Luận văn thạc sĩ kinh tế: Những khía cạnh thương mại liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và khả năng khai thác đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
9,718
266
115
49
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP DƢỚI GÓC ĐỘ
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Thực trạng chính sách và pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp
2.1.1. Nhà nƣớc đã ban hành chính sách cụ thể về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp theo hƣớng tạo s ự phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong WTO
Các chính sách cụ thể đƣợc qui định tại Điều 9 của Luật sở hữu trí tuệ Việt
Nam năm 2005, đó là:
Thứ nhất, Nhà nƣớc Việt nam công nhận và bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp của tổ chức, cá nhân trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích của chủ thể quyền
sở
hữu công nghiệp với lợi ích công cộng; không bảo hộ các đối tƣợng sở hữu công
nghiệp trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng an
ninh.
Thứ hai, Nhà nƣớc luôn khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sáng tạo, khai
thác tài sản trí tuệ nhằm góp phần phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống
vật
chất và tinh thần của nhân dân.
Thứ ba, Nhà nƣớc hỗ trợ tài chính cho việc nhận chuyển giao, khai thác
quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền sở hữu công nghiệp nói riêng phục vụ lợi
ích
công cộng; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nƣớc và nƣớc ngoài tài trợ cho
hoạt
động sáng tạo và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ tƣ, ƣu tiên đầu tƣ cho việc đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức, các đối tƣợng liên quan làm công tác bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ
và nghiên cứu, ứng dụng khoa học – kỹ thuật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Nội dung quản lý nhà nƣớc về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã đƣợc qui
định trong Điều 10, Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005, bao gồm:
50
1. Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lƣợc, chính sách bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ.
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ.
3. Tổ chức bộ máy quản lý về sở hữu trí tuệ; đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ về sở
hữu trí tuệ.
4. Cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan đến Giấy chứng nhận đăng ký
quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, văn bằng bảo hộ các đối
tƣợng sở hữu công nghiệp, Bằng bảo hộ giống cây trồng.
5. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về sở hữu trí tuệ; giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ.
6. Tổ chức hoạt động thông tin, thống kê về sở hữu trí tuệ.
7. Tổ chức, quản lý hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ.
8. Giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về sở hữu trí tuệ.
9. Hợp tác quốc tế về sở hữu trí tuệ.
Nội dung quản lí Nhà nƣớc về sở hữu trí tuệ đƣợc cụ thể hóa bởi Nghị định
Số 105/2006/NĐ-CP trong đó có qui định rõ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nƣớc
trong việc quản lí Nhà nƣớc về sở hữu trí tuệ. Theo đó, Bộ Khoa học và Công nghệ
chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về sở hữu công
nghiệp, bảo đảm chính sách, chiến lƣợc, văn bản pháp luật về sở hữu công nghiệp
thống nhất với chính sách, chiến lƣợc, văn bản pháp luật chung về sở hữu trí
tuệ.
Ngày 29.07.1982 Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định
số 125/HĐBT về sửa đổi tổ chức bộ máy của Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nƣớc
(sau này là Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng) trong đó có quy định rằng một
trong các tổ chức thuộc bộ máy của ủy ban này là Cục sáng chế với chức năng giúp
ủy
ban thực hiện các công việc nhằm phát triển hoạt động sáng kiến và sở hữu công
nghiệp
ở Việt Nam. Năm 1993 Cục Sáng chế đƣợc đổi tên thành Cục Sở hữu công nghiệp.
51
Tiếp tục phát huy những thành quả do Cục Sáng chế đạt đƣợc trong những
năm trƣớc đây, Cục Sở hữu công nghiệp đã triển khai nhiều biện pháp để xây dựng
và phát triển nhiều hoạt động sáng kiến và sở hữu công nghiệp. Cục Sở hữu công
nghiệp đã phối hợp với Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam, Tổng Công
đoàn Việt Nam và Trung Ƣơng đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức
thành công các hội thi sáng tạo và kỹ thuật toàn quốc. Để phát triển hoạt động
sở
hữu công nghiệp, ngoài việc xây dựng và củng cố hệ thống tổ chức chỉ đạo của Nhà
nƣớc, cần phải xây dựng và phát triển hệ thống các tổ chức dịch vụ tƣ vấn pháp
luật, các tổ chức dịch vụ đại diện quyền sở hữu công nghiệp và các tổ chức xã
hội -
nghề nghiệp về sở hữu công nghiệp.
