Luận văn thạc sĩ kinh tế: Những khía cạnh thương mại liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và khả năng khai thác đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
9,775
266
115
99
Bảng 3.1 : Thống kê cấp bằng sáng chế, mẫu hữu ích và kiểu dáng công
nghiệp tại Trung Quốc từ 1997 đến 2003
Năm
Sáng chế
Mẫu hữu ích
Kiểu dáng CN
Tổng số
Trung
Quốc
Nƣớc
ngoài
Tổng số
Trung
Quốc
Nƣớc
ngoài
Tổng số
Trung
Quốc
Nƣớc
ngoài
1997
1494
1532
1962
27338
27185
153
20160
17672
2488
1998
4733
1655
3078
33902
33717
185
29154
260006
3248
1999
7637
3097
4540
56368
56094
274
36151
32910
3241
2000
12638
6177
6506
54743
54407
336
37919
34652
3267
2001
16296
5395
10901
54359
54018
341
43596
39865
3731
2002
21437
5868
15605
57484
57092
392
53442
49143
4299
2003
37154
11404
25750
68906
68291
615
76166
69893
6273
Tổng
103470
35218
68342
353100
350804
2296
296688
270141
26547
Nguồn : http://www.vipatco.vn/default.asp?cat_id=22&catSub_id=40&id=521
Từ bảng thống kê trên ta thấy, trong tổng số 103.470 Bằng độc quyền sáng
chế đã cấp từ 1997 đến 2003 có tới 68342 Bằng cấp cho ngƣời nƣớc ngoài, gấp 2
lần số cấp cho ngƣời Trung Quốc (35128). Nhƣng ngƣợc lại số bằng độc quyền
Kiểu dáng công nghiệp cấp cho ngƣời Trung Quốc cao gấp hơn 10 lần số bằng cấp
cho ngƣời nƣớc ngoài (270141/27547), đặc biệt là số bằng độc quyền Mẫu hữu ích
cấp cho ngƣời Trung Quốc cao hơn 152 lần số bằng cấp cho ngƣời nƣớc ngoài
(350804/2296). Những số liệu trên cho thấy rằng, các nhà sáng tạo Trung Quốc rất
quan tâm đến việc tạo ra và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với mẫu hữu ích
và kiểu dáng công nghiệp, và cũng chính vì vậy trên thị trƣờng Trung Quốc các
mặt
hàng tiêu dùng rất phong phú về chủng loại và đa dạng về mẫu mã, kiểu dáng.
3.2.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
100
Nhật Bản luôn đƣợc xem là một biểu tƣợng của sức mạnh kinh tế Châu Á. Từ
một đất nƣớc chậm phát triển, nặng về truyền thống, thiếu tài nguyên thiên
nhiên, từ sau
thế chiến II, Nhật Bản đã dần trở thành một cƣờng quốc trong khu vực và trên thế
giới.
Với một nền kinh tế phát triển vƣợt bậc, Nhật Bản cũng phải đối mặt với
những vấn đề về vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói
riêng. Thậm chí vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trƣớc, sau khi nhiều
hạn chế thƣơng mại bị dỡ bỏ, hàng hóa nƣớc ngoài tràn ngập thị trƣờng Nhật Bản,
trong số đó có rất nhiều hàng giả, hàng nhái nên Nhật còn bị mang tiếng là thiên
đường của hàng giả. Tuy vậy, những kinh nghiệm của một nƣớc đi trƣớc và những
mối quan hệ mật thiết với phƣơng Tây đã giúp cho Nhật thành công trong cuộc
chiến chống hàng giả, hàng nhái, hoàn thiện công tác bảo hộ sở hữu trí tuệ và
đến
ngày nay, chính những chuyên gia đến từ đất nƣớc hoa anh đào lại góp phần đắc
lực
vào công tác đấu tranh chống hàng giả tại các quốc gia láng giềng trong khu vực
bằng việc truyền đạt các kinh nghiệm quí báu lại cho các đồng nghiệp đến từ các
nƣớc trong khu vực.
