Luận văn thạc sĩ kinh tế: Những khía cạnh thương mại liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và khả năng khai thác đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
9,772
266
115
79
Nguồn:
https://203.162.163.40/noip/resource.nsf/vwResourceList/0459E247C1628CAE4725713A003F5366/$F
ILE/report2005m.htm
Số liệu thống kê tại bảng 2.5 cho thấy rằng số lƣợng bằng độc quyền sáng
chế đã đƣợc cấp của ngƣời nƣớc ngoài là ngày càng nhiều hơn ngƣời Việt Nam.
Điều này một phần thể hiện rằng nền công nghệ của Việt Nam chúng ta còn thua
hơn các nƣớc bạn nhiều.
Nhƣ vậy, qua hai bảng số liệu 2.4 và 2.5 ở trên có thể thấy rằng, xét qua
từng năm số lƣợng bằng đƣợc cấp của Việt Nam ngày càng tăng ví dụ nhƣ năm
1997, Việt Nam không đƣợc cấp bằng sáng chế nào cả. Nhƣng trong năm 2005 Việt
Nam đƣợc cấp 27 bằng độc quyền sáng chế cho các tác giả. Tƣơng tự nhƣ vậy, năm
1989 số bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp đƣợc cấp là 87 bằng, nhƣng trong
năm 2005 số bằng đƣợc cấp là 508 bằng. Thực trạng từ tình hình cấp bằng sáng chế
nói trên ta thấy rõ ràng rằng hầu hết các sản phẩm đƣợc cấp bảo hộ vể sáng chế
là
của ngƣời nƣớc ngoài, và số lƣợng này có khuynh hƣớng tăng lên theo thời gian.
Đây cũng là một thực trạng đáng lƣu ý đối với vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp của các doanh nghiệp nƣớc ta cũng nhƣ về khả năng đầu tƣ cho nghiên cứu
và phát triển của họ.
2.3.1.2. Đã biết tận dụng và phát triển các chiến lược quảng cáo, truyền thông
cho
sản phẩm của doanh nghiệp mình.
Thực tế thấy cho thấy rằng trƣớc đây các doanh nghiệp Việt Nam chỉ quen
sản xuất mà không biết quảng cáo, tuyên truyền cho các sản phẩm của mình. Trên
các chƣơng trình vô tuyến hoặc trên báo chí không thấy hoặc rất ít trình chiếu
các
đoạn quảng cáo sản phẩm hoặc dịch vụ. Nhƣng đó là trƣớc kia từ cách đây gần 20
năm. Ngày nay đa số các doanh nghiệp đã biết quảng cáo cho sản phẩm của mình,
đánh bóng chúng để hợp với thị hiếu ngƣời tiêu dùng, làm chúng đặc sắc, hấp dẫn
để gây ấn tƣợng và để phân biệt đối với những loại hàng hóa cùng loại khác. Có
rất
nhiều loại hình quảng cáo, tuyên truyền cho sản phẩm khác nhau. Một số doanh
nghiệp đã tuyên truyền sản phẩm của họ đến tận điểm bán lẻ, các chợ. Việc làm
này
80
đã góp phần hƣớng dẫn các chủ bán hàng và ngƣời tiêu dùng phân biệt sản phẩm
thật, bài trừ nạn làm hàng giả. Đồng thời thông qua giao dịch trực tiếp với một
số
cửa hàng bán lẻ ở các chợ đầu mối sẽ giúp doanh nghiệp phần nào tìm hiểu về tình
hình làm hàng giả hàng nhái của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, tuỳ vào loại hình
sản phẩm khác nhau mà có những doanh nghiệp áp dụng phƣơng pháp này, doanh
nghiệp không áp dụng phƣơng pháp này.
2.3.1.3. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang từng bước chủ động tự bảo vệ mình.
Một số các doanh nghiệp chủ động tự bảo vệ mình thông qua các hình thức:
Cùng hợp tác với đối thủ cạnh tranh để đánh bại các tổ chức kinh doanh hàng giả
cùng ngành hàng. Trƣớc tình hình làm hàng giả tại Việt Nam ngày càng phức tạp và
đa dạng, ảnh hƣởng đến thị phần của doanh nghiệp, các doanh nghiệp cùng cạnh
tranh lành mạnh đã hợp lại với nhau, tổ chức hội nghị khách hàng để truyền thông
sản phẩm của công ty, cùng hợp tác với các doanh nghiệp có sản phẩm hỗ trợ cho
sản phẩm của doanh nghiệp mình.