Cục Sở hữu công nghiệp đã tập trung nỗ lực nghiên cứu các vấn đề lý luận và
thực tiễn từ đó xây dựng một hệ thống các cơ chế, chính sách thể hiện tại một hệ
thống văn bản pháp luật đệ trình cho các cơ quan Nhà nƣớc để làm cơ sở triển
khai
hoạt động sáng kiến - sở hữu công nghiệp trong phạm vi cả nƣớc. Hệ thống văn bản
pháp luật đó không ngừng đƣợc bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của đất
nƣớc trong từng thời kỳ xây dựng và phát triển.
Cục Sở hữu công nghiệp cũng rất quan tâm đến việc xây dựng và phát triển
các tổ chức xã hội- nghề nghiệp về sở hữu công nghiệp. Cục sở hữu công nghiệp
ủng hộ chủ chƣơng thành lập và tích cực tham gia và quá trình thành lập Hội Sở
hữu công nghiệp Việt Nam, coi đay là tổ chức tập hợp những tổ chức, cá nhân hoạt
động trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp để trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, nâng
cao trình đọ chuyên môn nghiệp vụ, thực hiện các biện pháp thích hợp để đóng góp
vào sự phát triển của hoạt đông sở hữu công nghiệp. Sau khi Hội Sở hữu công
nghiệp Việt Nam đƣợc thành lập theo Quyết định số 40/2000/QĐ- BTCCBCP ngày
21.6.200 của Bộ trƣởng - trƣởng ban Tổ chức cán bộ Chính phủ) Cục Sở hữu công
nghiệp đã tích cực hợp tác, hỗ trợ Hội triển kahi nhiều biên pháp nhằm củng cố
và
phát huy vai trò của Hội đối với hoạt động sở hữu công nghiệp.
Tháng 12.1999, dự án hiện đại hoá quản trị sở hữu công nghiệp ở Việt Nam
do CHính phủ Nhật Bản tài trợ thông qua cơ quan Hợp tác Quốc tê Nhật Bản(JICA)
52
đã đƣợc ký kết tại Hà Nội. Dự án này đƣợc triển khai từ 01.04.2000 và dự kiến
kéo
dài trong 4 năm. Mục tiêu của dự án là cải tiến công nghệ xử lý Đơn sở hữu công
nghiệp từ khi nộp vào Cục Sở hữu công nghiệp cho tới khi có quyết định cuối cùng
về khả năng cấp văn bằng bảo hộ và theo dõi hiệu lực các văn bằng bảo hộ đã cấp.
Nhật Bản đã cử nhiều chuyên gia giỏi sang Việt Nam thực hiện dự án, cung cấp các
trang thiết bị cần thiết và đào tạo các đối tác Việt Nam.
Với trách nhiệm đại diện nhà nƣớc trong các quan hệ quốc tế về sở hữu công
nghiệp, Cục Sở hữu công nghiệp đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một nƣớc
thành viên tham gia ký kết các điều ƣớc quốc tếcũng nhƣ các hiệp định và thoả
thuận
song phƣơng với các nƣớc, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
Kết quả rõ nét nhất của các hoạt động hợp tác quốc tế trong hơn 20 năm qua
là chúng ta đã nhận đƣợc sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các nhà nƣớc và các
tổ
chức quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ sở hữu
công nghiệp cũng nhƣ trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và cung cấp
thông tin tƣ liệu sở hữu công nghiệp. Hàng trăm cán bộ đƣợc đào tạo và nâng cao
trình độ ở các nƣớc và các tổ chức quốc tế đang là lực lƣợng nòng cốt trong việc
triển khai hoạt động sở hữu công nghiệp ở nƣớc ta. Nhiều kinh nghiệm của các
nƣớc và khu vực về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã đƣợc
tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo tại Việt Nam. Một số lƣợng đáng kể trang
thiết bị cũng nhƣ những cơ sở dữ liệu thông tin sở hữu công nghiệp khổng lồ mà
chúng ta có đƣợc chủ yếu là do các nƣớc, các tổ chức quốc tế cung cấp thông qua
các dự án và thoả thuận hợp tác đã đƣợc ký kết với các nƣớc và các tổ chức quốc
tế
đó.