3.2.2.1. Truyền thống về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Nhật Bản là một quốc gia có truyền thống về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
Ngay từ sau cuộc cải cách Minh Trị, hệ thống sáng chế đã đƣợc tạo ra nhằm đẩy
mạnh công cuộc hiện đại hóa, và mở cửa kinh tế. Sau khi mở cửa kinh tế với các
nƣớc phƣơng Tây, hệ thống sáng chế đã đƣợc du nhập từ Hoa Kỳ và Châu Âu vào
Nhật Bản. Vào năm Minh Trị thứ 4 (năm 1871), Nhật Bản đƣa ra Luật riêng của
mình, với tên gọi “các điều khoản tạm thời về độc quyền”, đƣợc xem nhƣ Luật đầu
tiên về sáng chế tại Nhật Bản. Tuy thế, việc thi hành Luật này bị hoãn lại vào
năm
sau bởi lẽ vào thời điểm đó dân Nhật không hiểu rõ về Luật này cho lắm và ngay
cả
từ phía Chính phủ cũng gặp nhiều vấn đề trong việc thực hiện nó.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 1885, năm Minh Trị thứ 18, Nhật Bản cho ra đời
Đạo luật Độc quyền sáng chế. Và sau đó, Luật về Mẫu hữu ích đƣợc ban hành vào
năm Minh Trị thứ 38 (năm 1905) để bổ sung vào hệ thống sáng chế. Luật về nhãn
hiệu hàng hóa đầu tiên đƣợc ban hành tại Nhật Bản vào năm Minh Trị thứ 17 (năm
101
1884), một năm trƣớc khi ra đời Đạo luật về độc quyền sáng chế. Sau đó, có một
số
chỉnh sửa và Luật về nhãn hiệu hiện nay là kết quả của một sự chỉnh sửa toàn bộ
Luật về nhãn hiệu vào năm Showa thứ 34 (năm 1959). Vào năm 1885, nhãn hiệu
đầu tiên đƣợc đăng ký tại Nhật Bản. Đó là nhãn hiệu cho thuốc mỡ và thuốc ngừa
thai đƣợc đăng ký bởi Yuzen Hirai tại tỉnh Kyoto.
Luật bảo hộ thiết kế công nghiệp đƣợc ra đời vào năm Minh Trị thứ 21 (năm
1888) và cũng đƣợc chỉnh sửa cho đến khi ra đời Luật chỉnh sửa hoàn thiện vào
năm Showa thứ 34.
3.2.2.2. Đẩy mạnh hợp tác về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với các nước trong
khu vực
Một trong những kinh nghiệm hết sức thiết thực của Nhật Bản trong vấn đề
tăng cƣờng việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chính là đẩy mạnh hợp tác quốc
tế và đặc biệt là hợp tác với các nƣớc đang phát triển láng giềng trong lĩnh vực
sở
hữu trí tuệ.
Qua bảng 3.2 dƣới đây chúng ta có thể thấy đƣợc những nét chính trong quan
hệ hợp tác quốc tế của Nhật Bản trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và sở
hữu
công nghiệp nói riêng với các quốc gia láng giềng trong khu vực.
Bảng 3.2: Hợp tác khu vực trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Nhật
Bản
Quốc gia
Quan hệ hợp tác
Chi tiết hợp tác
(1) Trung Quốc
Văn phòng sáng chế của Nhật Bản luôn tiếp
nhận rất nhiều thực tập sinh và triển khai
rất nhiều chƣơng trình hợp tác đa dạng nhất
là trong lĩnh vực phát triển nguồn lực con
ngƣời.
Mặc dù Hội nghị giữa các ủy viên sở hữu
Cử các chuyên gia
sở hữu trí tuệ đến làm
việc tại Trung Quốc
trong ngắn hạn
Tiếp nhận các thực
tập sinh
102
trí tuệ Nhật bản và Trung Quốc diễn ra 1
lần mỗi năm, Văn phòng sáng chế Nhật bản
cung cấp cho phía Trung Quốc các thông
tin về những chiến lƣợc và biện pháp của
Nhật bản. Chẳng hạn các thông tin về việc
thực thi các quá trình kiểm tra nhƣ thế nào
và về nguồn nhân lực đƣợc phát triển trong
các ban kiểm tra nhƣ thế nào.
