Luận văn Thạc sĩ Kinh tế nông nghiệp: Sinh kế bền vững cho hộ dân tộc H’Mông huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
4,833
27
94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
http://lrc.tnu.edu.vn
ix
TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
1. Tên tác giả: Nguyễn Việt Bảo
2. Tên luận văn: Sinh kế bền vững cho hộ dân tộc H’Mông huyện Võ Nhai
tình Thái Nguyên
3. Ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 8.62.01.15
4. Cơ sở đào tạo: Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Thái Nguyên là tỉnh miền núi, dân số gần 1,2 triệu người, gồm nhiều
dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 8 dân tộc dân số trên 2.000 người là:
Kinh, Tày, Nùng, Sán dìu, Sán chay, Dao, H’Mông, Hoa. Đồng bào dân tộc
H’Mông là 1 trong 8 dân tộc thiểu số có dân số khá đông sinh sống trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên. Đồng bào dân tộc H’Mông cư trú chủ yếu tập trung ở
các sườn núi cao có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa hình
hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, nhiều xóm chưa có điện lưới; nhiều công
trình hạ tầng thiết yếu còn thiếu và ở mức thấp kém.
Trong cộng đồng trên 8 dân tộc sinh sống trên địa bàn huyện Võ Nhai
tỉnh Thái Nguyên, dân tộc H’Mông là một trong những dân tộc thiểu số có số
lượng là 895 hộ với 4.572 nhân khẩu, sinh sống từ lâu đời tại địa phương
nhưng chủ yếu sống tập trung tại một số xã của huyện Võ Nhai. Vì điều kiện về
thời gian không cho phép, trong nghiên cứu này tôi tập trung phân tích, đánh
giá thực trạng sinh kế của hộ dân tộc H’Mông thông qua các nguồn lực sinh kế,
từ đó đề xuất các giải pháp sinh kế bền vững cho hộ dân tộc H’Mông huy ện Võ
Nhai tỉnh Thái Nguyên. Tương ứng với đó là mục tiêu cụ thể bao gồm: (1) Hệ
thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về sinh kế cho đồng bào dân tộc.(2) Đánh
giá thực trạng sinh kế của đồng bào dân tộc H’Mông huyện Võ Nhai tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 2017 - 2029. (3) Đề xuất định hướng và một số giải pháp
nhằm phát triển sinh kế bền vững của đồng bào dân tộc H’Mông huyện Võ
Nhai tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2020 - 2025 định hướng 2030.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
http://lrc.tnu.edu.vn
x
Trong nghiên cứu này tôi sử dụng số liệu thứ cấp và sơ cấp để đưa ra
các phân tích nhận định. Trong đó số liệu thứ cấp thu thập từ nguồn báo cáo
văn bản liên quan đến các chính sách cho hộ dân tộc H’Mông. Số liệu sơ cấp
được thu thập bằng các công cụ điều tra bằng bảng hỏi đối với 150 hộ dân tộ
H’Mông tại 3 xã của huyện Võ Nhai. Qua phân tích sinh kế của hộ dân tộc
H’Mông tác giả thấy được:
- Hoạt động kinh tế của hộ gia đình chủ yếu là sản xuất nông nghiệp với
trồng trọt là chủ yếu, ngoài ra các thành viên trong hộ còn nhận làm thuê nông
nghiệp và phi nông nghiệp
- Yếu tố con người: Số người trong độ tuổi lao động tuy dồi dào, tỷ lệ
người khỏe mạnh cao nhưng trình độ tương đối thấp.
- Yếu tố tự nhiên: Nguồn nước đáp ứng tương đối đầy đủ và có chất
lượng khá tốt. Đất đai chủ hộ dân tộc chủ yếu là được thừa kế, khai phá ngoài ra
còn mua thêm và được chính quyền cấp;
- Yếu tố tài chính: Về vốn tín dụng thì phần lớn hộ dân tộc không còn
vay mượn có thể tự xoay sở được, đối với hộ còn vay mượn với mục đích là
đầu tư vào sản xuất và lo cho con cái học hành.