2.1.2. Nhà nƣớc đã từng bƣớc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp nhằm thực hiện các cam kết về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp trong WTO
Trong hơn một thập kỷ nay, cùng với sự chuyển mình của nền kinh tế, cùng
với xu thế hội nhập với kinh tế thế giới, Chính phủ Việt Nam đã chú trọng rất
nhiều
53
đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói
chung
và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Cụ thể:
2.1.2.1. Đã tham gia Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thỏa ước
Madrid về đăng ký nhãn hiệu hàng hóa
Công ƣớc Paris là một trong những công ƣớc quốc tế lâu đời và quan trọng
bậc nhất về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đƣợc ký giữa 11 quốc gia tại Paris
vào ngày 20 tháng 3 năm 1883. Kể từ ngày đƣợc ký kết đến nay, Công ƣớc Paris đã
trải qua một số lần sửa đổi quan trọng: tại Brussels (1890), tại Washington
(1911),
Hague (1925), London (1934), Lisbon (1958) và Stockholm (1967). Việt Nam trở
thành thành viên của Công ƣớc Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp kể từ ngày 8
tháng 3 năm 1949. Năm 2005, Comoros đăng ký là thành viên thứ 169 của Công
ƣớc Paris. Nội dung của Công ƣớc tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
Các quy tắc cơ bản đảm bảo quyền đƣợc hƣởng chế độ đối xử quốc gia;
Các quy tắc về đảm bảo quyền ƣu tiên;
Các điều khoản về nội dung cụ thể của luật sở hữu công nghiệp;
và việc thiết lập khuôn khổ hành chính để thi hành Công ƣớc này.
Nguyên tắc đối xử quốc gia đƣợc quy định tại Điều 2, Khoản 2 của Công
ƣớc nhƣ sau: “Mỗi nƣớc thành viên của Công ƣớc phải bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp cho công dân của các nƣớc thành viên khác nhƣ bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp cho chính công dân của nƣớc mình”.
Quyền ƣu tiên đƣợc quy định tại Điều 3, Khoản 2 của Công ƣớc nhƣ sau:
“Nếu ngƣời nộp đơn yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nộp đơn đầu tiên
của mình ở một nƣớc thành viên của Công ƣớc thì trong thời hạn nhất định sau
ngày
nộp đơn đầu tiên (12 tháng đối với sáng chế và mẫu hữu ích, 6 tháng đối với kiểu
dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá) có thể nộp đơn yêu cầu tại bất kỳ nƣớc
thành viên nào và những đơn nộp sau đƣợc xem nhƣ có ngày nộp đơn cùng với
ngày nộp đơn của đơn đầu tiên”
54
Từ Điều 4 đến Điều 11 của Công ƣớc quy định nội dung cụ thể đối với các
đối tƣợng sở hữu công nghiệp: patent, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá,
tên thƣơng mại, chỉ dẫn xuất xứ và mẫu hữu ích.
Từ Điều 13 đến Điều 30 của Công ƣớc quy định việc thiết lập khuôn khổ
hành chính để thi hành Công ƣớc: cơ quan chuyên môn, Uỷ ban chấp hành, điều
khoản tài chính, các điều khoản riêng, giải quyết tranh chấp và các điều khoản
chuyển tiếp.