Tiếp nhận các
nhóm nghiên cứu về
sở hữu trí tuệ của phía
Trung Quốc
(2) Hàn Quốc
Hội nghị giữa các ủy viên sở hữu trí tuệ hai
nƣớc đƣợc tổ chức thƣờng niên. Cuộc họp
của các chuyên gia thông tin công nghệ
đƣợc tổ chức mỗi năm kể từ 2000, và Cuộc
gặp của các nhà kiểm tra nhãn hiệu và kiểu
dáng công nghiệp cũng đƣợc tổ chức hằng
năm bắt đầu từ năm 2001
Văn phòng sáng chế Nhật Bản đẩy mạnh
hợp tác để chia sẻ các kêt quả tìm kiếm
trong việc kiểm tra thông tin về nhãn hiệu
cũng nhƣ việc số hóa dữ liệu. Khi việc số
hóa dữ liệu hòan thành, sự trao đổi các tài
liệu ƣu tiên bằng con đƣờng điện tử đã đực
thực hiện từ năm 2001.
Tiếp nhận các
nhóm nghiên cứu về
sở hữu trí tuệ của phía
Hàn Quốc
(3)Trung Quốc-
Hàn Quốc
Thông qua cuộc gặp về Đối thoại chính
sách ba bên đƣợc tổ chức 1 lần mỗi năm
giữa cơ quan sở hữu trí tuệ Nhật Bản, cơ
quan sở hữu trí tuệ Trung Quốc và cơ quan
sở hữu trí tuệ Hàn Quốc. JPO có thể trao
Hội thảo của các
doanh nghiệp vừa và
nhỏ có liên quan đến
sở hữu trí tuệ đƣợc tổ
chức bởi 3 cơ quan sở
103
đổi các thông tin về những chủ đề chung
giữa 3 bên, các chủ đề quốc tế trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ và các chƣơng trình hỗ
trợ giành cho các quốc gia ASEAN.
hữu trí tuệ quốc gia
JPO, KIPO, và SIPO
(4) Indonesia
JPO đẩy mạnh phát triển nguồn lực con
ngƣời và xử lí thông tin. Kể từ 2001, hằng
năm phái các phát ngôn viên đến các cuộc
hội thảo lƣu động. Nhật Bản cũng ủng hộ
phát triển hệ thống điều hành chung về sở
hữu trí tuệ – DGIP (Directorate General of
IPR) theo một chƣơng trình triển khai bởi
JICA kể tử năm 2005
Cử các chuyên gia
sở hữu trí tuệ đến làm
việc trong ngắn hay
dài hạn
Tiếp nhận các thực
tập sinh
Phái các phát ngôn
viên đến các cuộc hội
thảo lƣu động.
(5) Thái Lan
JPO đẩy mạnh phát triển nguồn lực con
ngƣời và xử lí thông tin.
.JPO cũng hỗ trợ việc số hóa hệ thống xử lí
đơn tại Ban Xúc tiến công nghiệp DPI
(Department of Industrial Promotion).
Cử các chuyên gia
sở hữu trí tuệ đến làm
việc trong ngắn hay
dài hạn
Tiếp nhận các thực
tập sinh
Hợp tác trong công
tác kiểm tra, etc.
(6) Philippine
JPO tăng cƣờng phát triển nguồn nhân lực
và hợp tác xử lí thông tin. Với sự hỗ trợ của
một kế hoạch kiểu dự án hợp tác kỹ thuật
của JICA, JPO thiết lập các hệ thống xử lí
Cử các chuyên gia
sở hữu trí tuệ đến làm
việc trong ngắn hay
dài hạn
104
đơn cho sáng chế, mẫu hữu ích và kiểu
dáng công nghiệp trong năm 2003 và
chuyển giao công nghệ và kỹ năng cho các
nhân viên sở hữu trí tuệ Philippine nhằm
nâng cao qui trình hiện đại hóa các thủ
hành chính liên quan đến sở hữu công
nghiệp. Từ tháng 11 năm 2004, việc hợp
tác tiếp theo của dự án này đƣợc đặt dƣới
sự điều hành của JICA.
Tiếp nhận các thực
tập sinh
(7) Việt Nam
JPO chủ yếu tăng cƣờng phát triển nguồn
nhân lực và hợp tác xử lí thông tin. Với sự
hỗ trợ của một kế hoạch kiểu dự án hợp tác
kỹ thuật của JICA, JPO thiết lập các hệ
thống xử lí đơn cho các quyền sở hữu công
nghiệp và và chuyển giao công nghệ và kỹ
năng cho các nhân viên sở hữu trí tuệ của
Văn phòng sở hữu trí tuệ quốc gfia Việt
Nam -National Office of Intellectual
Property (NOIP) nhằm nâng cao qui trình
hiện đại hóa các thủ hành chính liên quan
đến. Kể từ tháng 1 năm 2005, giai đoạn 2
của dự án đƣợc đặt dƣới sự quản lí của
JICA.