2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân
Thứ nhất, việc vi phạm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp còn diễn ra và có
chiều hƣớng phức tạp. Nổi bật trong thời gian là việc vi phạm về kiểu dáng công
nghiệp của công ty Honđa, về thƣơng hiệu của Trung Nguyên, hay nƣớc mắm Phú
Quốc…. Nguyên nhân do sự phối kết hợp giữa trung ƣơng và địa phƣơng còn chƣa
thực chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nƣớc chịu trách nhiệmvề sở hữu trí tuệ, sự
thiếu
ý thức của một số bộ phận doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Sự thiếu kinh nghiệm
trong công tác thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, tiếp thị và truyền
thông.
Phải chăm sóc sản phẩm không chỉ trong sản xuất mà còn cả trong lƣu thông, phân
phối. Nhiều doanh nghiệp cho rằng chỉ cần nâng cao chất lƣợng sản phẩm thật tốt
là
sẽ thu hút đƣợc khách hàng, mở rộng thị phần, tăng lợi nhuận. Điều này đúng, tuy
nhiên, ở một khía cạnh khác thì nâng cao chất lƣợng sản phẩm thôi thì chƣa đủ.
Khi
sản phẩm bi làm giả, làm nhái, chất lƣợng sản phẩm không đƣợc tốt sẽ ảnh hƣởng
đến ngƣời tiêu dùng đầu tiên vì họ là ngƣời tiêu dùng sản phẩm đó, nhƣng cũng sẽ
ảnh hƣởng đến uy tín doanh nghiệp vì ngƣời tiêu dùng sẽ có thể mua sản phẩm cùng
81
loại của đối thủ cạnh tranh với công ty, với chất lƣợng sản phẩm thực tế có thể
thấp
hơn sản phẩm công ty nhƣng vẫn cao hơn sản phẩm làm giả, làm nhái.
Thứ hai, chƣa tận dụng hành lang pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp. Do doanh nghiệp Việt Nam còn chƣa nắm bắt rõ về cơ sở pháp lí về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp. Nhận thức yếu kém của bản thân các doanh nghiệp và
tâm lý luôn thích dùng hàng rẻ của ngƣời tiêu dùng Việt Nam. Theo Bộ khoa học
công nghệ, hầu hết các doanh nghiệp doanh nghiệp chƣa có ý thức đầy đủ về vai
trò, giá trị của tài sản trí tuệ. Rất ít doanh nghiệp có tổ chức bộ phận chuyên
chăm
lo về sở hữu trí tuệ. Hầu nhƣ chƣa có doanh nghiệp nào có chiến lƣợc về sở hữu
trí
tuệ hoặc coi vấn đề sở hữu trí tuệ là bộ phận trong chiến lƣợc phát triển của
mình.
Tài sản vô hình, trong đó có tài sản trí tuệ chƣa trở thành đối tƣợng quản lý
nhƣ
quản lý tài sản thông thƣờng. Sở hữu trí tuệ tiếp tục là một lĩnh vực mới mẻ với
đa
số cán bộ, công chức cũng nhƣ đối với hầu hết các nhà doanh nghiệp. Tuy nhiên,
cũng cần nhìn nhận rằng, để sử dụng đƣợc các cơ chế về sở hữu trí tuệ cần phải
có
thời gian, phải học hỏi và mất chi phí. Tất cả những điều đó gần nhƣ tạo thêm
gánh
nặng hoặc rào cản đối với những nỗ lực thâm nhập thị trƣờng của các doanh nghiệp
không có các đối tƣợng sở hữu trí tuệ đƣợc đăng ký. Môi trƣờng pháp lý với cơ
chế
bảo hộ sở hữu trí tuệ đã đặt doanh nghiệp vào những ràng buộc và có thể bị rơi
vào
các vụ kiện tụng, tranh chấp với những ngƣời khác. Vì lẽ đó, nhiều ngƣời, nhiều
doanh nghiệp còn thụ động, trông chờ vào Nhà nƣớc trong việc chăm lo, bảo vệ tài
sản trí tuệ.
