Luận văn thạc sĩ kinh tế: Những khía cạnh thương mại liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và khả năng khai thác đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
9,773
266
115
29
+ Đẩy mạnh tự do hóa thƣơng mại thông qua đàm phán. Kể từ khi
GATT ra đời vào năm 1947, đã có 8 vòng đàm phán. Qua đó, các quốc gia dần dần
xóa bỏ các rào cản thƣơng mại, cho phép các nhà sản xuất hoạch định chiến lƣợc
kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển
đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ đƣợc thoả thuận thông qua các
cuộc đàm phán song phƣơng và đa phƣơng.
+ Dễ dự đoán: các quốc gia thành viên cam kết không tăng một cách tuỳ tiện
các hàng rào thƣơng mại (thuế quan và phi thuế quan khác). Do đó, khuyến khích
đƣợc đầu tƣ do các nhà đầu tƣ luôn quan tâm đến một môi trƣờng đầu tƣ ổn định.
Qua đó, bài toán thất nghiệp cũng đƣợc giải quyết phần nào và chính ngƣời tiêu
dùng cũng đƣợc hƣởng lợi từ môi trƣờng lành mạnh nhƣ vậy. Hệ thống thƣơng mại
đa phƣơng là một nỗ lực lớn của các chính phủ để tạo ra một môi trƣờng thƣơng
mại ổn định và có thể dự đoán.
Hệ thống thƣơng mại này cũng cố gắng cải thiện khả năng dễ dự đoán và sự
ổn định theo những cách khác. Một trong những cách làm phổ biến là ngăn chặn
việc sử dụng hạn ngạch và các biện pháp khác của các nƣớc hạn chế số lƣợng hàng
nhập khẩu. Bên cạnh đó, WTO cũng giúp các nguyên tắc thƣơng mại của các nƣớc
trở nên rõ ràng và minh bạch hơn. Rất nhiều hiệp định của WTO yêu cầu chính phủ
các nƣớc thành viên phải công khai chính sách.
+ Tạo ra môi trƣờng cạnh tranh ngày càng bình đẳng: WTO đôi khi đƣợc
miêu tả nhƣ là một hệ thống "thƣơng mại tự do", tuy nhiên điều đó không hoàn
toàn
chính xác. Hệ thống này vẫn cho phép có sự tồn tại của thuế quan và, trong một
số
trƣờng hợp nhất định, vẫn cho phép có các biện pháp bảo hộ. Nhƣ vậy, nói một
cách chính xác hơn thì WTO đem lại một sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng
hơn.
WTO cũng có thể hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh
không bình đẳng nhƣ bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh
nghiệp nhất định.
30
+ Dành cho các thành viên đang phát triển một số ƣu đãi. Các ƣu đãi này
đƣợc thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển một số
quyền
và không phải thực hiện một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay
thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách.
Qua các vòng đàm phán, lợi ích của các quốc gia, đặc biệt là các nƣớc đang
phát triển đã tăng lên khá nhiều. Sau vòng đàm phán Uruguay, các nƣớc giàu trong
WTO đã cam kết sẽ rộng mở hơn nữa đối với hàng hoá xuất khẩu từ những nƣớc
kém phát triển và trợ giúp kỹ thuật cho các nƣớc này. Gần đây, những nƣớc phát
triển đã bắt đầu cho phép nhập khẩu tự do, không thuế, không hạn ngạch đối với
tất
cả những sản phẩm từ hầu hết quốc gia kém phát triển trong WTO.
1.2.1.2. Quyền sở hữu công nghiệp trong khuôn khổ WTO
Hệ thống WTO hình thành từ vòng đàm phán Urugoay giờ đây bao gồm một
số hiệp định trong đó có Hịêp định TRIPs. Cho tới nay, đây là hiệp định đa
phƣơng
tổng thể nhất về bảo hộ quyền vực sở hữu trí tuệ trong đó có bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp.Về nguyên tắc bảo hộ sở hữu trí tuệ, Hiệp định TRIPS tái khẳng định
đồng thời mở rộng các qui định của Công ƣớc Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp và Công ƣớc Bern năm 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học và
nghệ thuật.