Cử các chuyên gia
sở hữu trí tuệ đến làm
việc trong ngắn hay
dài hạn
Tiếp nhận các thực
tập sinh
(8) Malaysia
JPO chủ yếu tăng cƣờng phát triển nguồn
nhân lực và hợp tác xử lí thông tin. Kể từ
năm 2002, theo một chƣơng trình nghiên
cứu phát triển của JICA, JPO hỗ trợ
Malaixia trong việc thiết lập hệ thống xử lí
Cử các chuyên gia
sở hữu trí tuệ đến làm
việc trong ngắn hay
dài hạn
105
đơn cho kiểu dáng công nghiệp và ủng hộ
qui trình hiện đại hóa các thủ tục hành
chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Tiếp nhận các thực
tập sinh
Nguồn: http://www.jpo.go.jp
3.3. Giải pháp để các doanh nghiệp Việt Nam tăng cƣờng bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp và nâng cao khả năng khai thác việc bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp dƣới góc độ thƣơng mại
3.3.1. Tích cực chống nạn hàng giả, sao chép thƣơng hiệu
Chống hàng giả ở nƣớc ta hiện nay là một công việc hết sức cần thiết và đòi
hỏi sự nỗ lực của tất cả mọi ngƣời. Thật vậy, trƣớc hết, hàng giả gây ảnh hƣởng
đến
lợi ích kinh tế và uy tín (lợi ích phi kinh tế) của các doanh nghiệp nói chung
và các
chủ sở hữu của các sản phẩm bị làm nhái, làm giả nhãn hiệu nói riêng. Thứ hai,
nạn
hàng giả kìm hãm tính sáng tạo của con ngƣời. Thứ ba, hàng giả ảnh hƣởng đến
kinh tế, sức khoẻ, nhiều khi là tính mạng của ngƣời tiêu dùng. Thứ tƣ, hàng giả
là
một trong những nguyên nhân gây rối loạn thị trƣờng, là mầm mống cho cạnh tranh
không lành mạnh phát triển, khiến cho hiệu lực pháp luật bị suy giảm, các nhà
đầu
tƣ chân chính không muốn đầu tƣ, dẫn đến giảm sút đầu tƣ trong nƣớc và nƣớc
ngoài.
Tuy vậy, cuộc đấu tranh này không thể nhanh chóng trong một vài tháng,
một vài năm mà đòi hỏi phải tiến hành liên tục, lâu dài, bền bỉ, theo một chƣơng
trình có tính khả thi. Nó đòi hỏi phải có sự đoàn kết hợp lực không chỉ giữa các
cơ
quan bảo vệ thực thi pháp luật, mà còn giữa các cơ quan quản lý kinh tế, quản lý
thị
trƣờng, quản lý tiêu chuẩn chất lƣợng và các tổ chức quần chúng, toàn thể nhân
dân.
Đặc biệt, công tác chống hàng giả đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân các doanh
nghiệp
trong nƣớc.
Để cho cuộc chiến chống hàng giả đƣợc thành công hơn đáp ứng nguyện
vọng của các doanh nghiệp làm ăn chân chính, của ngƣời tiêu dùng và đòi hỏi của
106
hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam có thể chú ý một số vấn đề
cơ
bản sau:
- Tăng cƣờng hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền nhằm đẩy mạnh hiệu
quả của công tác quản lý thị trƣờng, quản lý sản xuất kinh doanh.
- Tăng cƣờng hơn nữa công tác bồi dƣỡng kiến thức pháp luật và nâng cao
trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ chuyên môn theo dõi, xử lý các vấn đề liên
quan
đến hàng giả. Tổ chức tốt các khóa học, huấn luyện về các kiến thức liên quan
đến
sở hữu công nghiệp và việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho mọi nhân viên
trong doanh nghiệp
- Khuyến khích thành lập các tổ chức điều tra tƣ nhân về hàng giả.
