Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hùng Vương TPHCM
4,928
976
113
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần thứ hai; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba
trở
lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Các khoản nợ nếu có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của KH bị suy
giảm thì phải tính một cách chính xác, m
inh bạch để phân loại nợ vào các nhóm nợ
phù hợp với mức độ rủi ro, cụ thể:
- Nhóm 2: Các khoản nợ tổn thất tối đa 5% giá trị nợ gốc.
- Nhóm 3: Các khoản nợ tổn thất từ trên 5%-20 % giá trị nợ gốc.
- Nhóm 4: Các khoản nợ tổn thất từ trên 20%
- 50% giá trị nợ gốc.
- Nhóm 5: Các khoản nợ tổn thất trên 50% giá trị nợ gốc.
Việc phân loại nợ theo Quyết định 493 và quyết định 18 của Ngân hàng Nhà
nước vừa dựa vào tiêu chí thời gian quá hạn của khoản vay, vừa dựa vào tiêu chí
rủi
ro của khoản vay đã làm cho các ngân hàng phải đánh giá lại thực sự các khoản nợ
đã cho KH vay và có thể đánh giá chính xác hơn về chất lượng tín dụng của mình.
- Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng
vốn:
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn = (1.2)
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng
với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy
động. Thông thường theo cách nhìn của nhiều người, chỉ tiêu này càng lớn chứng
tỏ
ngân hàng sử dụng nhiều vốn huy động và hoạt động của ngân hàng sẽ hiệu quả
hơn, điều này sẽ không đúng. Vậy tỷ lệ nà
y lớn tốt hay nhỏ tốt? Chúng ta chưa thể
khẳng định được, bởi nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì ngân hàng phải tìm
kiếm
nguồn vốn có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay thì ngân
hàng sẽ rơi vào tình trạng thừa vốn. Do đó, chỉ tiêu này chỉ m
ang tính tương đối
giúp chúng ta so sánh khả năng cho vay và huy động vốn của một ngân hàng.
- Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng: được xác định bằng doanh số thu nợ trên
dư nợ bình quân của một NHTM trong thời gian nhất định, thường là một năm.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng = (1.3)
Dư nợ bình quân
Đây là chỉ tiêu phản ánh số vòng chu chuyển của vốn vay (thường là 1 năm).
Chỉ tiêu này càng tăng thì tính tổ chức, quản lý tín dụng càng tốt, chất lượng
cho
vay càng cao. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chỉ phản ánh một cách tương đối, vì nếu
một
NHTM này cho vay các doanh nghiệp sản xuất chiếm tỷ trọng lớn, thì chỉ tiêu này
thấp hơn NHTM khác cho vay các doanh nghiệp thương mại. Như vậy, không thể
xem
chất lượng cho vay của NHTM này kém hơn. Do đó, để có nét tương đối chính
xác về chất lượng tín dụng thì các tiêu thức tính toán phải thống nhất, vòng
quay tín
dụng phải tính toán cho từng loại vay, thời hạn vay và từng đối tượng vay cụ
thể.
- Chỉ tiêu lợi nhuận: chỉ tiêu này được tính theo công thức (1.4) dưới đây:
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tỷ suất lợi nhuận = (1.4)
Tổng dư nợ tín dụng
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của NHTM chiếm p
hần lớn tổng lợi nhuận
của NHTM. Nếu lợi nhuận của một ngân hàng nào đó tăng lên hàng năm, điều đó
chứng tỏ chất lượng tín dụng được nâng lên. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh
lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lã
i suất
huy động) và thu lãi đầu ra. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn tín
dụng, một khoản tín dụng ngắn hạn hay dài hạn không thể xem là có chất lượng cao
nếu nó không đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ các
khoản cho vay của Ngân hàng sinh lời và ngược lại chỉ tiêu này thấp chứng tỏ các
khoản vay không sinh lời, đồng nghĩa với chất lượng tín dụng chưa tốt. Đá
nh giá
chất lượng khoản tín dụng trên cơ sở căn cứ vào lợi nhuận thu được của các NHTM,
đây cũng là chỉ tiêu tương đối vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: chính sách
lãi
suất, chính sách KH,... Thông thường trong hoạt động ngân hàng, nếu chất lượng
tín
dụng NHTM tốt, tỷ lệ nợ xấu thấp thì lợi nhuận từ hoạt động tín dụng sẽ cao hơn
khi cùng một mức dư nợ so với c
ác ngân hàng khác.