Thứ ba, các doanh nghiệp Việt Nam còn chƣa chủ động trong việc đăng ký
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Một phần do các doanh nghiệp chƣa hiểu về
quyền sở hữu công nghiệp nói riêng, họ không hiểu đƣợc rằng việc đăng ký bảo hộ
đối tƣợng sở hữu công nghiệp là làm giấy khai sinh cho một loại hình sản phẩm,
không thể đợi sản phẩm đó lớn lên rồi mới đăng ký, mà thủ tục đăng ký bảo hộ thì
không phải một sớm một chiều là xong đƣợc thƣờng là phải mất đến cả năm. Trong
khi đó sản phẩm của doanh nghiệp ra đến thị trƣờng thì chỉ trong thời gian ngắn
vài
tháng thì sản phẩm làm giả đã xuất hiện khắp nơi. Khả năng tài chính hạn hẹp,
qui
82
mô phần lớn của các doanh nghiệp Việt Nam là nhỏ và rất nhỏ cũng là một hạn chế
lớn cho Việt Nam khai thác bảo hộ sở hữu công nghiệp ở nƣớc ngoài. Mặt khác, là
chi phí đăng ký cao, đặc biệt chi phí đăng ký tại nƣớc ngoài. Mặc dù việc đăng
ký
nhãn hiệu hoặc bằng phát minh sẽ dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi
nƣớc ta đã tham gia hiệp ƣớc Paris về bảo vệ sở hữu công nghiệp từ những năm 50
của thế kỷ trƣớc, và Hiệp ƣớc Hợp tác về Bằng sáng chế (Patent Co-operation
Treaty - PCT) năm 1993. và mới đây là Hiệp định TRIPS. (Đối với nƣớc thành
viên, các công ty của nƣớc đó có thể nộp hồ sơ đăng ký bằng sáng chế bằng một
ngôn ngữ quốc tế và chỉ nộp một lần tại nƣớc sở tại. Hồ sơ sau đó sẽ đƣợc chuyển
cho Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organisation -
Wipo) để phân phát cho 118 nƣớc thành viên). Tuy vậy, chi phí đăng ký bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp tại nƣớc ngoài còn cao so với khả năng của hầu hết các
doanh nghiệp Việt Nam. Chi phí cho một bộ hồ sơ đăng ký tại Thái Lan tốn 1.000
bath (khoảng 24 USD). Tại Nhật, phí đăng ký là 21.000 yên (khoảng 170 USD)
cộng với phí biên dịch 35.000 yên (khoảng 285 USD). Tại Mỹ, phí này là 375 USD
đối với công ty nhỏ và tăng lên đến 750 USD đối với công ty lớn [11].
Thứ tư, một số doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn ngại kiện tụng, sợ rằng các
tranh chấp pháp lí sẽ làm mang tiếng sản phẩm của họ và ảnh hƣởng đến việc tiêu
thụ hàng hóa. Một số khác lại cho rằng hoạt động kinh doanh không dính dáng gì
hết đối với quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, do môi trƣờng pháp lý với cơ
chế
bảo hộ đối tƣợng sở hữu công nghiệp đặt mọi doanh nghiệp vào những ràng buộc,
tranh cãi. Có lúc không xâm hại đến ai mà tự nhiên lại bị kiện do hành vi vi
phạm
của kẻ làm giả, kẻ gian dối đòi tranh chấp đối tƣợng sở hữu công nghiệp. Chỉ khi
doanh nghiệp đăng ký quyền sở hữu công nghiệp thì các cơ quan chức năng mới có
cơ sở để bảo vệ họ, và lâu dài thì chính nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công
nghiệp...
đăng ký đó sẽ trở thành tài sản của doanh nghiệp trong tƣơng lai, thậm chí có
giá rất
lớn nếu công việc kinh doanh của họ phát đạt. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần
có ý thức hợp tác với các cơ quan chức năng trong việc xử lý chống vi phạm.