- Đầu tƣ cơ sở, vật chất cho công tác bảo hộ: Nhanh chóng xây dựng và hiện
đại hoá mạng thông tin cũng nhƣ các phƣơng tiện phục vụ cho công tác phòng
chống hàng giả trong cả nƣớc, đảm bảo cho thông tin đƣợc nhanh, đáp ứng yêu cầu
của tất cả các đối tƣợng liên quan tạo điều kiện cho công tác chống sản xuất,
buôn
bán hàng giả đạt hiệu quả cao.
3.3.2. Chủ động áp dụng các biện pháp bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
đối tƣợng quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến doanh nghiệp của mình.
Do chƣa hiểu rõ tầm quan trọng của việc bảo hộ đối tƣợng quyền sở hữu
công nghiêp liên quan đến doanh nghiệp mình vì tài sản của đối tựợng sở hữu công
nghiệp là loại tài sản vô hình, khó có thể nhìn thấy đƣợc một cách rõ dàng. Vì
thế,
Một trong những yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến ý thức
chƣa cao trong việc chủ động đăng ký để đƣợc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Một doanh nghiệp không biết bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, tận dụng quyền
lợi của mình, thì khó để các biện pháp của các cấp chính quyền nhà nƣớc bảo vệ
lợi
ích cho doanh nghiệp đó. Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, nếu
chậm chân trong việc đăng ký bảo hộ về thƣơng hiệu, nhãn hiệu có thể làm doanh
nghiệp bị mất thƣơng hiệu ngay cả trên thị trƣờng Việt Nam chứ chƣa nói đến trên
thị trƣờng quốc tế. Để phần nào giải quyết vấn đề này, cấp lãnh đạo doanh
nghiệp,
107
cấp có khả năng ra quyết định phải hiểu và có ý thức để bảo vệ sở hữu công
nghiệp
của doanh nghiệp. Chẳng hạn, giám đốc một công ty sản xuất võng nôi tại Thành
phố Hồ Chí Minh trƣớc đây từng thề không đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng hàng hóa
trong nƣớc, nay lại cho VnExpress biết, ông bắt đầu làm hồ sơ đăng ký bảo hộ
quốc
tế. "Cạnh tranh hiện nay đã rất căng thẳng. Vào WTO càng có nhiều đối thủ hơn,
kinh doanh có luật chơi chung nên tôi quyết định phải thủ cho chắc nhãn hiệu của
mình", ông giám đốc lý giải cho việc phá bỏ lời thề” [1]
Bài học kinh nghiệm của các doanh nghiệp nhƣ Duy Lợi hay Trung Nguyên
luôn luôn phải đƣợc các doanh nghiệp Việt Nam nghiên cứu và cảnh giác. Việc
chậm chân trong đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại thị trƣờng nƣớc
ngoài đã khiến các doanh nghiệp này bị cuốn vào vòng xoáy kiện tụng tốn kém rất
nhiều thời gian, công sức và tiền của.
3.3.3. Phổ biến những kiến thức liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
cho bản thân các khách hàng tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp.
Công tác chống hàng giả đòi hỏi sự phối hợp không chỉ của các doanh nghiệp
hay của doanh nghiệp với các cơ quan chức năng mà sự hỗ trợ và hợp tác của ngƣời
dân là rất cần thiết. Việc phát hiện vi phạm quyền sở hữu công nghiệp sẽ dễ dàng
hơn
bởi ngƣời dân, những ngƣời tiêu dùng các sản phẩm vi phạm bản quyền. Chính vì
thế,
từ phía các doanh nghiệp, việc phổ biến cho những ngƣời tiêu dùng những kiến
thức,
kinh nghiệm phân biệt sản phẩm thật, giả là cần thiết. Hơn thế nữa, các doanh
nghiệp
cũng cần tăng cƣờng công tác quảng bá nhãn hiệu, thƣơng hiệu của mình cho ngƣời
tiêu dùng thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Trao đổi thông tin với
hiệp
hội bảo vệ ngƣời tiêu dùng để truyền bá sản phẩm chính gốc, sản phẩm thật.
Hơn nữa, để thực hiện tốt bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ một cách mạnh mẽ và
ổn định, đi sâu vào tiềm thức của mỗi ngƣời dân thì việc giáo dục, tập huấn để
nâng
cao ý thức, tôn trọng sức lao động của ngƣời khác phải đƣợc chú trọng. Bản thân,
ngay từ khi còn ngồi ghế nhà trƣờng, việc thực hiện nghiêm túc nạn cấm quay cóp,
nhìn bài, ném bài để tạo nên một thói quen tốt, trung thực với bản thân. Một xã
hội
văn minh là một xã hội mà tại đó mọi quyền phải đƣợc trân trọng.