1.2.3. Sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng:
1.2.3.1 Do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội:
Nền kinh tế Việt Nam đã thực sự trở thành một nền kinh tế thị trường và đang
trong quá trình hội nhập quốc tế, do đó vấn đề phát triển dịch vụ ngân hàng và
nâng
cao chất lượng tín dụng là một yếu tố khách quan, chiến lược phát triển trọng
tâm
của ngân hàng. Xét trên khía cạnh kinh tế xã hội, dịch
vụ ngân hàng trong đó tín
dụng góp phần đẩy nhanh quá trình luân chuyển tiền tệ, tận dụng tiềm năng to lớn
về vốn để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống dân cư.
1.2.3.2 Do yêu cầu hoạt động và nâng cao năng lực cạnh tranh ngân hàng:
Ngày nay, sự cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên quyết liệt
cùng với sự ra đời của các ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm mới
gia
nhập vào t
hị trường. Do đó, áp lực cạnh tranh đã tạo lực đẩy cho sự phát triển của
dịch vụ ngân hàng, đồng thời đòi hỏi nâng cao chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó,
do
yêu cầu đa dạng hóa hoạt động ngân hàng, tận dụng và khai thác mọi tiềm năng của
ngân hàng đã góp phần phát triển dịch vụ ngân hàng để mở rộng thị trường, nâng
cao năng lực cạnh tranh.
1.2.3.3 Do quá trình toàn cầu hóa ngành ngân hàng và cam kết của Việt
Nam k
hi gia nhập WTO:
Sự bành trướng địa lý và hợp nhất của các ngân hàng đã vượt ra khỏi ranh giới
lãnh thổ của một quốc gia và lan rộng ra với quy mô toàn cầu. Bên cạnh đó, cam
kết
gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng cho phép các tổ chức tín
dụng nước ngoài được hiện diện tại Việt Nam dưới các hình thức khác nhau, mở
rộng phạm vi là loại hình cung cấp dịch vụ ngân hà
ng. Theo cam kết khi gia nhập,
kể từ 01/01/2007, các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ được phép thành lập ngân
hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Việc tham gia của các ngân hàng 100%
vốn nước ngoài được hưởng đối xử quốc gia đầy đủ như các NHTM Việt Nam, có
nghĩa là các ngân hàng này được quyền phát triển các dịch vụ ngân hàng bán buôn,
bán lẻ, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tài chính, tham gia vào quá trình mua
bán,
sáp nhập. Có thể nói, sức ép cạnh tranh từ các ngân hàng 100% vốn nước ngoài lên
các NHTM Việt Nam là rất lớn, nhất là khi các ngân hàng này với sức mạnh tài
chính, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên thế giới đang
tích
cực chạy đua giành thị phần ở Việt Nam.
1.2.3.4 Do nhu cầu của khách hàng:
Dịch vụ ngân hàng đẩy mạnh tốc độ tuần hoàn và chu chuyển vốn cho khách
hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, khả năng thanh toán nhanh, chính xác, an
toàn và bảo mật nhờ vào ứng dụng khoa học công nghệ.
Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế, sự cải thiện của môi trường pháp luật, đời sống của người dân ngày
một
tốt hơn và nhu cầu được sử dụng dịch vụ ngân hàng hiện đại là một nhu cầu tất
yếu
của mọi người, mọi doanh nghiệp. Do đó, các NHTM Việt Nam đã và đang phát
triển dịch vụ ngân hàng để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng và
điều đó cũng phù hợp với xu hướng c
hung của các ngân hàng trong khu vực trên thế
giới. Tuy nhiên, các ngân hàng cũng không thể xem nhẹ việc nâng cao chất lượng
hoạt động tín dụng ngân hàng vì nó ảnh hưởng lớn đối với tình hình lưu thông
tiền
tệ của đất nước, nhờ đó vốn tiền tệ của xã hội được huy động và sử dụng tối đa
cho
nhu cầu phát triển kinh tế. Đây là những điều kiện qua
n trọng để ổn định lưu thông
tiền tệ và giá cả thị trường.