83
Bảng 2.6: Đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế và giải pháp hữu ích nộp trực tiếp
cho Cục sở hữu trí tuệ theo nước xuất xứ từ năm 1997 đến 2005
Nguồn: Báo cáo hoạt động sở hữu trí tuệ 2005- Cục sở hữu trí tuệ
Thứ năm, Cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp phức tạp đã và đang đặt
các doanh nghiệp Việt Nam vào một môi trƣờng pháp lý phức tạp. Các doanh
nghiệp muốn bảo hộ cho sản phẩm, dịch vụ của mình lại phải tốn kém chi phí. Mà
trong thực tế bây giờ có nhiều doanh nghiệp còn không hiểu biết về quyền sở hữu
trí tuệ, chi phí thuê luật sƣ cao. Nên khi xảy ra tranh chấp quyền sở hữu trí
tuệ của
Việt Nam ở nƣớc ngoài, thủ tục pháp lý phức tạp, khiến nhiều doanh nghiệp Việt
Nam bỏ cuộc. Hiểu biết về pháp luật hạn chế, kinh nghiệm còn non yếu trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ là một thách thức không nhỏ với các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ sáu, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp khắt khe tạo nên sự bất
bình đẳng giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí
giữa nền kinh tế lớn với nền kinh tế nhỏ. Nếu xem xét số lƣợng sáng chế của Mỹ
84
vào Việt Nam, của các nƣớc vào Việt Nam. Điều chác chắn ta thấy rằng số lƣợng
đăng ký của Việt Nam chỉ chiếm phần rất nhỏ so với các nƣớc vào Việt Nam. Trên
bảng số liệu 2.6 cho ta thấy đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế và giải pháp hữu ích
của
Mỹ vào Việt Nam năm 1997 là 388, năm 2005 là 523, tƣơng tự Nhật Bản nộp đơn
đăng ký là 303 và 376, Việt Nam đăng ký là 54 đơn và 362 đơn. Nếu cộng tổng các
nƣớc nộp đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích từ năm 1997 đến 2005 so với
số đơn Việt Nam nộp vào thì có thể thấy rằng các chủ thể Việt Nam không có nhiều
cơ hội sử dụng cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ .
85
CHƢƠNG III
GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Cơ hội và thách thức trong việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
các doanh nghiệp Việt Nam sau khi là thành viên WTO
3.1.1. Gia nhập WTO: cơ hội đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong bảo hộ và
khai thác quyền sở hữu công nghiệp
Thứ nhất, hiện nay, các quốc gia phát triển hiện sở hữu phần lớn các phát
minh, sáng chế của nhân loại. Do vậy, có thể nói rằng pháp luật trong bảo hộ
quyền
sở hữu công nghiệp phần lớn là tạo điều kiện cho các nƣớc phát triển, các nƣớc
thành viên giàu có của WTO. Với nền tảng công nghệ hiện đại, các công ty nƣớc
ngoài rõ ràng có nhu cầu lớn hơn và do đó sẽ có lợi hơn trong việc đảm bảo quyền
sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, việc tham gia một sân chơi rộng lớn hơn, với các
hệ
thống pháp luật quốc tế cụ thể và khá đầy đủ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có
thêm điều kiện để đảm bảo việc thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của
mình không chỉ trong thị trƣờng nội địa mà còn trên thị trƣờng thế giới. Các
doanh
nghiệp Việt Nam sẽ đƣợc hƣởng những ƣu đãi quan trọng xuất phát từ nguyên tắc
Tối huệ quốc và nguyên tắc Đối xử quốc gia của Tổ chức này trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp. Việc trở thành thành viên chính thức của WTO đồng nghĩa với việc
tham gia toàn bộ các hiệp ƣớc đa phƣơng của WTO, bao gồm cả TRIPs. Một số
thƣơng hiệu nổi tiếng của Việt Nam nhƣ cà phê Trung Nguyên, chè Thái Nguyên
hay nƣớc mắm Phú Quốc sẽ có điều kiện phát triển hơn trên thị trƣờng thế giới
một
khi đã đƣợc đảm bảo về quyền sở hữu công nghiệp tại trên 150 nƣớc thành viên của
Tổ chức Thƣơng mại thế giới.