Thoả ƣớc Madrid đƣợc ký kết ngày 14 tháng 4 năm 1891 tại Madrid. Cho
đến nay, Thoả ƣớc đã qua 6 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1900 tại Brussels,
Washington 1911, Hague 1925, London 1934, Nice 1967, Stockholm 1967 và gần
đây nhất đƣợc bổ sung vào ngày 28 tháng 9 năm 1979 tại Madrid. Năm 2005,
Barain là thành viên thứ 67 tham gia vào Thỏa ƣớc Madrid. Vào ngày 8 tháng 3
năm 1949 Việt Nam đã tham gia Thỏa ƣớc này.
Thoả ƣớc Madrid bao gồm 18 điều khoản và cũng giống nhƣ Công ƣớc Paris
có thể chia thành bốn chủ đề chính:
Điều khoản về thành lập Hiệp hội đặc biệt và một số quy định cơ bản nhất
(Điều 1);
Nguyên tắc “đối xử với một số ngƣời nhƣ là công dân của nƣớc là thành viên
của Hiệp hội đặc biệt” (Điều 2);
Các điều khoản về nội dung cụ thể về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá
(Điều3-Điều9 ter); và
Các điều khoản về việc thiết lập khuôn khổ hành chính để thi hành Thoả ƣớc
này (Điều 9-quarter-18)
Theo thoả ƣớc này thì công dân của một nƣớc thành viên của Thoả ƣớc
muốn bảo hộ một nhãn hiệu hàng hoá của mình tại nhiều nƣớc thành viên khác,
trƣớc tiên phải đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của mình tại Cơ quan Sở hữu công
nghiệp quốc gia, sau đó thông qua Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia có thể nộp
55
đơn đăng ký quốc tế cho Văn phòng quốc tế của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(đƣợc viết tắt theo tên tiếng Anh là WIPO- sau đây gọi tắt là WIPO). Văn phòng
quốc tế sẽ công bố đơn đăng ký quốc tế và chỉ rõ những nƣớc thành viên mà ngƣời
nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của mình (nƣớc đƣợc chỉ định). Nƣớc
đƣợc chỉ định có thời gian một năm để xem xét chấp nhận hoặc từ chối bảo hộ nhãn
hiệu hànghoá trên lãnh thổ của mình. Nếu sau một năm nƣớc đƣợc chỉ định không
có ý kiến thì nhãn hiệu hàng hoá coi nhƣ đƣợc chấp nhận bảo hộ ở nƣớc đó.
2.1.2.2. Đã tham gia Hiệp ước Hợp tác sáng chế - Hiệp ước PCT
Hiệp ƣớc Hợp tác sáng chế đƣợc ký tại Washington ngày 19 tháng 6 năm
1970, đƣợc sửa đổi 2 lần vào ngày 2 tháng 10 năm 1979 và ngày 3 tháng 2 năm
1984. Tính đến ngày 22 tháng 6 năm 1999, Hiệp ƣớc đã có 103 nƣớc thành viên.
Việt Nam tham gia Hiệp ƣớc này từ ngày 10 tháng 3 năm 1993.
Hiệp ƣớc này tạo khả năng cho ngƣời nộp đơn sáng chế thuộc một quốc gia
thành viên có thể nhận đƣợc sự bảo hộ cho sáng chế của mình ở mỗi nƣớc trong số
nhiều nƣớc thành viên khác bằng việc nộp một đơn duy nhất (gọi là đơn quốc tế)
tại
Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia của nƣớc thành viên Hiệp ƣớc mà ngƣời nộp
đơn là công dân hoặc có chỗ ở thƣờng trú hoặc nộp đơn cho Văn phòng quốc tế của
WIPO tại Geneve.
Hiệp ƣớc Hợp tác sáng chế còn quy định chi tiết các yêu cầu đối với đơn
quốc tế, tra cứu đơn quốc tế và thủ tục xử lý những đơn này ở Cơ quan Sở hữu
công
nghiệp của nƣớc thành viên.