1.2.4 Các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng.
1.2.4.1. Môi trường kinh tế vĩ mô.
Hoạt động của NHTM chủ yếu là dựa vào việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi
của các thành phần kinh tế trong xã hội để tiến hành cho vay đáp ứng nhu cầu vốn
cho nền kinh tế. Mọi sự biến động của ki
nh tế vĩ mô trong điều hành chính sách tiền
tệ đều có các tác động đến quy mô và chất lượng của huy động cũng như cho vay.
Vì vậy, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, các công cụ như: dự trữ bắt buộc, lãi
suất,
tái chiết khấu phát huy tích cực chất lượng giúp cho NHTW có thể kiểm soát khối
lượng tín dụng tăng trưởng cho nền kinh tế, hướng nguồn vốn tí
n dụng chảy vào
những ngành nghề then chốt, trọng điểm để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Bên
cạnh đó, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định là điều kiện tiền đề để hoạt động tín
dụng
của NHTM đi vào quỹ đạo ổn định, nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế thấp
nhất rủi ro xảy ra.
1.2.4.2. Môi trường pháp lý.
Một hệ thống pháp lý ổn định để tạo điều kiện thuận lợi cho NHTM hoạt động
hiệu quả đi vào quỹ đạo ổn định, ngăn chặn kịp thời những rủi ro, những tiêu cực
xảy ra, góp phần nâng cao được chất lượng tín dụng đồng thời NHNN có thể kiểm
soát và ổn định tiền tệ quốc g
ia. Bởi vì, nếu hoạt động tín dụng kém hiệu quả, cho
vay không thu hồi được nợ và lãi đúng hạn hoặc sự gia tăng tín dụng thiếu lành
mạnh, mở rộng quá mức sẽ gây hậu quả nghiêm trọng, không chỉ ảnh hưởng đến sự
sống còn của NHTM mà còn phá vỡ tính ổn định của nền ki
nh tế vĩ mô.
1.2.4.3. Chiến lược phát triển của ngân hàng.
Chiến lược phát triển của ngân hàng là một trong các yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng của chính bản thân ngân hàng. Một chiến lược phát
triển đúng đắn và phù hợp sẽ bảo đảm ngân hàng phát triển. Ngược lại, một chiến
lược không phù hợp sẽ làm chậm quá trình phát triển của ngân hàng, thậm chí dẫn
đến khó khăn trong hoạt động hoặc thua lỗ, phá sản.
Một chiến lược phát triển phù hợp là một chiến lược phát huy tối đa đư
ợc các
điểm mạnh, khai thác được các cơ hội đồng thời phải hạn chế đến mức thấp nhất
các điểm yếu và vượt qua được các thách thức.
1.2.4.4. Chính sách tín dụng của NHTM.
Chính sách tín dụng đóng vai trò then chốt điều tiết các mặt hoạt động như:
huy động vốn và
cho vay, lãi suất, sản phẩm tín dụng, kỹ thuật quản lý rủi ro tín
dụng và thu hút KH… nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược đề ra trong kinh
doanh. Vì vậy, trong từng thời kỳ nhất định, các NHTM phải định hướng xây dựng
mục tiêu phấn đấu cụ thể để định hướng tích cực đến việc điều chỉnh mọi hoạt
động
NHTM. Một chính sách tín dụng hợp lý sẽ tạo điều kiện cho NH
TM sử dụng tối ưu
hoá nguồn vốn của mình khi cho vay, đảm bảo an toàn trong kinh doanh là điều
kiện quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM.
1.2.4.5. Lãi suất và quản lý rủi ro lãi suất.
Lãi suất là yếu tố quan trọng hàng đầu tác động đến chất lượng tín dụng, là hạt
nhân quan trọng của chính sách tín dụng của NHTM, lãi suất đầu vào và đầu ra
quyết định đến chi phí và thu nhập của NHTM. Mọi sự thay đổi về lãi suất, cũng
như sự điều chỉnh chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn đều đặt
NHTM vào tình trạng khó khăn trước sức ép cần phải thay đổi toàn bộ cấu trúc về
tài sản cũng như nguồn vốn của NHTM nhạy cảm với lãi suất nhằm đạt được sự tối
ưu hoá lợi nhuận và hạn chế những tác động tiêu cực của lãi suất đến đời sống
kinh
doa
nh của NHTM có thể làm tăng chi phí nguồn vốn và giảm lợi nhuận của NHTM.
