Luận văn thạc sĩ kinh tế: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng xuất khẩu tại Việt Nam
9,048
749
109
80
CHƢƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG XUẤT KHẨU
TẠI VIỆT NAM
3.1 TÌM HIỂU KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ HIỆP HỘI NGÀNH
HÀNG TRÊN THẾ GIỚI
3.1.1 Một số hiệp hội ngành hàng trên thế giới
3.1.1.1 Một vài nét về các Hiệp hội ngành hàng ở Anh
Hiện tại ở Anh có đến hơn 1300 Hiệp hội ngành hàng lớn, vừa và nhỏ. Số
lƣợng nhân viên trung bình ở các Hiệp hội ngành hàng có quy mô lớn là 33, vừa là
8 và nhỏ là 4. Nguồn thu nhập của các Hiệp hội gồm:
+ Thu từ phí đăng kí và lệ phí đóng góp hàng năm chiếm 44% tổng thu nhập
+ Thu từ các dịch vụ thƣơng mại chiếm 47% tổng thu nhập
+ Thu từ các nguồn khác chiếm 9% tổng thu nhập
với mức tổng thu nhập bình quân hàng năm là 982,500 Bảng Anh.
Các Hiệp hội có quy mô nhỏ và vừa có thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ
thƣơng mại chiếm phần lớn hơn trong tổng thu nhập góp phần làm giảm mức lệ phí
đóng góp của hội viên
Mức độ liên hệ của Hiệp hội với các hội viên cũng đƣợc diễn ra thƣờng
xuyên. 46% Hiệp hội có chƣơng trình hệ thống nhằm liên lạc với các Giám đốc điều
hành của các hội viên trong đó chiếm tới 65% là các Hiệp hội quy mô lớn và đã có
58% các Hội đã đƣa ra các biện pháp nhằm giải quyết các khiếu nại của các hội
viên, 83% Hiệp hội có Chủ tịch và Giám đốc điều hành gặp gỡ thƣờng xuyên với
các hội viên nhằm hoạch định kế hoạch kinh doanh của Hiệp hội. Gần 82% Hiệp
hội tiến hành tham khảo ý kiến các thành viên Hiệp hội, mức độ thƣờng xuyên của
81
các khảo sát này là 32% hàng năm, 28% hai năm một lần, 24% ba năm một lần và
16% năm năm một lần
Hình thức tổ chức của Hiệp hội cũng gồm: Đại hội toàn thể, Hội đồng quản
trị, Uỷ ban điều hành, Các ban chuyên môn.
Hội đồng quản trị có số lƣợng từ 4 đến 129 ngƣời, trung bình là 18 ngƣời
họp từ 4-6 lần một năm. Chủ tịch Hội đồng quản trị có nhiệm kỳ 2 năm trong đó
41% trƣớc đó có liên hệ với ngành hàng của Hiệp hội, 15% đã làm việc trong Hiệp
hội trƣớc đó, 26% đến từ các doanh nghiệp trong Hiệp hội, 25% từ các Hiệp hội
khác hay các cơ quan Nhà nƣớc, còn lại là thuê. Uỷ ban điều hành có số lƣợng từ
3
đến 31 ngƣời họp từ 1 đến 20 lần/năm.
Ngoài ra nhằm thông tin cho các thành viên một cách kịp thời, việc sử dụng
thông tin trong các Hiệp hội phát triển mạnh. Hầu hết các Hiệp hội có Website
riêng, 91% Hiệp hội có mạng PC hoạt động, tất cả các nhân viên của các Hiệp hội
kết nối trực tiếp với mạng Internet và hơn 92% Hiệp hội cung cấp các dữ liệu của
Hiệp hội qua mạng này.
Hầu hết tất cả các Hiệp hội có quy mô lớn, 91% Hiệp hội có quy mô vừa và
68% Hiệp hội có quy mô nhỏ dành phần lớn hoạt động của mình nhằm tiến hành
các kiến nghị cũng nhƣ tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có
liên
quan tới ngành với Chính phủ và các cơ quan quản lý khác.