Theo Hiệp định TRIPs, các thành viên có thể, nhƣng không bị bắt buộc, áp
dụng trong luật của nƣớc mình mức bảo hộ cao hơn so với các yêu cầu của Hiệp
định
TRIPS, nghĩa là việc bảo hộ đó không trái với các điều khoản của hiệp định. Điều
này
nhằm đảm bảo cho mỗi quốc gia thành viên có một hệ thống sở hữu trí tuệ đầy đủ
và
hiệu quả.
Các đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ thuộc sự điều chỉnh của hiệp định
TRIPs bao gồm: Quyền tác giả và các quyền liên quan; Thƣơng hiệu; Chỉ dẫn địa
lý; Kiểu dáng công nghiệp; bằng phát minh sáng chế; thiết kế bố trí mạch tích
hợp;
bảo hộ thông tin bí mật; Và hạn chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các hợp
31
đồng chuyển giao quyền sử dụng. Nhƣ vậy quyền sở hữu công nghiệp là một trong
hai nội dung của quyền sở hữu trí tuệ đƣợc Hiệp định TRIPs điều chỉnh.
Hiệp định TRIPS đƣợc các nƣớc thành viên hiện tại của WTO bắt buộc áp
dụng và cũng sẽ áp dụng cho các thành viên tƣơng lai. Khi đƣợc áp dụng đầy đủ,
Hiệp định TRIPS sẽ tăng cƣờng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ gần nhƣ trên phạm vi
toàn thế giới - tạo ra sức mạnh chƣa có hiệp ƣớc quốc tế nào đạt tới.
Hiệp định TRIPS bao trùm tất cả các quyền sở hữu trí tuệ chính, gồm cả các
lĩnh vực và quyền chƣa đƣợc luật quốc tế hay trong một số trƣờng hợp cả luật
quốc
gia của các nƣớc công nghiệp đề cập tới. Việc thực thi hiệp định này sẽ áp đặt
các
thay đổi về luật sở hữu trí tuệ của một số nƣớc thành viên WTO không có bất kỳ
ngoại lệ nào. Những thay đổi này cũng tác động mạnh đến luật, quy định và các
thủ
tục hiện hành của các nƣớc đang phát triển áp dụng trong lĩnh vực kinh tế xã hội
nhƣ nông nghiệp, y tế, giáo dục và văn hoá khi trở thành thành viên WTO. Nội
dung chính của hiệp định TRIPS có thể phân chia thành 5 nhóm: tiêu chuẩn, thực
thi, giải quyết tranh chấp, các quy định và nguyên tắc chung. Cuối cùng là những
thoả thuận chuyển đổi. Dƣới đây tác giả luận văn sẽ phân tích tóm lƣợc 5 nhóm
nội
dung liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Nhóm thứ nhất là những quy định và nguyên tắc chung :
Hiệp định TRIPS đƣa ra những nguyên tắc cơ bản về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp nhƣ không phân biệt đối xử giữa những ngƣời nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ
trong nƣớc với ngƣời nƣớc ngoài (Đãi ngộ quốc gia) và giữa những ngƣời nƣớc
ngoài
khác nhau (Tối Huệ Quốc). Hiệp định TRIPS cho phép các nƣớc tự do quyết định
chính sách “nhập khẩu song song” đối với các hàng hoá nhập khẩu mà ngƣời nắm giữ
quyền sở hữu trí tuệ đƣa ra ở thị trƣờng khác m ột cách hợp pháp.