Thứ hai, việc tham gia vào thƣơng mại quốc tế với tƣ cách là doanh nghiệp
của một thành viên WTO sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm những
kinh nghiệm trong việc khai thác quyền sở hữu công nghiệp thông qua việc học
tập,
86
tiếp thu và trao đổi các kinh nghiệm với các đối tác. Việc bảo hộ quyền sở hữu
công
nghiệp trong thƣơng mại nói chung và trong thƣơng mại quốc tế nói riêng bao hàm
những yêu cầu phức tạp và chúng đòi hỏi sự cố gắng của tất cả các thành viên
WTO, đặc biệt là các nƣớc đang phát triển. Không những vậy, việc nghiên cứu sâu
rộng hơn về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng trở nên một yêu cầu bắt buộc
đối với các doanh nghiệp Việt Nam trên bƣớc đƣờng hội nhập.
Thứ ba, việc Việt nam gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới sẽ giúp các
doanh nghiệp giảm bớt các khoản chi phí trong việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp tại các quốc gia khác là thành viên của WTO. Thật vậy, với việc thực
hiện các nguyên tắc về Tối huệ quốc và nguyên tắc về Đối xử quốc gia trong WTO
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đƣợc đối xử nhƣ tất
cả
các doanh nghiệp nƣớc ngoài khác cũng nhƣ tất cả các doanh nghiệp của nƣớc sở
tại trên lãnh thổ quốc gia đó.
Thứ tư, một thuận lợi nói chung đối với các doanh nghiệp đến từ các nƣớc
thành viên nhỏ của WTO là việc đƣợc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO. Dù cho môi trƣờng quốc tế đã trở nên thông thoáng hơn, nhƣng trong thƣơng
mại quốc tế, việc thua thiệt là khó tránh khỏi đối với các nƣớc đang phát triển,
trong
đó có Việt Nam. Trong trƣờng hợp phát sinh tranh chấp trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nƣớc ngoài là thành
viên của WTO, các tranh chấp đó sẽ đƣợc giải quyết dựa trên những điều luật của
tổ
chức này. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO thông thoáng, ít tốn thời gian,
trên
cơ sở tự động và có tính ràng buộc. Cơ chế giải quyết tranh chấp đa biên không
cho
phép các nƣớc phát triển áp đặt luật của mình trong giải quyết tranh chấp. Trong
trƣờng hợp quyền sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp Việt Nam bị vi phạm,
quyền lợi của doanh nghiệp đó không những đƣợc đảm bảo tại Việt Nam, tại quốc
gia chủ quản của doanh nghiệp vi phạm quyền đó mà còn trên tất cả các quốc gia
thành viên khác của WTO.
3.1.2. Gia nhập WTO: thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn
đề bảo hộ và thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
87
Một trong những thách thức cơ bản liên quan đến hệ thống pháp luật của
nước ta. Có thể nói, Nhà nƣớc đã có rất nhiều cố gắng trong việc tạo ra một hành
lang pháp lí thông thoáng nhằm khuyến khích đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài cũng nhƣ
thƣơng mại quốc tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập. Sự ra đời của Luật Sở hữu trí
tuệ
năm 2005 mang một ý nghĩa sâu sắc đối với hệ thống luật sở hữu trí tuệ của nƣớc
ta. Sự ra đời của Luật này không những đáp ứng nhu cầu của hội nhập, khắc phục
những bất cập, làm cho hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và về sở
hữu
công nghiệp nói riêng của nƣớc ta gần hơn với các nƣớc mà còn thúc đẩy hoạt động
sáng tạo, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, phát triển thị trƣờng công nghệ.