Hầu hết các NHTM trên thế giới chú trọng đến việc nâng cao kỹ thuật quản lý
rủi ro lãi suất nhằm hạn chế đến mức tối đa mọi ảnh hưởng xấu của biến động lãi
suất đến chất lượng tí
n dụng. Bản thân lãi suất là giá cả của vốn tín dụng, là một
phạm trù kinh tế tổng hợp mang tính “nhạy cảm rất cao” được hình thành một cách
khách quan do cung cầu vốn trên thị trường, vì lẽ đó kỹ thuật quản lý rủi ro lãi
suất
cần phải được tập trung khai thá
c trên nhiều khía cạnh khác nhau có liên quan đến
lãi suất nhằm xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý.
1.2.4.6. Năng lực kinh doanh của KH.
KH là người trực tiếp sử dụng vốn của NHTM vào quá trình kinh doanh. Cùng
với vốn tự có, vốn tín dụng của NHTM được sử dụng cho những mục tiêu kinh
doanh do các nhà quản lý doanh nghiệp quyết định, tạo khối lượng tài sản mà KH
đang trực tiếp nắm giữ và khai t
hác trong kinh doanh. Nếu năng lực kinh doanh yếu
kém, công nghệ lạc hậu, hoặc thậm chí KH cố tình lừa đảo và sử dụng vốn sai mục
đích… dẫn đến kinh doanh khó khăn, tình hình tài chính mất cân đối, nguy cơ phá
sản nên không trả được nợ, gây hậu quả nghiêm trọng đến NHTM.
1.2.4.7. Cán bộ tín dụng.
Đây là một nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín
dụng, sự thành công tr
ong hoạt động tín dụng của NHTM phụ thuộc vào năng lực,
trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của CBTD.
CBTD là cầu nối giữa ngân hàng và bên vay, là người trực tiếp tiến hành công
tác khai thác KH, hướng dẫn KH, thẩm định KH và phương án, dự án vay vốn, theo
dõi kiểm soát sau khi cho vay và thu nợ. Nếu CBTD không đủ năng lực, phẩm chất
thì không đánh giá chính xác hoặc cố tình cho vay những KH yếu kém; những
phương án, dự án kém hiệu quả dẫn đến nợ xấu, thậm chí mất vốn. Từ đó, làm cho
chất lượng tín dụng giảm sút. Ngược lại, CBTD có năng lực, phẩm chất tốt sẽ làm
thoả mãn nhu cầu KH, kể cả việc tư vấn, đồng thời sẽ đánh giá đúng, lựa chọn
được
KH, phương án, dự án tốt để cho vay, bảo lãnh. Từ đó góp phần mở rộng đi đôi với
việc nâng c
ao chất lượng tín dụng.
1.3 Những bài học kinh nghiệm đối với việc nâng cao chất lượng tín dụng
Ngân hàng thương mại của một số nước trên thế giới:
1.3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Trung Quốc là một nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về điều kiện
tự nhiên,
kinh tế, văn hóa, xã hội,…Sau gần 30 năm thực hiện cải cách và mở cửa,
Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, đưa đất nước trở thành nền kinh
tế
lớn thứ ba trên thế giới. Để đạt được những kết quả như trên, Trung Quốc đã sử
dụng nhiều giải pháp t
ích cực, có hiệu quả, trong đó hoạt động tín dụng của NHTM
có vai trò quan trọng trong việc huy động như:
- Sử dụng lãi suất huy động một cách linh hoạt và mềm dẻo
- Phát triển đa dạng các tổ chức – tiền tệ, cải cách và nâng cao năng lực cạnh
tranh của các NHTM: Trung Quốc đã không ngừng mở rộng và hoàn thiện mạng
lưới hệ thống NHTM, khu vực tài chính ngân hàng của Trung Quốc chủ yếu do 4
ngân hàng: NH Trung Quốc, N
H xây dựng Trung Quốc, NH công thương Trung
Quốc và NH nông nghiệp Trung Quốc điều hành với các chi nhánh trải rộng khắp
trên lãnh thổ Trung Quốc. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM quốc
doanh, Trung Quốc tiến hành cải cách hệ thống NHTM quốc doanh thông qua việc
bơm thêm tiền cho 4 ngân hàng trên, đồng thời thành lập các công ty tài chính
quản
lý và thanh toán tài sản (AMC) để mua lại các khoản nợ xấu. Khuyến khích ngân
hàng nước ngoài góp vốn vào ngân hàng trong nước để tận dụng việc chuyển gia
o
kiến thức và công nghệ, cho phép ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh, văn phòng
đại diện ngân hàng nước ngoài, ngân hàng con 100% vốn nước ngoài và ngân hàng
liên doanh, từ đó đã nâng cao được chất lượng phục vụ và đáp ứng các nguồn vốn
cho CNH-HĐH đất nước.
- Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn: hoàn thiện các hình thức huy động
truyền thống, Trung Quốc còn áp dụng những hình thức huy động mới, hiện đại
nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của các NHTM. Bên cạnh đó, các NHTM
ở Trung Quốc cũng đã mở rộng huy động nguồn vốn trung dài hạn, tăng cường vay
nợ, va
y thế chấp và phát hành kỳ phiếu ngân hàng ra nước ngoài.
1.3.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc:
Chính phủ Hàn Quốc đã can thiệp vào hoạt động ngân hàng thông qua các
chính sách và biện pháp cụ thể như:
- Phát triển và đa dạng hóa hệ thống tài chính – ngân hàng nhằm thúc đẩy quá
trình tạo vốn cho CNH. Ngoài các ngân hàng, thành lập các tổ chức tài chính phi
ngân hàng như công ty bảo hiểm, tổ chức ủy thác, các công ty tài chính ngắn hạn
và
thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho các nguồn vốn nước
ngoài chảy vào trong nước, các ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh.
Từ những năm
1960, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập các ngân hàng chuyên ngành trong các lĩnh
vực mà các NHTM tư nhân chưa đảm nhiệm được tham gia vào hoạt động tín dụng
như: NH công nghiệp (MIB) và NH quốc gia Citizens, NH nhân dân, NH ngoại hối
Hàn Quốc (KEB) và NH nhà ở Hàn Quốc. Chính phủ định hướng phân bổ tín dụng
thông qua việc định hướng cho các NHTM đầu tư tín dụng và
o các công ty, tập
đoàn, ngành công nghiệp và hoạt động ưu tiên cho xuất khẩu. NH Hàn Quốc với tư
cách là ngân hàng trung tâm, chịu trách nhiệm chi phối hoạt động phân bổ và hỗ
trợ
vốn cho công nghiệp và xuất khẩu. Chính phủ và Ngân hàng Hàn Quốc cho các
ngân hàng chuyên doanh như: Ngân hàng công nghiệp, Ngân hàng nhân dân, Ngân
hàng xây dựng nhà ở,… vay và đây là nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của các
ngân hàng này.
Bước sang giai đoạn 1982-1995, Chính phủ Hàn Quốc đã xác định mục tiêu
của CNH-
HĐH là tiến tới các ngành công nghiệp cao cấp để đa dạng hóa hơn nữa
mặt hàng và thị trường xuất khẩu. Trong giai đoạn này, Chính phủ Hàn Quốc để cho
nhu cầu thị trường quyết định sự hình thành cơ cấu công nghiệp mới, xóa bỏ các
khoản cho vay theo chính sách trợ cấp để tránh đầu tư quá mức ở một số ngành kém
và không hiệu quả tạo ra sự mất cân đối trong đầu tư.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, để nâng cao năng lực tập
trung tài chính và đảm bảo hiệu quả tín dụng, Hàn Quốc đã tiến hành cải cách hệ
thống NHTM và các tổ chức tài chính. Trong giai đoạn từ t
háng 6/1999, Hàn Quốc
đã đóng cửa 17 ngân hàng thương nhân, 5 NHTM và hơn 100 tổ chức tài chính phi
ngân hàng khác; Chính phủ can thiệp 4 NHTM, sáp nhập 2 NHTM, 2 ngân hàng
thương nhân để tạo ra 4 NHTM mới. Bên cạnh đó, Hàn Quốc còn cho tiến hành tư
nhân hóa những ngân hàng gặp khó khăn trong thanh toán, các cá nhân và tổ chức
trong và ngoài nước được phép mua lại các tổ chức này. Việc cho phép các nhà đầu
tư nước ngoài tham gia vào tư nhân hóa một số NHTM đã tạo ra một sân chơi thông
thoá
ng và thúc đẩy cạnh tranh mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
1.3.3 Kinh nghiệm của Singapore:
Singapore là quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong quá trình CNH-HĐH.