Nhóm thứ hai là các tiêu chuẩn liên quan đến khả năng đạt đƣợc, phạm vi
và việc sử dụng các quyền sở hữu công nghiệp:
Hiệp định TRIPS đƣa ra những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu do các nƣớc thành
viên đề xuất trong mỗi lĩnh vực chính của sở hữu trí tuệ. Lĩnh vực sở hữu công
32
nghiệp bao gồm cấp bằng sáng chế (patent); thông tin bí mật (bí mật thƣơng mại,
dữ
liệu kiểm định); nhãn hiệu hàng hóa; chỉ dẫn địa lý; kiểu dáng công nghiệp và
thiết
kế các mạch tích hợp. Bảo hộ giống cây trồng; bản quyền và các quyền liên quan
(đó là các quyền của nghệ sĩ biểu diễn, nhà sản xuất băng ghi âm, các tổ chức
phát
thanh truyền hình).
+ Bằng sáng chế (Patent) cấp cho tác giả phát minh quyền ngăn chặn những
ngƣời sử dụng, mua bán hoặc sản xuất theo phát minh đã đăng ký bảo hộ của mình
trong một thời hạn nhất định (trong một quốc gia cụ thể). Thời hạn bảo hộ tối
thiểu
mà Hiệp định TRIPS yêu cầu là 20 năm kể từ ngày xin đăng ký. Một số nƣớc thừa
nhận mô hình patent nhỏ cấp quyền bảo hộ một thời gian ngắn hơn cho những phát
triển, cải tiến nhỏ có đầu tƣ thêm vào thiết kế, chế tạo.
+ Bằng sáng chế (Patent) về sở hữu kiểu dáng công nghiệp bảo hộ quyền về
mẫu mã và mỹ thuật của sản phẩm. Hiệp định TRIPS yêu cầu sở hữu lĩnh vực này
tối thiểu là 10 năm.
+ Bằng sáng chế (Patent) về sở hữu thương hiệu và nhãn hiệu dịch vụ, bảo
hộ quyền của một thƣơng hiệu hoặc nhãn hiệu của một sản phẩm, một dịch vụ hay
một mặt hàng. Mục tiêu chính là để giảm chi phí tìm kiếm của ngƣời tiêu dùng và
tránh cho ngƣời tiêu dùng khỏi nhầm lẫn về chất lƣợng và xuất xứ của sản phẩm.
Ví
dụ, qua mẫu mã và kiểu dáng, có thể nhận biết ngay đặc điểm địa lý, chất lƣợng
của
một loại rƣợu vang, rƣợu mạnh hay hoa quả, thực phẩm của một vùng hay hãng sản
xuất danh tiếng nào đó.
+ Một lĩnh vực tƣơng tự là thiết kế các mạch tích hợp. Những phát minh loại
này đƣợc bảo hộ “riêng”, hay còn gọi là bảo hộ “đặc biệt”, bởi việc này tuy có
sáng
tạo nhƣng không nhiều nên mới đƣợc cấp cả bằng sáng chế (patent) lẫn bằng bản
quyền với thời hạn khoảng 10 năm.
Nhóm thứ ba là thực thi quyền sở hữu công nghiệp:
Lần đầu tiên, trong các luật quốc tế về IPRs, điều khoản chi tiết về thủ tục dân
sự và hành chính, các chế tài, biện pháp đặc biệt liên quan đến phạm vi biên
giới và
33
vấn đề tội phạm đƣợc đặt ra. Các điều khoản này xác định thủ tục pháp lý, hình
phạt tối
thiểu để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại các cơ quan pháp luật, toà án hành
chính....
Trƣờng hợp có vi phạm, chủ sở hữu quyền có thể lựa chọn cách giải quyết thông
qua
các cơ quan xét xử, hành chính và hải quan với việc áp dụng các biện pháp nhƣ
lệnh và
các biện pháp trừng phạt hoặc tịch thu hay tiêu huỷ hàng giả nhãn hiệu. Trƣờng
hợp vi
phạm nghiêm trọng, chủ sở hữu quyền có thể yêu cầu áp dụng các biện pháp tạm
thời
nhƣ đình chỉ việc lƣu thông hàng hoá. Hiệp định TRIPs yêu cầu các thành viên
phải
đảm bảo các thủ tục thực thi quyền phải đƣợc quy định trong luật quốc gia của
từng
thành viên để tạo khả năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi vi phạm.