Do hơn 75% Hiệp hội có hội viên tham gia xuất khẩu, do đó có 35% Hiệp
hội có chiến lƣợc xuất khẩu riêng nhằm hỗ trợ các hội viên, 26% Hiệp hội có
trung
tâm thông tin xuất khẩu, 42% Hiệp hội hỗ trợ tổ chức triển lãm tại nƣớc ngoài,
25%
Hiệp hội có dự án nghiên cứu thị trƣờng xuất khẩu, 35% Hiệp hội trong đó chiếm
tới 67% các Hiệp hội quy mô lớn ứng dụng thƣơng mại điện tử cho các hội viên của
mình, hơn 79% Hiệp hội có mối quan hệ với các Hiệp hội ngành hàng ngoài Châu
Âu và 39% Hiệp hội là thành viên của các Hiệp hội ngành hàng quốc tế.
Các dịch vụ chính đƣợc cung cấp từ các Hiệp hội gồm:
82
Dịch vụ
%
Thông tin pháp luật
97%
Hoạt động của các nhóm chuyên gia
81%
Ấn b¶n phÈm
78%
Thèng kª ngµnh
70%
Søc kháe vµ an toµn lao ®éng
68%
Th«ng tin thÞ tr-êng
59%
T- vÊn ph¸p luËt
54%
C¸c héi th¶o
45%
T- vÊn liªn quan ®Õn ngµnh
40%
Nghiªn cøu vµ triÓn khai
38%
Gi¶i quyÕt tranh chÊp, träng tµi
35%
§µo t¹o
34%
Th-¬ng l-îng víi c¸c nhµ cung cÊp th-¬ng m¹i
32%
TriÓn l·m
25%
Dù b¸o kinh tÕ
20%
Các dich vụ thƣơng mại đƣợc cung cấp từ các Hiệp hội nhằm tăng thu nhập
gồm: Hội thảo (74%), Ấn bản phẩm (72%), Hội nghị (59%), Đào tạo (56%), thống
kê (46%), Triển lãm (45%), Tƣ vấn (25%). [23]
3.1.1.2 Hiệp hội thuỷ sản Nhật Bản
Đƣợc thành lập từ năm 1882, Hiệp hội thuỷ sản Nhật Bản là tổ chức đầu
ngành cho toàn bộ ngành thuỷ sản Nhật Bản. Hiệp hội bao gồm hơn 400 thành viên
là các Hiệp hội, công ty tƣ nhân và các cá nhân với mục đích là thúc đẩy ngành
thuỷ
sản góp phần phát triển nền kinh tế giàu bản sắc văn hoá nhƣ Nhật Bản.
+ Lịch sử hình thành và hoạt động
* Các hoạt động cầu nối với Chính phủ và với các tổ chức quốc tế:
Kể từ khi thành lập Hiệp hội thuỷ sản Nhật Bản đã trở thành trung tâm cho
mọi hoạt động liên quan đến ngành thuỷ sản. Với vai trò đại diện của mình, Hiệp
hội đã có nhiều hoạt động trong việc đƣa ra các kiến nghị về chính sách của
Chính
83
phủ có liên quan đến ngành nhƣ Tổng thƣ ký Hiệp hội đệ trình Quốc hội dự luật
thuỷ sản. Dự luật đã đặt nền móng hình thành các luật lệ liên quan tới ngành
thuỷ
sản sau này. Tiến hành các hoạt động vận động hành lang tới Chính phủ và hạ viện
thông qua Uỷ ban tình trạng khẩn cấp đƣợc thành lập tạm thời về việc kiến nghị
Chính phủ triển khai phƣơng pháp khai thác dầu an toàn cho thuỷ sản vào tháng
1/1973, Hiệp hội còn phối hợp với các công ty trong ngành nhằm tham khảo ý kiến
và nêu ra các yêu cầu với Chính phủ xung quanh luật về biển của Liên Hợp quốc,
bên cạnh đó Hiệp hội cố gắng thu thập ý kiến tham gia trong ngành về mối quan
tâm tới việc sửa đổi Luật về ngƣ dân và Luật về công nhân làm việc trên tàu nhƣ
là
những bƣớc chuẩn bị cho việc thành lập hệ thống tƣ pháp về Hiệp định quốc tế về
tiêu chuẩn đào tạo. Không những thế Hiệp hội còn tƣ vấn và tham gia trong đoàn
đại biểu Chính phủ đàm phán Hiệp định thuỷ sản với Sôviết tháng 5/1956 và ký kết
Hiệp định này, ký Hiệp định thuỷ sản với Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên
vào tháng 12/1965, tham gia phái đoàn ký Hiệp định thuỷ sản với Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa tháng12/1975 và Hiệp hội trở thành đầu mối giao dịch giữa hai nƣớc
về lĩnh vực thuỷ sản, cùng với các nhà lãnh đạo khác trong ngành thủy sản của Mỹ
và Canada ký thoả thuận chung cho việc thành lập Liên minh quốc tế các Hiệp hội
thuỷ sản vào tháng 10/1988. Hiệp hội còn cùng 6 tổ chức khác đƣa ra sự phản
kháng tới Thủ tƣớng Úc về việc sử dụng chính trị trong vấn đề cá ngừ phía Nam
vào tháng 9/1989 và còn rất nhiều hoạt động khác qua đó Hiệp hội đã góp phần
kiến
nghị kịp thời tới Chính phủ những vƣớng mắc để tháo gỡ nhằm bảo vệ lợi ích cho
các hội viên vì sự phát triển chung của ngành thuỷ sản
* Các hoạt động đối với doanh nghiệp thành viên
Nhằm cung cấp thông tin cho các hội viên Hiệp hội thƣờng xuyên cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ hội viên nhƣ xuất bản Bản tin đầu tiên của Hiệp hội ngay sau
khi
thành lập vào tháng 4/1882, phát hành tạp chí “Suisankai” (thế giới thuỷ sản)
vào
tháng 11/1916, phát hành đặc san thuỷ sản thông qua hệ thống fax tháng 4/1991 và
bản tin tiếng anh vào tháng 10/1992 bằng thƣ, thiết lập trang web nhằm cung cấp
thông tin cho các ngƣ dân và các công ty thành viên vào tháng 3/1997. Hiệp hội
còn
tổ chức nhiều chƣơng trình xúc tiến thƣơng mại tiêu biểu nhƣ tổ chức hội nghị
phát
84
triển thuỷ sản đầu tiên vào tháng 9/1883 và sau đó tiếp tục đƣợc tổ chức hàng
năm
tại Tokyo và các vùng khác, triển lãm thuỷ sản đầu tiên đƣợc tổ chức tại Tokyo,
tổ
chức “Hội chợ cá” đầu tiên tại khu Công nghiệp và Thƣơng mại Tokyo cùng với 14
tổ chức khác vào tháng 10/1986, tổ chức hội thảo “Thuỷ sản và thuế tiêu thụ” tại
Tokyo, hội thảo về vấn đề rác thải từ tàu đánh cá đƣợc Hiệp hội phối hợp với
liên
minh quốc gia các hợp tác xã thuỷ sản. Nhằm tăng cƣờng quản lý chất lƣợng và
nâng cao năng lực xuất khẩu cho các hội viên, Hiệp hội còn thành lập cơ quan
quản
lý chất lƣợng theo tiêu chuẩn HACCP vào tháng 9/1996 và Hiệp hội trở thành tổ
chức chứng nhận tiêu chuẩn HACCP, thành lập Học viện đào tạo thuỷ sản đƣợc
thành lập vào tháng 1/1889.
+ Cơ cấu tổ chức:
Đại hội
toàn thể
Cố vấn
Chủ
tịch
Uỷ ban
Kiểm
soát
Phó Chủ
tịch
Hôị đồng quản
trị thƣờng trực
Bộ phận
hành chính
thuỷ sản
Bộ phận
hoạt động
Bộ phận
quản lý
chất
lƣợng
Uỷ ban sản xuất
Uỷ ban chế biến và phân phối
Ủy ban các ngành công nghiệp
liên quan
Uỷ ban nhãn hiệu và an toàn
hảI sản
Uỷ ban về các vấn đề khác
Tổng số thành viên: 416 trong đó
Số thành viên chính thức: 258
Số thành viên hợp tác: 158
( tính đến 31/03/2005)
85
+ Hoạt động của các bộ phận chính:
*Bộ phận hành chính thuỷ sản
Nhiệm vụ chính là nỗ lực phản ánh ý kiến của ngành thuỷ sản Nhật Bản
trong việc ra chính sách của Chính phủ.
Hiệp hội thành lập các Uỷ ban và Hội đồng thảo luận xem xét các vấn đề
chính sách của Chính phủ nếu có những ảnh hƣởng tới ngành cũng nhƣ hệ thống
pháp luật và các xu hƣớng cả trong và ngoài nƣớc. Hiệp hội cũng tập hợp các ý
kiến
trong ngành và vận động hành lang nghị viện Chính phủ và các cơ quan khác.