Tuy
vậy, về Luật Sở hữu trí tuệ, vẫn còn một số vấn đề chƣa thật sự phù hợp để
khuyến
khích vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ nhất, về lý thuyết, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005, hành lang
pháp lý cơ bản chung về sở hữu trí tuệ ra đời rất phù hợp với yêu cầu của hội
nhập,
song trong thực tế còn thiếu các văn bản dƣới luật để qui định rõ các trƣờng hợp
vi
phạm, thiếu các qui định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và thiếu các chế tài
xử lý vi phạm việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Và quan trọng hơn cả, chúng
ta vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong thực thi luật sở hữu trí tuệ trong vấn đề bảo
hộ
quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam chƣa đƣa ra đƣợc một khung chế tài đủ mạnh để xử lí vi
phạm. Chẳng hạn theo Điều 214, Khoản 4, Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005,
qui định mức tiền phạt trong trƣờng hợp hàng vi phạm nhãn hiệu và hàng sao chép
lậu đƣợc ấn định ít nhất bằng giá trị hàng hóa vi phạm đã phát hiện được và
nhiều
nhất không vượt quá năm lần giá trị hàng hóa vi phạm đã phát hiện được. Trong
thực tế, nếu mức lợi nhuận thu đƣợc từ các hoạt động vi phạm quyền sở hữu công
nghiệp cao hơn so với mức phạt trong trƣờng hợp bị phát hiện vi phạm thì sẽ
không
ngăn cản đƣợc việc vi phạm bản quyền. Ở Hoa Kỳ, mức bồi thƣờng đƣợc luật pháp
qui định đối với việc vi phạm bản quyền một tác phẩm âm nhạc có thể lên đến
150.000 USD, ở Trung Quốc là 11.000 USD (100 000 RMB). Việc xử lý vi phạm
Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam còn quá nhẹ,
88
chƣa đủ tính răn đe nếu so với lợi ích thu đƣợc của những kẻ làm hàng giả, hàng
nhái
[19, trang 77].
Thứ ba, theo Điều 4 quarter của Công ƣớc Paris, theo đó qui định rằng ngay
cả khi luật của nƣớc sở tại không cho phép sử dụng sáng chế thì sáng chế này vẫn
phải đƣợc bảo hộ. Nếu căn cứ theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005, một khi
đã đƣợc cấp bằng sáng chế, doanh nghiệp hoặc cá nhân sẽ có quyền sử dụng sáng
chế đó. Cụ thể, Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam chƣa có qui định về việc cấp bằng
sáng chế trong trƣờng hợp pháp luật Việt Nam cấm sử dụng sáng chế. Trong khi đó,
theo Công ƣớc Paris, tồn tại trƣờng hợp tác giả sáng chế đƣợc phép nộp đơn và
đƣợc cấp bằng nhƣng vẫn bị cấm sử dụng sáng chế.
Thách thức thứ hai được đặt ra do việc nhận thức chưa đầy đủ của các
doanh nghiệp Việt Nam về quyền sở hữu công nghiệp trước ngưỡng cửa hội nhập.
Có thể nói, hiện nay còn nhiều doanh nghiệp chƣa hiểu rõ bản chất và lợi ích của
việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với quá trình phát triển doanh nghiệp,
có
nhiều doanh nghiệp mới chỉ quan tâm đến việc nâng khối tài sản hữu hình mà chƣa
quan tâm nhiều đến việc phát triển doanh nghiệp bằng việc nâng cao giá trị vô
hình.
Theo thống kê của Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005, số đơn đăng ký và văn
bằng bảo hộ của ngƣời nộp đơn Việt Nam chiếm tỷ lệ không cao, số đơn đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá là 58,12%, số văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là 53,47%.
Nguyên nhân của tình trạng trên thể hiện ở một số điểm sau: Pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp khá phức tạp, do đó nhiều doanh nghiệp chƣa quan tâm
đến việc nghiên cứu, tìm hiểu là một thực tế. Hơn nữa, chúng ta đang trong quá
trình hội nhập, các quy định pháp lý của quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp chƣa đƣợc các doanh nghiệp nghiên cứu kỹ càng dẫn đến việc khi tham gia
vào
các quan hệ kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam bị hạn chế khi tiếp cận
thị
trƣờng, bị thua thiệt, bị khởi kiện... Hoặc khi các doanh nghiệp Việt Nam đăng
ký bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp ở nƣớc ngoài đối với các đối tƣợng sở hữu công
nghiệp,
do tiềm lực kinh tế còn hạn chế nên doanh nghiệp không chịu đƣợc một mức chi phí
quá cao khi đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, thậm chí chính một số doanh