- Yếu tố vật chất: Diện tích thổ cư của các hộ dân tộc có mức từ trung
bình đến khá rộng tuy nhiên tình trạng nhà ở phần lớn là nhà bán kiên cố,
- Yếu tố xã hội: Hội họp tham gia các tổ chức đoàn thể tại địa phương
phần nhiều số hộ dân tộc không tham gia. Quan hệ giữa hộ dân tộc H’Mông đối
với các dân tộc khác cùng chung sống trên địa bàn khá tốt đẹp
Thông qua phân tích, đánh giá sinh kế tác giả đề xuất 04 nhóm giải
pháp nhằm tạo sinh kế bền vững cho hộ dân tộc H’Mông huyện Võ Nhai tỉnh
Thái Nguyên giai đoạn 2020 - 2025.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
http://lrc.tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thành tựu giảm nghèo ở Việt Nam suốt hơn 20 năm qua đã được các
nghiên cứu trong vào ngoài nước đánh giá rất cao. Đồng thời, ghi nhận các nỗ
lực, quyết tâm giảm nghèo của Việt Nam thể hiện qua hệ thống chính sách và
phương thức sinh kế ngày càng đa dạng và ngày càng toàn diện hơn. Các
chính sách này không chỉ hỗ trợ trực tiếp về đời sống cho các nhóm nghèo mà
còn mở ra nhiều cơ hội thoát nghèo cho họ dựa trên các chính sách phát triển
về sinh kế, tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xã hội…
Sự chênh lệch về giàu nghèo ở Việt Nam vẫn còn khá cao. Người
DTTS chiếm 15% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 70% nhóm đối
tượng cực nghèo. Mặc dù, Chính phủ đã tập trung nguồn lực đầu tư phát triển
các lĩnh vực về an sinh xã hội song thành quả được hưởng của nhóm đối
tượng này còn kém xa so với dân tộc chiếm đa số là người Kinh. Chính vì
điều đó, sinh kế bền vững đang là mối quan tâm hàng đầu của người dân, đặc
biệt là đồng bào DTTS.
Thái Nguyên là tỉnh miền núi, dân số gần 1,2 triệu người, gồm nhiều
dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 8 dân tộc dân số trên 2.000 người là:
Kinh, Tày, Nùng, Sán dìu, Sán chay, Dao, H’Mông, Hoa. Đồng bào dân tộc
H’Mông là 1 trong 8 dân tộc thiểu số có dân số khá đông sinh sống trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên. Đồng bào dân tộc H’Mông cư trú chủ yếu tập trung ở
các sườn núi cao có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa hình
hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, nhiều xóm chưa có điện lưới; nhiều công
trình hạ tầng thiết yếu còn thiếu và ở mức thấp kém.
Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào H’Mông còn ở mức rất cao, tỷ lệ hộ
nghèo bình quân chung của 26 xóm đặc biệt khó khăn có nhiều đồng bào dân
tộc H’Mông sinh sống là trên 54%; đặc biệt có 4 xóm có tỷ lệ hộ nghèo 100%
(xóm Lân Đăm, xã Quang Sơn; xóm Mỏ Nước, xóm Bản Tèn xã Văn Lăng;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
http://lrc.tnu.edu.vn
2
Mỏ Chì xã Cúc Đường); có 5 xóm tỷ lệ hộ nghèo từ 70 - 85% (xóm Khuổi
Mèo xã Sảng Mộc 85%; xã Thượng Nung có 3 xóm Lũng Luông: 71%, xóm
Lũng Hoài: 75%, xóm Lũng Cà: 77%; xóm Liên Phương xã Văn Lăng:
78,38%); có 13/47 xóm có tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc H’Mông nghèo 100%
(UBND tỉnh Thái Nguyên, 2019).
Võ Nhai là một huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên với 8 xã có 12
xóm và 895 hộ với 4.572 khẩu có đồng bào dân tộc H’Mông sinh sống
(UBND huyện Võ Nhai, 2019). Để nhằm mục đích phát triển kinh tế cho các
hộ dân tộc H’Mông thì sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc H’Mông trên địa
bàn huyện Võ Nhai nhằm khai thác hiệu quả các nguồn lực sẵn có là hết sức cần
thiết. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Sinh kế bền vững cho hộ dân tộc H’Mông
huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên” để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về sinh kế cho đồng bào
dân tộc.
- Đánh giá thực trạng sinh kế của đồng bào dân tộc H’Mông huyện Võ
Nhai tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2017 – 2019.
- Đề xuất định hướng và một số giải pháp nhằm phát triển sinh kế bền
vững của đồng bào dân tộc H’Mông huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 2020 - 2025 định hướng 2030.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng sinh kế của đồng bào dân tộc
H’Mông huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Về nội dung
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nguồn lực sinh kế của đồng bào dân
tộc H’Mông huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên
4.2. Về không gian: Luận văn được thực hiện nghiên cứu trên phạm vi huyện
Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
http://lrc.tnu.edu.vn
3
4.3. Về thời gian
- Về thời gian: các số liệu thứ cấp được thu thập từ năm 2017 - 2019, số
liệu sơ cấp được điều tra năm 2019.