108
3.3.4. Tích cực tìm kiếm các kênh thông tin trong nƣớc và quốc tế, cập nhật
thƣờng xuyên nhằm tránh các sai sót không cố ý trong việc phát triển các mẫu
mã sản phẩm của doanh nghiệp, tăng cƣờng xây dựng chiến lƣợc thƣơng hiệu..
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, ngày càng nhiều các
doanh nghiệp mới đƣợc thành lập. Tuy nhiên, trên bƣớc đƣờng kinh doanh của
mình, nếu không tỉnh táo trong việc lập kế hoạch kinh doanh, đƣa ra mẫu mã sản
phẩm, có thể doanh nghiệp sẽ vô tình sản xuất một loại sản phẩm đã đƣợc một
doanh nghiệp khác đăng ký bảo hộ. Hiện nay, hệ thống thông tin đa dạng, nhiều
chiều giúp cho các doanh nghiệp có thể cập nhật nhanh chóng những thông tin về
sở
hữu công nghiệp trên thế giới. Hơn nữa, ngay tại Việt Nam, các doanh nghiệp cũng
có thể tìm thấy những thông tin quan trọng về tình hình đăng ký nhãn hiệu hàng
hóa, thƣơng hiệu doanh nghiệp thông qua cổng thƣ viện điện tử về sở hữu công
nghiệp hoặc thông qua việc liên hệ trực tiếp với cơ quan quản lí về sở hữu trí
tuệ tại
Việt Nam là Cục sở hữu trí tuệ.
Một trong những sai lầm thƣờng gặp nhất hiện nay của các công ty là mong
muốn có đựơc một thƣơng hiệu mạnh nhƣng lại không thực hiện bƣớc khởi đầu căn
bản nhất là xây dựng chiến lƣợc thƣơng hiệu. Không có chiến lƣợc thƣơng hiệu,
công tác quản lý và phát triển thƣơng hiệu sẽ gặp rất nhiều khó khăn và gặt hái
đƣợc ít thành quả. Chiến lƣợc thƣơng hiệu chỉ ra đƣờng hƣớng và trọng tâm cho
việc quản lý thƣơng hiệu, đồng thời tạo nền tảng vững chắc giúp nhà quản lý thực
hiện đồng bộ mọi hoạt động liên quan thƣơng hiệu đó. Chiến lƣợc thƣơng hiệu phải
đƣợc xuất phát từ chính công việc kinh doanh. Trƣớc kia, các công ty chỉ tập
trung
nghiên cứu những sản phẩm mà họ cho là thị trƣờng sẽ mua. Tuy nhiên, sự thật là
những chiến lƣợc thƣơng hiệu thành công nhất đều khởi nguồn từ sự thấu hiểu sâu
sắc ý nghĩa và nhu cầu của ngƣời tiêu dùng (phƣơng pháp luận “từ ngoài vào
trong”). Phƣơng pháp này tập trung tìm hiểu cách ngƣời tiêu dùng nhận định sự
việc, từ đó tìm ra cách để kích hoạt hƣớng họ về thƣơng hiệu của mình.
109
3.3.5. Thành lập ủy ban chuyên trách, trực thuộc doanh nghiệp, có chức năng
phân tích các thông tin về tính năng, cấu hình và xác định sản phẩm hay dịch vụ
đề xuất vi phạm hay không quyền sở hữu công nghiệp.