Nhóm thứ tƣ liên quan đến các thỏa thuận về giai đoạn quá độ:
Các nghĩa vụ ghi trong hiệp định áp dụng một cách công bằng cho tất cả các
thành viên. Các nƣớc phát triển đƣợc phép trì hoãn thực hiện Hiệp định trong
vòng
1 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực; Thời hạn này đối với các nƣớc đang phát
triển là 05 năm và các nƣớc kém phát triển là 11 năm. Riêng sản phẩm dƣợc đƣợc
nới rộng cho các nƣớc LDCs đến năm 2016. Theo GianCarlo Moschini, Intellectual
property and World Trade Organisation: Retrospect and Prospects, May 2003
Thực hiện các cam kết của WTO cụ thể là thực thi Hiệp định bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ là nghĩa vụ không thể thoái thác nhƣng đồng thời cũng đem lại lợi
ích
to lớn cho các nƣớc thành viên của tổ chức kinh tế quốc tế này.
Nếu Thành viên là nƣớc đang phát triển bị Hiệp định này ràng buộc nghĩa vụ
mở rộng việc bảo hộ patent cho sản phẩm sang những lĩnh vực công nghệ chƣa
đƣợc bảo hộ trong lãnh thổ của Thành viên đó vào ngày Thành viên phải thi hành
Hiệp định này theo thời hạn chung quy định tại khoản 2 thì Thành viên đó có thể
hoãn thêm 5 năm nữa việc thi hành các quy định về các patent cho sản phẩm tại
Mục 5, Phần II của Hiệp định này đối với những lĩnh vực công nghệ đó
Nhóm thứ năm là giải quyết tranh chấp:
Hiệp định TRIPS quy định rằng các phán quyết của toà án về các vụ vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ phải đƣợc thể hiện bằng văn bản, có nêu rõ lý do và đƣợc
thông
34
báo kịp thời cho các bên. Các phán quyết phải dựa trên bằng chứng và các bên
nhất
thiết phải có một cơ hội để trình bày ý kiến. Mặc dù các nƣớc thành viên không
bắt
buộc phải thiết lập một hệ thống xét xử riêng, song nhất thiết phải quy định các
thủ
tục xem xét tại toà án tất cả các quyết định hành chính cuối cùng.
Phần III, các Mục từ Mục 2 đến Mục 5 của Hiệp định TRIPS quy định các
biện pháp trừng phạt hình sự, dân sự và hành chính. Trƣờng hợp có vi phạm, chủ
sở
hữu quyền có thể lựa chọn cách giải quyết thông qua các cơ quan xét xử, hành
chính và hải quan với việc áp dụng các biện pháp nhƣ lệnh và các biện pháp trừng
phạt hoặc tịch thu hay tiêu huỷ hàng giả nhãn hiệu. Trƣờng hợp vi phạm nghiêm
trọng, chủ sở hữu quyền có thể yêu cầu áp dụng các biện pháp tạm thời nhƣ đình
chỉ
việc lƣu thông hàng hoá.
Hiệp định TRIPS quy định các tranh chấp giữa các thành viên WTO về sự tuân
thủ nghĩa vụ theo hiệp định TRIPS và sẽ chịu sự điều chỉnh của cơ chế giải quyết
tranh
chấp của WTO.
1.2.1.3. Các cam kết của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong WTO
Nhận thức đƣợc vai trò to lớn và tầm quan trọng của WTO đối với sự phát
triển của nền kinh tế toàn cầu cũng nhƣ đối với sự tăng trƣởng kinh tế của từng
quốc gia, Việt Nam quyết định xin gia nhập WTO nhằm mở rộng các mối quan hệ
kinh tế, thƣơng mại và đầu tƣ với các Thành viên khác, thể hiện quyết tâm vững
chắc đối với việc tiếp tục tiến trình hội nhập nền kinh tế vào hệ thống thƣơng
mại
thế giới. Nhận thức đƣợc việc trở thành Thành viên của WTO sẽ gắn liền với cả
quyền lợi đƣợc hƣởng lẫn nghĩa vụ phải thực hiện, Việt Nam cam kết lấy các
nguyên tắc của WTO làm nền tảng cho các chính sách thƣơng mại của mình. Việt
Nam đã và đang tiến hành rà soát và sửa đổi luật pháp để từng bƣớc phù hợp với
các quy định và nguyên tắc của WTO.
Liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Việt Nam đã đƣa ra
các cam kết khi gia nhập WTO về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong đó có bảo hộ
35
quyền sở hữu công nghiệp, cụ thể nƣớc ta đã và đang thực hiện những cam kết cơ
bản sau:
+ Xây dựng một khung pháp lý về sở hữu công nghiệp hoàn thiện, đầy đủ và
đạt tiêu chuẩn theo quy định của Hiệp định TRIPs.
+ Tham gia một loạt các điều ƣớc khác của quốc tế về sở hữu trí tuệ: bản
quyền, sử dụng tín hiệu vệ tinh...
+ Xây dựng một hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả
Trong các cam kết trên, Việt Nam đã đạt đƣợc cam kết thứ nhất về khung
pháp luật đƣợc coi là đầy đủ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tất cả các đối
tƣợng
mà trên thế giới bảo hộ thì Việt Nam đều đã bảo hộ trong đó tập trung vào 3 nhóm
chính thuộc 3 ngành khác nhau là: bản quyền, sở hữu công nghiệp và giống cây
trồng. Khung pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp sẽ đƣợc tác giả nêu
chi
tiết trong chƣơng II của Luận văn.
Về việc thực hiện cam kết thứ hai, Việt Nam là thành viên của Công ƣớc
Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thoả ƣớc Madrid về Đăng ký quốc tế nhãn
hiệu từ năm 1949; Công ƣớc thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới từ năm
1976;
và Hiệp ƣớc Hợp tác bằng sáng chế từ tháng 3/1993. Việt Nam là thành viên chính
thức của Công ƣớc Bern từ ngày 26/10/2004, Công ƣớc Geneva từ ngày 6/7/2005,
Công ƣớc Brussels từ ngày 12/1/2006 và Nghị định thƣ liên quan đến Thoả ƣớc
Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu từ ngày 11/7/2006. Việt Nam cũng đã ký kết
các hiệp định song phƣơng về bảo hộ sở hữu trí tuệ với Hoa Kỳ và Thuỵ Sĩ. Việt
Nam đã tham gia Công ƣớc Rome và Liên hiệp quốc tế về bảo hộ giống cây trồng
mới (UPOV) vào cuối năm 2006. Luật về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ƣớc
quốc tế năm 2005 quy định việc áp dụng trƣc tiếp, toàn bộ hay một phần các điều
ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên do Quốc hội quyết định. Trong trƣờng hợp
có quy định khác nhau giữa luật pháp Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ và điều
ƣớc
quốc tế mà Việt Nam là thành viên, quy định của điều ƣớc quốc tế sẽ đƣợc áp dụng
theo quy định tại Điều 5.3 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Các qui định cụ thể
về
36
bảo hộ qu yền sở hữu công nghiệp của một số công ƣớc quốc tế này sẽ đƣợc đề cập
cụ thể trong chƣơng sau.
Tuy nhiên, Việt Nam lại gặp khó khăn khi triển khai việc thực hiện cam kết
thứ ba trong WTO về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Lí do là ở nƣớc ta việc
thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chƣa đầy đủ và chƣa hiệu quả. Điều này
liên quan đến những chủ sở hữu công nghiệp cũng nhƣ những đối tƣợng vi phạm.
Bởi tình hình xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam vẫn diễn biến phức
tạp và chƣa có dấu hiệu thuyên giảm. Thực trạng vi phạm quyền sở hữu công
nghiệp và công tác thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng nhƣ nguyên
nhân của những tồn tại, yếu kém trong thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp ở Việt Nam sẽ đƣợc trình bày cụ thể ở chƣơng II của Luận văn.