- Các giải pháp phát triển sinh kế của đồng bào dân tộc H’Mông huyện
Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2020 - 2025 định hướng 2030.
5. Những đóng góp mới, ý nghĩa khoa học hoặc thực tiễn
5.1. Những đóng góp mới của luận văn
5.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về mặt khoa học: Đề tài là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà khoa
học, các sinh viên, học viên cao học trong việc nghiên cứu các vấn đề về sinh
kế của đồng bào dân tộc thiểu số
Về mặt thực tiễn: Đề tài là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích, thực tế
cho các cấp chính quyền trong vấn đề sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số
Đối với tác giả: Hiện đang là cán bộ quản lý về công tác dân tộc tỉnh
Thái Nguyên nên đề tài có ý nghĩa quan trọng đối với tác giả trong công việc
của mình để có thể tham mưu đưa ra các chính sách thiết thực cho sinh kế
đồng bào dân tộc H’Mông tại huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
http://lrc.tnu.edu.vn
4
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm Sinh kế
Sinh kế còn có các cách gọi đồng nghĩa là “Kế mưu sinh”, “Hoạt động
mưu sinh”, “Phương thức mưu sinh”, là thành tố quan trọng trong đời sống
tộc người, có quan hệ mật thiết và có ảnh hưởng lớn đến các thành tố khác
như chính trị, văn hóa, xã hội… Theo nghĩa Hán - Việt, “Mưu” là cách thức,
phương cách, còn “Sinh” là sinh sống để tồn tại. Hiểu theo nghĩa triết tự và
chung nhất, “hoạt động mưu sinh” là những cách thức, những phương cách
kiếm sống nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất: ăn, mặc, ở và sinh hoạt của
con người, của cộng đồng và của các tộc người.
Robert Champers được coi là một trong những người đầu tiên sử
dụng khái niệm “Sinh kế”. Theo ông, sinh kế gồm năng lực, tài sản, cách
tiếp cận (sự dự trữ, tài nguyên, quyền sở hữu, quyền sử dụng) và các hoạt
động cần thiết cho cuộc sống”. Đồng dạng quan điểm với Robert
Champers, các tác giả Emily A. Schultz - Robert H. Lavenda, sinh kế là các
của cải vật chất (lương thực, quần áo, nhà ở…) mà con người tạo ra để duy
trì cuộc sống (Nguyễn Văn Sửu (2010).
Tổ chức CRD (Trung tâm phát triển nông thôn miền Trung Việt Nam)
khi triển khai các chương trình hoạt động phát triển cộng đồng đưa ra quan
điểm: sinh kế là “tập hợp tất cả các nguồn lực và khả năng mà con người có
được, kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm kiếm
sống cũng như để đạt được các mục tiêu, ước nguyện của họ”
Trong khi đó, Bộ Phát triển quốc tế Anh (DFID) quan niệm “sinh kế bao
gồm các khả năng, các tài sản (bao gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội) và
các hoạt động cần thiết để kiếm sống” (Nguyễn Đăng Hiệp Phố (2016).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
http://lrc.tnu.edu.vn
5
Ở Việt Nam, khái niệm “Sinh kế” không có trong Từ điển bách khoa
Việt Nam. Trong Đại từ điển Tiếng Việt chỉ có một câu ngắn gọn về khái niệm
này: “Sinh kế là việc làm để kiếm ăn, để mưu sống”.
Khái niệm “Sinh kế” thường được sử dụng để nghiên cứu phương cách
kiếm sống của các tộc người đang ở trình độ phát triển kinh tế - xã hội tiền
công nghiệp, gồm các bộ phận: trồng trọt, chăn nuôi, nghề thủ công, trao đổi
và khai thác các nguồn lợi tự nhiên. “Hoạt động kinh tế” gồm nhiều yếu tố
hay cấp độ. Trước hết, sinh kế gồm hai yếu tố chính là hoạt động sản xuất và
hoạt động chiếm đoạt. Hoạt động sản xuất gồm 4 thành tố cơ bản: trồng trọt,
chăn nuôi, nghề thủ công và trao đổi hàng hóa; hoạt động chiếm đoạt gồm săn
bắn, đánh bắt và hái lượm. Trong trồng trọt lại chia thành trồng trọt ruộng
nước, trồng trọt nương rẫy và làm vườn; chăn nuôi lại chia thành chăn nuôi
gia súc và gia cầm. Nghề thủ công cũng có thể chia thành các nghề như đan
lát, dệt vải, gốm, rèn; trao đổi có thể gồm trao đổi nhằm mục đích tự cấp tự
túc và trao đổi nhằm mục đích hàng hóa...