Hiện nay phần lớn đơn sáng chế của nƣớc ngoài nộp vào Việt Nam là thông
qua Hiệp ƣớc Hợp tác sáng chế.
2.1.2.3. Đã ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ trong đó đưa
ra các qui định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp giữa hai nước
Hiệp định thƣơng mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã đƣợc ký kết vào tháng 7 năm
2000 tại Hoa Kỳ. Sau khi đƣợc Quốc hội hai nƣớc phê chuẩn, Hiệp định có hiệu lực
56
thi hành từ ngày 11 tháng 12 năm 2001. “Quyền sở hữu trí tuệ” là một trong 07
chƣơng của Hiệp định thƣơng mại Việt Nam – Hoa Kỳ (Chƣơng II).
Các cam kết cơ bản về sở hữu công nghiệp trong khuôn khổ Hiệp định là:
Mỗi Bên dành sự bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho công dân cuả Bên
kia nhƣ dành cho công dân của mình (nguyên tắc đối xử quốc gia).
Hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp phải bao gồm 7 đối tƣợng: Tín
hiệu vệ tinh mang chƣơng trình đã đƣợc mã hoá; Nhãn hiệu hàng hoá; Sáng
chế; Thiết kế bố trí mạch tích hợp; Thông tin bí mật; Kiểu dáng công nghiệp;
và Giống thực vật.
Mức bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tối thiểu phải đạt các tiêu chuẩn quy
định trong chƣơng II (xem Phụ lục 1) và trong các điều ƣớc quốc tế tƣơng
ứng;
Hệ thống đảm bảo thực thi quyền sở hũu công nghiệp phải bao gồm các biện
pháp chế tài và các thủ tục dân sự, hình sự và hành chính theo tiêu chuẩn qui
định.
2.1.2.4. Đã gia nhập WTO / Tham gia Hiệp định TRIPs
Hầu hết những yêu cầu chủ yếu về bảo hộ sở hữu trí tuệ của hệ thống các
điều ƣớc quốc tế trƣợc tiếp ràng buộc Việt Nam trong qua trình hội nhập đều đƣợc
phản ảnh bởi Hiệp định TRIPS. Hiệp định này đòi hỏi mọi quốc gia thành viên WTO
phải xây dựng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ theo các tiêu chuẩn tối thiểu thống
nhất.
Các tiêu chuẩn tối thiểu ấn định trong hiệp định TRIPS nhằm đảm bảo cho mỗi quốc
gia thành viên có một hệ thống sở hữu trí tuệ đầy đủ và có hiệu quả. Nói một
cách
khác, Việc Việt Nam gia nhập WTO cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam phải tuân
thủ các chuẩn mực đƣợc ấn định trong hiệp định TRIPS - các đòi hỏi cơ bản nhất
của
các điều ƣớc quốc tế quan trọng nhất về sở hữu trí tuệ. Hiệp định TRIPS đã mang
lại
những thay đổi căn bản trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Hiệp định TRIPS khẳng định
lại
và mở rộng các chuẩn mực quy định trong 02 Điều ƣớc quốc tế cơ bản về sở hữu trí
tuệ là Công ƣớc Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Công ƣớc Berne về bảo hộ
57
bản quyền tác giả, làm thay đổi bộ mặt của luật sở hữu trí tuệ vì các nƣớc thành
viên
WTO phải điều chỉnh pháp luật của họ để phù hợp với Hiệp định TRIPS.
2.1.2.5. Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp
Hệ thống pháp luật nói chung của nƣớc ta nói chung và pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp nói riêng ngày đƣợc hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của hội
nhập kinh tế quốc tế. Ở nƣớc ta, quyền sở hữu công nghiệp nằm dƣới sự điều chỉnh
của các văn bản và nguồn luật, bao gồm các Bộ luật và Nghị định sau đây:
+ Bộ luật Dân sự của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đƣợc Quốc
hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, khóa XI, kỳ họp thứ 7. Phần 6 đề cập đến
quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ.
+ Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 trong đó có quy định quyền sở hữu công
nghiệp và việc bảo hộ các quyền đó. Luật sở hữu trí tuệ 2005 đƣợc chia ra làm 6
phần, và có 222 điều. Trong đó phần 3 nói về quyền sở hữu công nghiệp, phần 4
đƣa ra các qui định về giống cây trồng, phần 5 đề cập các qui định về bảo hộ
quyền
sở hữu trí tuệ trong đó có quyền sở hữu công nghiệp. Cụ thể chƣơng 7 nêu ra điều
kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, chƣơng 8 nêu nên việc xác lập quyền sở
hữu công nghiệp với các đối tƣợng sở hữu công nghiệp nhƣ sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý; chƣơng 9 qui định về
chủ
sở hữu công nghiệp, nội dung và giới hạn quyền sở hữu công nghiệp; chƣơng 10 qui
định về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; chƣơng 11 qui định về đại diện sở
hữu công nghiệp.
+ Bộ luật Hình sự của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đƣợc Quốc
hội thông qua ngày 21.12.1999 và có hiệu lực từ ngày 01.07.2000. Trong đó qui
định về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156, 157, 158); Tội vi phạm quy
định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170) và Tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171).
58
+ Một số các Nghị định và Thông tƣ của Chính phủ quy định chi tiết về sở
hữu công nghiệp, hƣớng dẫn thi hành, xử lý vi phạm nhƣ: Nghị định 103/2006/ NĐ-
CP qui định về hƣớng dẫn thi hành sở hữu công nghiệp của luật sở hữu trí tuệ.
Nghị
định 104/2006/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành một số điều luật của Luật sở hữu trí tuệ
về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nƣớc về sở hữu trí tuệ. Nghị định
106/2006/ NĐ-CP qui định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp.
Thông tƣ 01/2007/TT-BKHCN hƣớng dẫn thi hành nghị định 103/2006/ NĐ-CP.
Có thể nói, việc cho ra đời Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 là một bƣớc tiến đáng
ghi nhận đối với Việt Nam trong việc thực thi các cam kết với quốc tế về bảo hộ
quyền
sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Mặc dù
chúng
ta còn thiếu kinh nghiệm trong việc thực thi Luật sở hữu trí tuệ, nhƣng kể từ
khi nó ra
đời, Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 sẽ là cơ sở pháp lí quan trọng để các
doanh
nghiệp thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của mình.
2.2. Thực trạng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp từ phía các doanh nghiệp
Việt Nam
2.2.1. Nhận xét chung
Theo đánh giá chung, tình hình xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của các
doanh nghiệp ở nƣớc ta đang diễn ra ngày càng phổ biến, nghiêm trọng và đã đến
mức độ đáng báo động. Hiện nay nó đã và đang trở thành vấn đề nhức nhối đối với
không những các nhà sản xuất, các cơ quan quản lý Nhà nƣớc, toàn bộ xã hội Việt
Nam mà còn là vấn đề rất quan tâm của các tổ chức tài chính, kinh tế nƣớc ngoài.
Ông Alain Cany, chủ tịch Phòng thƣơng mại châu Âu tại Việt Nam, trong buổi khai
mạc Hội thảo Quyền sở hữu tr í tuệ: tăng cƣờng sức mạnh cho các doanh nghiệp vừa
và
nhỏ diễn ra trong hai ngày 16 và 17/3 tại Hà Nội, (do Cục Sở hữu trí tuệ, Chƣơng
trình
EC-ASEAN về sở hữu tr í tuệ (ECAP II) và Phòng thƣơng mại châu Âu tại VN đồng tổ
chức) từng phát biểu: “Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực thuyết phục, thu hút cộng
đồng quốc tế chuyển giao công nghệ cho Việt Nam. Nếu các bạn muốn chúng tôi
chuyển giao công nghệ và đầu tƣ, các bạn cần thực hiện tốt quyền sở hữu trí tuệ.
Khi
đó, chúng tôi mới yên tâm vì các sản phẩm, công nghệ của chúng tôi đƣợc bảo vệ''