẩn trương thực hiện các giải pháp huy động vốn hoạt động, làm cho tình
hình tài chính doanh nghiệp lành mạnh, vượt qua khó khăn nhất thời, tạo thế phát
triển bền vững trong thời kỳ hậu cổ phần hóa. Trước mắt, đề xuất cần thực hiện
các
giải pháp bổ trợ chủ yếu sau đây:
3.2.4.1. Kiểm kê, rà soát lại toàn bộ tài sản hiện có của DN, thanh lý,
nhượng bán những tài sản không cần dùng, ứ đọng để thu hồi vốn
Mỗi công ty cần phải kiểm kê tài sản, phân loại tài sản cần dùng, không cần
dùng, kém và mất phẩm chất. Loại không cần dùng, kém và mất phẩm chất cần có
biện pháp thanh lý, nhượng bán. Trong các công ty sản xuất có tồn kho thành phẩm
khá lớn, cần phân loại để có kế hoạch tiêu thụ những mặt hàng ứ đọng lâu ngày.
Đối
với những mặt hàng này, càng để lâu càng mất giá, thà chịu lỗ giải phóng sớm còn
hơn cứ giữ lại, tốn thêm chi phí bảo quản, chiếm diện tích kho tàng lại phải vay
vốn
lưu động dự trữ, trả lãi vay ngày càng tăng.
Mặt khác, nhiều công ty tồn đọng nguyên vật liệu, dụng cụ sản xuất khá lớn,
cần được phân loại để thanh lý, nhượng bán, thu hồi vốn. Kinh nghiệm thanh lý,
nhượng bán vật liệu, dụng cụ tồn đọng nên theo từng lô hàng (không nhượng, bán
67
từng thứ), cả thứ nhiều người mua cần dùng lẫn thứ ít người cần mua, và bán theo
phương thức đấu giá cả lô hàng. Thanh lý, nhượng bán theo lô hàng thường không
thấp hơn giá trị ghi sổ kế toán của công ty.
Xây dựng kế hoạch và lộ trình cụ thể xử lý các khoản nợ phải thu và phải trả.
Trước mắt mỗi công ty cần phải tiến hành đối chiếu, lập biên bản xác nhận nợ,
xác
định số nợ, thống nhất thời hạn thanh toán từng khoản nợ. Đối với các khoản nợ
phải
thu về giá trị lớn cần phân định rõ nợ có khả năng thu hồi, nợ không có khả năng
thu
hồi, nợ quá hạn và dây lâu ngày, cần xử lý theo cơ chế tài chính hiện hành. Các
khoản nợ phải thu cần cân nhắc kỹ kết quả thu nợ và chi phí thu nợ, tránh tình
trạng
chi phí thu nợ cao hơn nhiều lần số nợ được thu.
Đối với các khoản nợ phải trả, cần xây dựng kế hoạch và lộ trình thanh toán
gốc và lãi (nếu có). Các khoản thanh toán cần theo thứ tự ưu tiên thanh toán các
khoản tiền lương và có tính chất lương cho người lao động, nộp các khoản thuế
cho
ngân sách Nhà nước, nộp BHXH, BHYT, sau đó đến các khoản thanh toán khác.
Thông thường các công ty có các khoản thanh toán thì lớn, nhưng khả năng tài
chính
lại có hạn, do vậy việc xây dựng kế hoạch và lộ trình thanh toán hết sức quan
trọng,
giúp công ty chủ động trong việc thanh toán nợ.
3.2.4.2. Giải pháp sử dụng hiệu quả Quỹ cổ phần hóa và phần thặng dư
vốn cổ phần
Quỹ cổ phần hóa được thành lập với mục đích cải thiện thu nhập ngoài giờ và
chăm sóc sức khoẻ cho công nhân tại các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần
hoá. Ngoài ra, quỹ còn được sử dụng nhằm hỗ trợ một phần tài chính trong giai
đoạn
đầu chuyển đổi các doanh nghiệp nói trên. Theo quy định, quỹ cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước sẽ được Ngân hàng Nhà nước cấp vốn. Nguồn hình thành quỹ là tiền
bán tài sản thuộc các doanh nghiệp Nhà nước đã giải thể và hỗ trợ của các tổ
chức
quốc tế. Chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố chịu trách nhiệm quản lý
hoạt động của các chi nhánh quỹ tại địa phương.