1.2.2. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp từ góc độ thƣơng mại
Đối tƣợng của quyền sở hữu công nghiệp là sản phẩm trí óc của con ngƣời, tri
thức nhân loại. Tài sản trí tuệ đang tiến dần tới chỗ là thƣớc đo khả năng tồn
tại và
thành đạt trong tƣơng lai của các công ty. Tại châu Âu, ngay từ đầu những năm
1990
tài sản vô hình đã chiếm hơn 1/3 tổng giá trị tài sản. Đầu năm 1992 tài sản vô
hình đã
chiếm hơn 35% tổng đầu tƣ thuộc khu vực nhà nƣớc và tƣ nhân ở Hà Lan [4, trang
6].
Với những lý do này, sở hữu trí tuệ đôi khi đƣợc gọi là “giá trị ẩn”, nhƣng dù
đƣợc gọi là ẩn hay cụ thể thì rõ ràng đó là những yếu tố quan trọng đóng góp vào
giá trị thƣơng mại của doanh nghiệp.
Bất kỳ một sự sử dụng bất hợp pháp nào về quyền sở hữu công nghiệp cũng
là sự xâm phạm quyền lợi của ngƣời sở hữu chúng. Trƣớc kia, khi sự trao đổi buôn
bán giữa các quốc gia là hạn hẹp thì sự xâm phạm này chỉ tác động ở phạm vi từng
quốc gia, ở phạm vi thƣơng mại trong một nƣớc. Và các vấn đề nảy sinh do những
vi phạm này chủ yếu đƣợc xem xét ở cấp độ quốc gia. Tuy vậy, trong những năm
gần đây, có một thực tế ngày càng đƣợc chứng minh là các tiêu chuẩn đƣợc các
nƣớc sử dụng để bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của họ cũng nhƣ hiệu quả trong
37
thực thi những tiêu chuẩn này đã tác động đến sự phát triển của thƣơng mại quốc
tế.
Có rất nhiều lý do, trong đó những lý do sau đây cho thấy sự cần thiết phải bảo
hộ
quyền sở hữu công nghiệp từ góc độ thƣơng mại:
Thứ nhất, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ ngày càng đƣợc tập trung và
chú trọng tại các nƣớc phát triển. Kết quả là các sản phẩm xuất khẩu- sản phẩm
truyền thống nhƣ hóa chất, phân bón… và các sản phẩm tƣơng đối hiện đại nhƣ
thiết bị viễn thông, vi tính….chứa đựng các yếu tố sáng tạo và kỹ thuật gắn với
quyền sở hữu công nghiệp. Ngoài ra, để tạo ra đƣợc sản phẩm tích hợp đƣợc nhiều
tinh túy của trí óc con ngƣời không phải là chuyện đơn giản mà mất rất nhiều
công
sức trí tuệ và tiền bạc để đâu tƣ, sản xuất thử, sản xuất thật…Bởi vậy, các
doanh
nghiệp sản xuất đều mong muốn có sự đảm bảo sao cho bất kỳ sản phẩm nào đƣa ra
thị trƣờng thì các chủ sở hữu của các đối tƣợng sở hữu công nghiệp phải đƣợc bảo
hộ đầy đủ. Điều này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể bù đắp đƣợc những
chi phí giành cho nghiên cứu và phát triển sản phẩm mà họ đã phải bỏ ra.
Thứ hai, cùng với việc nhiều nƣớc đang phát triển loại bỏ dần các rào cản đối
với đầu tƣ nƣớc ngoài, các cơ hội mới đang xuất hiện đối với việc sản xuất các
sản
phẩm đƣợc cấp phép tại nƣớc này dƣới hình thức chuyển quyền sử dụng hoặc liên
doanh. Tuy nhiên, việc chuyển quyền sử dụng hoặc liên doanh này có đạt đƣợc một
cách hiệu quả hay không lại phụ thuộc vào hệ thống các qui định về bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp của nƣớc chủ nhà tiếp nhận nhƣ thế nào để đảm bảo quyền sở
hữu công nghiệp của họ đối với công nghệ và không bị chiếm hữu bởi các đối tác
địa phƣơng do có sự thay đổi trong chính sách.