Uỷ ban này có thể gồm một hoặc nhiều cá nhân, tồn tại trong từng doanh
nghiệp, một nhóm các doanh nghiệp trong cùng ngành, hoặc kết hợp với Cục bảo vệ
sở hữu công nghiệp của mỗi quốc gia….Uỷ ban này có tác dụng hỗ trợ, tƣ vấn cung
cấp thông tin cho doanh nghiệp về tình hình sở hữu công nghiệp của loại hàng hóa
doanh nghiệp cần. Đồng thời chức năng này có trong doanh nghiệp cũng giúp
doanh nghiệp nghiên cứu đƣợc tình hình sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, sản phẩm
có bảo hộ để tìm điểm mạnh, điểm yếu của sản phẩm đó, hỗ trợ ban giám đốc công
ty đƣa ra đƣợc chiến lƣợc phát triển sản phẩm có lợi nhất so với sản phẩm của
đối
thủ cạnh tranh. Hằng năm, các doanh nghiệp nên tạo điều kiện cho các cá nhân
thuộc ủy ban này tham dự đầy đủ các buổi hội thảo liên quan đến lĩnh vực sở hữu
công nghiệp đƣợc tổ chức trong nƣớc và quốc tế, đăng ký tham gia các lớp tập
huấn
tổ chức bởi VJCC, tham gia các khóa đào tạo tại nƣớc ngoài về sở hữu công nghiệp
…
3.3.6. Tăng cƣờng hợp tác với các đối tác nƣớc ngoài trong lĩnh vực bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp
Trên bình diện quốc tế, việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp sẽ
thành công hơn nếu các doanh nghiệp có đƣợc mối liên hệ hợp tác chặt chẽ với các
đối tác nƣớc ngoài, hoặc các đối thủ cạnh tranh. Việc có sở hữu công nghiệp đƣợc
các thông tin về đối thủ cạnh tranh, về các thị trƣờng tiềm năng sẽ giúp cho
doanh
nghiệp có đƣợc những định hƣớng tốt trong việc đƣa ra các biện pháp thực thi
quyền sở hữu công nghiệp cũng nhƣ tôn trọng quyền sở hữu công nghiệp của các
doanh nghiệp khác. Tích cực hợp tác và tìm hiểu thông tin tại các sở hữu công
nghiệp cơ quan quản lí về sở hữu công nghiệp nƣớc ngoài cũng là một chìa khóa
giúp các doanh nghiệp Việt Nam mở cửa thị trƣờng quốc tế, tăng cƣờng công tác
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của mình trên thị trƣờng rộng lớn này.
110
3.3.7. Khai thác triệt để cơ sở dữ liệu sẵn có về sở hữu công nghiệp trên thế
giới
Có thể nói, việc áp dụng các phƣơng tiện hiện đại nhƣ internet vào khai thác
thông tin phục vụ cho việc kinh doanh nói chung và việc bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp nói riêng là một vấn đề khá mới mẻ với các doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều
doanh nghiệp vẫn còn chƣa lắp đặt hệ thống internet hoặc hệ thống mạng nội bộ
trong doanh nghiệp, thậm chí ngay cả việc sử dụng internet nhƣ thế nào cũng là
một
điều khó khăn đối với một số lãnh đạo doanh nghiệp.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc thiếu thông tin cập nhật sẽ có
ảnh hƣởng to lớn đến khả năng thành công của doanh nghiệp. Do không có nhiều
tiềm lực về tài chính nên trƣớc khi nghiên cứu, phát triển một loại sản phẩm
hoặc
dịch vụ nào đó, các doanh nghiệp cần tra cứu thông tin để tìm hiểu tình hình
trên thế
giới, tránh lặp lại những nghiên cứu, sáng chế đã có. Các doanh nghiệp có thể
truy
cập những dữ liệu sẵn có đó trên internet vào các website nhƣ: www.espacenet.com
hay www.wipo.com. Ngoài ra các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể tra cứu các
thông tin rất quan trọng liên quan đến các qui định về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp, việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hay các thủ tục đăng ký
bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp trên trang web chính thức của Văn phòng SHTT quốc
gia Việt Nam (www.noip.org), các bài viết về tình hình vi phạm quyền sở hữu công
nghiệp trong nƣớc và quốc tế trên các báo điện tử hay trên các website của các
công
ty tƣ vấn Luật Việt Nam nhƣ công ty Luật Gia Phạm (www.luatgiapham.com),
công ty Luật về sở hữu trí tuệ Winco (www.wincolaw.com.vn), các trang web của
Bộ Khoa học và Công nghệ (www.most.gov.vn), của các sở khoa học và công nghệ
hoặc của Uỷ ban nhân dân các tỉnh ….