Hầu hết tất cả các công ty cổ phần thực hiện cổ phần hóa cho đến nay đều
hoạt động chưa hiệu quả và còn gặp khó khăn về vốn và khả năng huy động vốn. Cho
68
nên, đề xuất giải pháp cho hậu cổ phần hóa, các công ty cổ phần tại Lâm Đồng nên
kiến nghị giữ lại nguồn quỹ cổ phần hóa này cho hoạt động sản xuất kinh doanh,
đây
cũng là kênh vốn quan trọng trong giai đoạn đầu hoạt động của các công ty cổ
phần.
Trong nghị định 187 chỉ rõ, một trong các hình thức cổ phần hóa là giữ
nguyên phần vốn nhà nước và phát triển thêm, phần thặng dư dôi ra trong quá
trình
phát hành phải trả về cho nhà nước. Đây là một quy định đi ngược với thông lệ
quốc
tế. Ngay cả ở Trung Quốc, phần thặng dư này cũng được giữ lại cho doanh nghiệp.
Ngay cả các công ty tư nhân Việt Nam, việc huy động vốn lần đầu họ cũng để lại
cho
doanh nghiệp, chủ công ty không thu về cho mình. Quy định này dẫn đến tâm lý
chung của các doanh nghiệp là không muốn huy động vốn trong quá trình cổ phần
hóa, trừ khi khi thặng dư được giữ lại cho công ty cổ phần.
Như vậy, cần chấm dứt tình trạng DNNN cổ phần hóa bằng hình thức phát
hành thêm cổ phiếu, nhưng phần thặng dư lại trả về cho nhà nước. Nếu nhà nước
tiếp
tục thực hiện hình thức này thì sẽ tiếp tục khuyến khích các công ty cổ phần làm
tương tự. Họ sẽ lý luận rằng nếu nhà nước làm vậy thì các công ty cổ phần cũng
có
quyền làm vậy và dẫn tới việc các công ty niêm yết có thể huy động vốn, lấy
thặng
dư chia cho các cổ động cũ, còn cổ đông mới hoàn toàn không được gì từ thặng dư
vốn do chính mình đóng góp vào.
Bên cạnh đó, một giải pháp khác song song trong phần giải pháp này là các
công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng có thể nên bỏ việc phân phối theo tiêu chuẩn về cổ
phần ưu đãi cho người lao động. Bởi vì, thực tế, người lao động có thu nhập và
sống
chủ yếu bằng tiên công, tiền lương, không ai sống bằng cổ tức. Vì vậy, muốn cải
thiện được đời sống của công nhân, của người lao động thì không phải bằng cách
bán
ưu đãi cho một số cổ phiếu mà phải cải cách doanh nghiệp. Doanh nghiệp phát
triển
tốt sẽ trả lương cao cho công nhân. Chính sách ưu đãi cho người lao động là
đúng, là
tốt, nhưng cần xem xét ưu đãi như thế nào cho hiệu quả.
Ưu đãi bằng bán cổ phần cho công nhân thì tiêu cực không phải ở chỗ công
nhân “bán lúa non” mà ở chỗ có một số người lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của công
69
nhân và nhờ vào lợi thế thông tin đặc quyền, không công khai để mua lại cổ phiếu
của họ với giá hời.
Xét tất cả những điều nói trên, thì các công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng nên
thực hiện tất cả các cổ phiếu của doanh nghiệp có cả cổ phiếu ưu đãi đều cho đấu
giá
công khai, sòng phẳng. Lãi hoặc chênh lệch giá thu được qua đấu giá nên trích ra
với
một tỷ lệ hợp lý và chia cho công nhân và cán bộ theo tiêu chí nhất định. Người
lao
động nếu muốn mua cổ phần họ cũng phải mua bình thường như những nhà đầu tư
khác. Làm như vậy cũng có thể khắc phục được một số tiêu cực trong đấu giá, đấu
thầu, hoặc tìm cách giảm giá doanh nghiệp khi cổ phần hóa. Nhà nước cũng không
lo
lắng về vai trò làm thuê của công nhân vì trong nền kinh tế thị trường hiện đại
không
chỉ công nhân mà cả giám đốc cũng là người làm thuê, làm công ăn lương. Các cơ
quan quản lý nhà nước nên thực hiện những cơ chế như thế nào để mọi người lao
động hết khả năng và được trả công xứng đáng.