Thứ ba, bên cạnh việc cải tiến kỹ thuật sản xuất sản phẩm để đƣa sản phẩm
vào lƣu thông thƣơng mại quốc tế là một cách tối ƣu nhằm thu lợi nhuận thì việc
làm hàng nhái và hàng giả cũng phát triển vì các sản phẩm nhái lại trở nên rẻ và
đơn
giản. Tại những nƣớc mà pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không đƣợc thực
thi nghiêm chỉnh đã gây nên sự gia tăng sản xuất hàng giả và hàng sản xuất bất
hợp
pháp, không chỉ đối với hàng bán trong nƣớc và mà cả đối với hàng xuất khẩu.
38
Ngày nay, các quốc gia đã có nhận thức rõ ràng hơn rằng sở hữu trí tuệ là
một trong những tài sản giá trị nhất hoặc thƣờng là tài sản giá trị nhất trong
giao
dịch thƣơng mại, cho dù đó là thỏa thuận lixăng, hay về sản xuất, mua bán hoặc
phân phối… .Li-xăng sử dụng bằng độc quyền sáng chế, tƣ liệu đƣợc bảo hộ quyền
tác giả và nhãn hiệu hàng hóa thƣờng đƣợc kết hợp với chuyển giao bí quyết dƣới
hình thức đào tạo và là một yếu tố ngày càng quan trọng trong các giao dịch nói
trên. Quan niệm cho rằng hệ thống sở hữu trí tuệ cấp những độc quyền mà việc sử
dụng đƣợc thực hiện bằng cách phong tỏa các đối thủ cạnh tranh ngày càng tỏ ra
sai
lầm trong thực tế, sở hữu trí tuệ đƣợc sử dụng để cấp li-xăng cho sản phẩm và
công
nghệ và để ngăn chặn ngƣời khác sử dụng chúng thƣờng ở mức độ nhƣ nhau. Các
lixăng này cho phép chủ sở hữu của quyền sở hữu trí tuệ hƣởng thu nhập từ phí sử
dụng và ngƣời đƣợc cấp lixăng nhận những sản phẩm và công nghệ mà có thể bằng
cách khác họ không thể tiếp cận đƣợc. Trong các giao dịch đó, những ngƣời đƣợc
cấp lixăng cũng có thể đạt đƣợc quyền để cải tiến hoặc sáng tạo tác phẩm phát
sinh
và để phát tiển tài sản thành sở hữu trí tuệ của riêng mình, sau đó, các tài sản
này lại
có thể đƣợc sử dụng để cấp lixang chéo hoặc lixăng cho những ngƣời khác. Giao
dịch này xét từ góc độ thƣơng mại, tạo ra một chu trình rất có kết quả đối với
sáng
chế và giao dịch kinh doanh.
Gần đây, vai trò của hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đƣợc đƣa ra
ngày càng quan trọng và đƣợc chú ý, đƣợc coi nhƣ là công cụ để phân tích về kế
hoạch công nghiệp và ra quyết định. Hai công cụ chính này đƣợc sử dụng hiệu quả
có thể mang lại lợi ích thƣơng mại cho công ty. Trƣớc hết, khía cạnh thông tin
trong
hệ thống sáng chế: nhận thức về trình độ phát triển khoa học công nghệ trong
lĩnh
vực cụ thể có thể tránh đƣợc sự chùng chéo trong công việc nghiên cứu bởi các
chỉ
số mà công nghệ mong muốn đã tồn tại. Nó cũng cung cấp những sáng kiến cho sự
phát cải tiến công nghệ tƣơng lai và có thể đƣa ra một sự hiểu biết về những
hoạt
động công nghệ của đối thủ cạnh tranh và bởi các nƣớc mà những sáng chế đã đƣợc
làm ra, chiến lƣợc marketting của đối thủ cạnh tranh. Tìm hiểu về trình độ phát
triển