Cách phân loại trên được trình bày “theo mẫu” khi viết về hoạt động
kinh tế trong các giản chí dân tộc học hay trong các chuyên khảo.
1.1.1.2. Sinh kế bền vững
Sinh kế bền vững là khái niệm dùng để chỉ các hoạt động mưu sinh
tương đối bền vững với thời gian, ứng phó được với những thay đổi của môi
trường sống. Từ quan điểm chung này, các học giả lại phát triển thêm các ý
tưởng khác nhau. Koos Neefjes cho rằng, sinh kế phụ thuộc vào các khả năng
và nguồn lực vật chất và xã hội; sinh kế của một gia đình, hay cá nhân chỉ được
coi là bền vững khi có thể đương đầu và phục hồi trước những căng thẳng, biến
động; các khả năng và của cải có thể tồn tại được và được nâng cao trong
tương lai và không làm tổn hại đến các nguồn lực của môi trường. Hanstad
cũng đưa ra quan điểm tương tự, rằng, một sinh kế được coi là bền vững khi có
khả năng ứng phó và phục hồi khi bị tác động, có thể nâng cao các khả năng và
tài sản ở thời điểm hiện tại và trong tương lai, đồng thời không làm ảnh hưởng
đến nền tảng của các nguồn lực tự nhiên (Trịnh Thị Hạnh (2017).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
http://lrc.tnu.edu.vn
6
Lý thuyết khung sinh kế bền vững DFID hay tiếp cận sinh kế theo
khung sinh kế bền vững được trình bày trong các nghiên cứu của các tác giả
Chambers và Conway, Scoones…, đến nay được sử dụng rộng rãi trong
nghiên cứu về mối quan hệ giữa sinh kế với đói nghèo. Theo khung phân tích
này, sinh kế bao gồm các yếu tố hợp thành là:
- Các ưu tiên trong việc mưu sinh mà con người có thể nhận biết được;
- Các chiến lược để mưu sinh mà mỗi người, gia đình hay cộng đồng cư
dân lựa chọn để theo đuổi các ưu tiên ở trên
- Các thể chế, chính sách và tổ chức quyết định đến sự tiếp cận của cá
nhân, tập thể đối với các loại tài sản hay cơ hội và các kết quả mà họ thu được;
- Các tiếp cận của cá nhân, cộng đồng cư dân đối với năm loại vốn và
khả năng sử dụng hiệu quả các loại vốn mà họ đang có
Bối cảnh sống của con người, bao gồm các xu hướng kinh tế, công
nghệ, dân số, các cú sốc và mùa vụ.
1.1.1.3. Khung sinh kế bền vững
Khung phân tích sinh kế bền vững chia vốn mà con người sử dụng để
sinh kế thành năm loại tài sản vốn, hay hình thức vốn, gồm:
- Vốn tự nhiên là tất cả những nguyên vật liệu tự nhiên để tạo dựng sinh
kế. Vốn tự nhiên rất đa dạng, bao gồm đất đai, nước, rừng, đa dạng sinh học,
và những nguồn tài nguyên không thể tái tạo được như các loại khoáng sản
(than đá, sắt, đồng…).
- Vốn vật chất gồm các công trình hạ tầng như nhà cửa, tiện nghi sinh
hoạt, dụng cụ sản xuất để hỗ trợ cho các hoạt động sinh kế (còn gọi là vốn do
con người làm nên), phản ánh hiện trạng kinh tế và phương thức phát triển
sinh kế của hộ gia đình; đồng thời là yếu tố đầu tiên khi đánh giá tiềm năng,
khả năng sinh kế của mỗi cộng đồng hay hộ gia đình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
http://lrc.tnu.edu.vn
7
- Vốn tài chính là các nguồn lực tài chính (tiền và các loại tài sản có thể
quy thành tiền), như thu nhập thường xuyên, tiền tiết kiệm, hay các nguồn thu
khác được sử dụng cho các hoạt động và mục tiêu sinh kế;
- Vốn xã hội là nguồn lực xã hội được sử dụng để phục vụ cho các mục tiêu
sinh kế của mình, gồm quan hệ, mạng lưới, thành viên nhóm, niềm tin, sự phụ
thuộc lẫn nhau và trao đổi cung cấp các mạng an ninh phi chính thống quan trọng;
- Vốn con người gồm kinh nghiệm, kỹ năng, sức khỏe, tri thức của
người lao động, hay số lượng, chất lượng của nguồn lao động là những yếu tố
cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động sinh kế.