3.2.4.3. Giải pháp bán hết hoặc bán bớt một phần số lượng cổ phần chi
phối của Nhà nước trong các công ty cổ phần cho các nhà đầu tư để tăng vốn
hoạt động
Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của việc chuyển công ty nhà nước thành công ty
cổ phần như sau:
- Chuyển đổi những công ty nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn
sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá nhân, các
tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để tăng năng lực tài
chính, đổi
mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
- Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người
lao động trong doanh nghiệp.
- Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình
trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị
trường
vốn, thị trường chứng khoán.
Căn cứ vào những mục tiêu trên và so sánh với điều kiện và khả năng của các
công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng cho thấy tất cả các công ty cổ phần đều là những
công ty hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh bình thường, không có
70
công ty nào hoạt động trong các lĩnh vực mà nhà nước cần phải nắm giữ cổ phần
chi
phối. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng huy
động vốn thì cổ phần của nhà nước trong các công ty cổ phần tỉnh Lâm Đồng nên
bán
và không cần phải nắm giữ cổ phần chi phối.
Tại Lâm Đồng, phần lớn doanh nghiệp cổ phần Nhà nước đều chiếm tỷ trọng
cổ phần trên 50%. Đến nay, hầu hết các Công ty cổ phần đều phát triển sản xuất
kinh
doanh, kết quả và hiệu quả kinh doanh có chiều hướng tăng lên rõ rệt. Nhiều Công
ty
cổ phần, có cổ tức cổ phần hàng năm trên 20%, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư
vốn. Các Công ty cổ phần cần tiến hành kiểm toán độc lập các báo cáo quyết toán
tài
chính năm; đồng thời làm các thủ tục đăng ký và niêm yết trên thị trường chứng
khoán. Mỗi doanh nghiệp cần cân nhắc cổ phần Nhà nước trong mỗi Công ty cổ phần
trong tình hình hiện nay và căn cứ vào quy định của Nhà nước cần nắm giữ bao
nhiêu
cổ phần là hợp lý, để có kế hoạch và biện pháp bán bớt hoặc bán hết cổ phần chi
phối
của Nhà nước. Chắc chắn mệnh giá trên thị trường của mỗi cổ phần sẽ cao hơn mệnh
giá cổ phần khi cổ phần hoá.
Hơn nữa, tiến trình cổ phần hóa ngày càng cho thấy chỉ có cổ phần hóa thực
sự, đại chúng hóa công ty thì doanh nghiệp mới tốt lên hơn. Nhà nước không mất
gì
cả mà sẽ được nhiều. Người lao động có thu nhập cao, còn xã hội sẽ phát triển
nhờ có
một hệ thống doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt, cạnh tranh tốt. Chức năng chủ
yếu của doanh nghiệp là kinh doanh và kinh doanh tốt, làm ra nhiều của cải cho
xã
hội. Vì vậy, tùy thuộc vào giai đoạn mà hỗ trợ, khuyến khích loại doanh nghiệp
nào
phát triển. Khi đã hình thành được thị trường cạnh tranh thực sự trong ngành nào
đó
thì Nhà nước nên rút vốn ra để các doanh nghiệp đảm nhận việc sản xuất kinh
doanh,
cạnh tranh phát triển. Vốn nhà nước sẽ tập trung vào ngành khác, lĩnh vực khác…
Tại địa phương tỉnh Lâm Đồng cũng vậy, hiện nay các công ty có vốn nhà
nước đã đến lúc nhà nước nên rút vốn của mình ra bằng những cách thức đã nêu
trên.
Phải bỏ được ý nghĩ: “Dù quyết tâm phải cổ phần hóa nhưng nhà nước vẫn chưa dám
buông doanh nghiệp, hay cổ phần hóa hết thì Nhà nước không nắm được gì nữa”
3.2.4.4. Thay đổi chính sách phân chia lợi nhuận và giữ lại lợi nhuận để
tái đầu tư