3.3.8. Tích cực hợp tác với hải quan cửa khẩu để phòng ngừa nạn hàng giả,
hàng nhái nhập khẩu qua biên giới
Một trong những vấn nạn trong nền kinh tế là nạn hàng giả, hàng nhái. Nếu
nhƣ nạn hàng giả, hàng nhái trong nƣớc đã mang lại những tác hại không nhỏ cho
nền kinh tế cũng nhƣ cho sức khỏe ngƣời tiêu dùng thì hàng giả, hàng nhái nhập
khẩu ngoài những tác hại trên lại rất khó kiểm soát việc tiêu thụ, nguồn gốc
xuất xứ
111
và do đó những tác hại còn nghiêm trọng hơn rất nhiều. Việc ngăn chặn hàng giả,
hàng nhái nhập khẩu vào thị trƣờng trong nƣớc rất cần sự nỗ lực của các ngành,
các
cấp, đặc biệt là cơ quan hải quan. Các doanh nghiệp một mặt tăng cƣờng đăng ký
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của mình, mặt khác phải tích cực hợp tác với cơ
quan Hải quan nhằm giới thiệu những mẫu sản phẩm mới của doanh nghiệp thông
qua các buổi tọa đàm hoặc thảo luận cùng bộ phận chuyên trách chống hàng giả,
hàng nhái của cơ quan hải quan. Ngoài ra các cơ quan hải quan cũng cần nâng cao
ý
thƣc trách nhiệm của các bộ phận chuyên trách chống hàng giả hàng nhái thông qua
việc tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng các kiến thức về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp cho các cán bộ thuộc bộ phận này. Đối với nƣớc ta, việc có một biên giới
chung trên bộ rất dài với Trung Quốc cũng là một thách thức không nhỏ cho ngành
hải quan trong việc đấu tranh chống hàng giả có xuất xứ từ Trung Quốc, những mặt
hàng giờ đây không chỉ tác động tiêu cực đến sức khỏe của ngƣời Trung Quốc mà
đã trở thành một mối đe dọa trên toàn cầu.
112
KẾT LUẬN
Gần một thập kỷ trôi qua kể từ khi 189 thành viên của Liên Hợp quốc thông
qua Tuyên bố Thiên niên kỷ tại Hội nghị thƣợng đỉnh năm 2000, nƣớc ta đã và đang
chuyển mình mạnh mẽ để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, xóa đói giảm nghèo,
từng bƣớc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ đến năm 2015 của Liên Hợp Quốc.
Trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, cơ hội đến với nhân dân
Việt nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng là rất to lớn nhƣng đồng thời
nƣớc ta phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Đó là những thách thức nảy
sinh từ bối cảnh một nền kinh tế bao cấp với truyền thống nông nghiệp lạc hậu
chuyển sang một nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa; là những
thách thức từ một nền công nghệ chủ yếu dựa trên yếu tố thủ công trƣớc những đòi
hỏi về chất lƣợng, về công nghệ đối với sản phẩm của thị trƣờng nƣớc ngoài; và
đặc
biệt là những thách thức đến từ yêu cầu phải tôn trọng đối tác đồng thời phải tự
bảo
vệ quyền lợi của mình trong thƣơng mại quốc tế thông qua việc tôn trọng quyền sở
hữu công nghiệp, chống lại việc vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, tăng cƣờng
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, chống nạn hàng giả, hàng nhái...
Có thể nói, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế là một vấn đề đáng quan tâm không chỉ với các nƣớc phát triển mà ngay
cả đối với các nƣớc đang phát triển trong đó có Việt Nam. Điều này không chỉ bởi
vì các nƣớc đang phát triển phải thực hiện các cam kết trong hội nhập kinh tế
quốc
tế trong đó có việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho các công ty hay tập đoàn
của các nƣớc phát triển mà việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng cần đƣợc
triệt để thực thi vì lợi ích của chính các doanh nghiệp nƣớc mình trong thƣơng
mại
quốc tế và nhất là vì quyền lợi của ngƣời tiêu dùng, vì sự phát triển lâu dài,
bền
vững. Nghiên cứu các khía cạnh thƣơng mại của quyền sở hữu công nghiệp sẽ giúp
cho các doanh nghiệp Việt Nam có đƣợc một cái nhìn toàn diện hơn về công tác bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp, về những thuận lợi và thách thức đặt ra đối với sự
tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp của mình trên thƣơng trƣờng và đặc biệt, vì
yêu
cầu của quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới với những cam kết quốc tế về
lĩnh
113
vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà Việt Nam đã, đang và sẽ thực hiện với thế
giới.