Có thể nói đây là quốc gia thành công nhất trong quá trình CNH-HĐH và hiện nay
Singapore là một nước thuộc nền công nghiệp mới (NIEs) của Châu Á. Để đạt được
những thành công đó, Chính phủ Singapore đã rất coi trọng phát triển hệ thống
tài
chính, ngân hàng nhằm huy động và cung cấp vốn cho chuyển dịch cơ cấu và phát
triển kinh tế.
Hệ thống ngâ
n hàng Singapore bao gồm Ủy ban tiền tệ Singapore, NHTM,
NHTM-dịch vụ, ngân hàng tiết kiệm, công ty tài chính, các loại quỹ. Trong đó, Ủy
ban tiền tệ Singapore do Bộ tài chính thành lập năm 1971 để giám sát các tổ chức
tài chính và thực thi các chính sách tiền tệ. Các định chế tài chính còn lại có
vai trò
quan trọng trong việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn cho CNH-HĐH:
- Cơ quan tiền tệ Singapore (MAS) có vai trò ổn định đồng tiền, thúc đẩy,
quản lý và đưa ra những điều kiện về kinh doanh tiền tệ. Ngoài ra, cơ quan này
còn
có chức năng giám sát hoạt động của các định chế tài chính khác, nhằm đảm bảo
việc tuân thủ các điều kiện về hoạt động đã quy định;
- Ngân hàng tiết kiệm: có chức năng huy động các nguồn vốn để phát triển
kinh tế đất nước, đề xuất các giải pháp khuyến khích người dân gia tăng tiết
kiệm;
- Quỹ phát triển Trung ương: có nhiệm vụ quản lý và trả lương cho người lao
động khi về hưu; sử dụng các nguồn tiền gửi để đầu tư vào trái phiếu Chính phủ,
đầu tư vào bất động sản…;
- NHTM và ngân hàng dịch vụ thương mại: hệ thống NH
TM có chức năng
cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính, tín dụng đáp ứng cho nền kinh tế.
- Ngân hàng phát triển Singapore: có chức năng phát triển hạ tầng kỹ thuật cho
khu vực tài chính, hỗ trợ vốn để phát triển những ngành công nghiệp mới và hiện
đại hóa những ngành hiện có; hỗ trợ cho các dự án phát triển bất động sản, các
khu
đô thị mới, dự án phát triển ngành du lịch…
1.3.
4 Kinh nghiệm của Vương Quốc Thái Lan:
Ngay từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX, Thái Lan đã quan tâm đến phát triển thị
trường tín dụng, nhằm đảm bảo cung ứng vốn đầy đủ, kịp thời cho chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Để huy động vốn tín dụng phục vụ cho chiến lược CNH-HĐH đất
nước, Thái Lan đã xây dựng hệ thống ngân hàng rộng khắp, đặc biệt là khu vực
nông thôn, với hệ thống đồng bộ và chất lượng. Hệ thống ngâ
n hàng Thái Lan phát
triển mạnh theo xu hướng xây dựng mô hình tập đoàn ngân hàng, nhiều ngân hàng
trong nước đã được mở chi nhánh ở nước ngoài hoặc liên doanh với ngân hàng ở
nước ngoài.
Hệ thống ngân hàng Thái Lan bao gồm: Ngân hàng trung ương Thái Lan
(BOT), NHTM, ngân hàng chuyên doanh nhà nước, các công ty tài chính, các loại
quỹ. Trong đó các NHTM như: Ngân hàng nông nghiệp và Hợp tác xã nông nghiệp
(BAAC), Ngân hàng Băng Cốc, Ngân hàng Nông dân Thái Lan, Ngân hàng Nhà
nước Thái Lan, Ngân hàng Ayudhya… có vai trò rất qua
n trọng trong việc huy
động, cho vay vốn phát triển nông nghiệp nông thôn.
Giống như các nước Châu Á khác, Thái Lan là một nước nông nghiệp, dân số
và lao động tập trung ở khu vực nông thôn. Cho nên trong giai đoạn đầu của CNH-
HĐH, Chính phủ Thái Lan đã chú trọng và đảm bảo cung ứng vốn cho chuyển dịch