Đối với hộ gia đình, vốn con người là số lượng và chất lượng lao động
của hộ, tùy thuộc vào quy mô của hộ, trình độ giáo dục và kỹ năng nghề
nghiệp, khả năng quản lý, tình trạng sức khỏe, các hiểu biết của các thành
viên trong hộ gia đình, nhất là chủ hộ về các chính quyền, luật pháp, các
chính sách, các thủ tục liên quan đến các hoạt động sinh kế mà hộ gia đình
đang thực hiện hoặc dự định thực hiện.
Gần đây, nhiều nhà Dân tộc học Việt Nam phân các nguồn vốn thành
hai loại nguồn là nguồn vốn xã hội (nguồn lực con người tức người lao động
và xã hội hay cộng đồng mà con người đang sinh sống và vốn tài chính cũng
nằm trong xã hội) và nguồn lực tự nhiên (vốn tự nhiên, vốn vật chất).
(Nguyễn Đăng Hiệp Phố (2016)
1.1.2. Đặc điểm của sinh kế bền vững cho hộ dân tộc
- Sinh kế bền vững cho hộ dân tộc có những đặc điểm sau
Thứ nhất, hộ dân tộc thường có vị thế yếu trong xã hội và trong kinh tế
thị trường hiện nay do các yếu tố có tính đặc trưng của DTTS cũng như do
mối quan hệ tương quan về kinh tế, chính trị, trình độ học vấn với dân tộc đa
số. Vì thế, khi bàn tới sinh kế của gia đình DTTS người ta thường chú ý đến
khía cạnh hỗ trợ để họ vươn lên bình đẳng với dân tộc đa số.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
http://lrc.tnu.edu.vn
8
Thứ hai, hộ dân tộc thường duy trì truyền thống và kỹ thuật canh tác
nông nghiệp lạc hậu, mang tính tự cung, tự cấp, khó hòa nhập vào kinh tế thị
trường hiện đại, nên khi bàn về sinh kế của hộ gia đình DTTS người ta thường
tiếp cận theo hướng hỗ trợ họ cải tiến phương thức tổ chức sản xuất có lợi cho
họ và hòa nhập với kinh tế thị trường.
Thứ ba, đa phần hộ dân tộc ở Việt Nam nói chung, ở huyện Võ Nhai
nói riêng, chủ yếu sống bằng nghề nông, lĩnh vực thường có thu nhập thấp,
nhiều rủi ro trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Chính vì thế, phát triển
sinh kế của hộ gia đình DTTS, ngoài việc hỗ trợ họ chuyển nghề, đa phần
liên quan đến phát triển nông nghiệp bền vững, một lĩnh vực rất khó khăn
hiện nay ở nước ta.
Ngoài ra, khi phân tích sinh kế của hộ gia đình DTTS, cần chú ý đến sự
thay đổi nhu cầu của người dân do các biến động xã hội tạo ra cũng như những
ảnh hưởng của môi trường vĩ mô, điều kiện tự nhiên đến hoạt động sinh kế của
họ. Để tồn tại, con người luôn phải thực hiện các hoạt động đảm bảo các nhu cầu
của cuộc sống như ăn, mặc, ở, các nhu cầu văn hóa tinh thần, phát triển bản
thân,... xã hội ngày càng phát triển thì càng tạo điều kiện đáp ứng tốt hơn, cao
hơn nhu cầu của con người. Do đó, mục tiêu của sinh kế, không hiểu theo nghĩa
hẹp là đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở tối thiểu để tồn tại, mà phải là đáp ứng nhu
cầu vật chất và tinh thần ở mức trung bình và trên trung bình của xã hội.
(Nguyễn Thế Anh (2019)
1.1.3. Vai trò của sinh kế bền vững đối với hộ dân tộc
Nâng cao thu nhập: Nâng cao thu nhập là mục tiêu của hoạt động sinh
kế của hộ gia đình. Mặc dù thu nhập không phải là tiêu chí hoàn hảo để đánh
giá nghèo đói và phúc lợi, nó vẫn là mục tiêu mà các hộ gia đình hướng tới và
là cơ sở để đem lại sinh kế bền vững.
Nâng cao phúc lợi: bên cạnh thu nhập, hộ gia đình còn hướng tới các mục
tiêu phi tài chính khác như sự an toàn, sức khỏe, uy tín, vị trí chính trị, văn
hóa
tinh thần,… cùng với thu nhập, chúng tạo thành phúc lợi của hộ gia đình.