Tổ chức triển lãm công nghệ và hải sản quốc tế với sự tham dự của các đại
diện trong ngành thuỷ sản và các ngành khác có liên quan cả trong và ngoài nƣớc
*Bộ phận hoạt động
Hoạt động nhƣ một bộ phận giải quyết các vấn đề về môi trƣờng và thuỷ
sản với mục đích duy trì việc tận dụng các tài nguyên thuỷ sản. Hiệp hội gia
nhập tổ
chức Liên minh quốc tế các Hiệp hội thuỷ sản nhằm phối hợp với các hoạt động
quốc tế và hỗ trợ các hoạt động thích hợp của các tổ chức quốc tế và các tổ chức
quản lý thuỷ sản khu vực với chức năng là các tổ chức phi Chính phủ.
Hiệp hội cũng tiến hành các dự án nhằm tái cơ cấu thuỷ sản dƣới sự hỗ trợ
của Chính phủ nhằm bù đắp phần nào cho những ngƣời thuộc diện nằm trong
chƣơng trình cắt giảm tàu đánh cá đã đƣợc Chính phủ chú trọng hoặc các chủ tàu
tiến hành bởi sáng kiến của chính họ do những thay đổi về môi trƣờng xung quanh
hoạt động đánh bắt cá.
Hiệp hội cũng đang tiến hành các hoạt động báo chí ở cả Nhật Bản và
nƣớc ngoài thông qua các ấn phẩm: “Suisankai”, “Đặc san thuỷ sản”, “ISARIBI”.
* Bộ phận quản lý chất lượng
Hiệp hội hoạt động nhằm thúc đẩy việc kiểm soát chất lƣợng và vệ sinh hải
sản tại các khu vực của các ngành công nghiệp có liên quan trong suốt quá trình
từ
sản xuất tới tiêu thụ.
Để đảm bảo đủ tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh hải sản, Hiệp hội đang tiến
hành một loạt các hoạt động tăng cƣờng áp dụng tiêu chuẩn HACCP chẳng hạn nhƣ
86
các khoá đào tạo và giáo dục, tƣ vấn, dịch vụ chứng nhận cũng nhƣ hợp tác và
nghiên cứu quốc tế. Hiệp hội tiến hành các cuộc hội thảo và các chƣơng trình
nghị
sự thảo luận về HACCP trong đó có mời các nhà thuyết trình từ các tổ chức Chính
phủ và các chuyên gia trong ngành từ nƣớc ngoài. Hiệp hội cũng cử các đại biểu
tới
Uỷ ban luật về sản phẩm nghề cá và đánh bắt cá và vệ sinh thực phẩm và các hội
nghị quốc tế xuyên lục địa khác nhằm bày tỏ ý kiến với tƣ cách là một tổ chức
ngành hải sản hàng đầu của Nhật Bản.
Hiệp hội cũng tổ chức các khoá đào tạo nhằm giáo dục tất cả những ngƣời
có liên quan trong lĩnh vực chế biến hải sản các lý luận cơ bản và việc áp dụng
các
giải pháp kiểm soát vệ sinh thực phẩm theo hệ thống HACCP. Các chỉ dẫn và các
băng Video nhằm giới thiệu các công nghệ kiểm soát chất lƣợng và vệ sinh mới
nhất cũng đƣợc phân phát.
Hiệp hội cũng phát hành các chứng chỉ chế biến theo tiêu chuẩn HACCP
cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm sang Mỹ và tuân thủ mọi quy định về hải
sản của Mỹ. Đặc biệt Hiệp hội cũng tạo ra dịch vụ chứng nhận nhằm hỗ trợ tài
chính cho các nhà máy muốn giới thiệu HACCP
Uỷ ban đặc biệt cho các nhà xuất khẩu hải sản cũng tiến hành các biện
pháp xúc tiến xuất khẩu hải sản và giải quyết các vấn đề thƣơng mại quốc tế khác
liên quan đến hải sản. Uỷ ban đặc biệt về phân phối hải sản cũng tham gia vào
việc
giảm chi phí phân phối, thu thập và phân tích về tất cả các thông tin liên quan.
3.1.1.3 Hiệp hội dệt may Ấn Độ
Ấn Độ có một truyền thống dệt may lâu dài. Thƣơng mại trong ngành dệt Ấn
Độ diễn ra từ rất lâu. Ra đời năm 1939, Hiệp hội dệt may Ấn Độ là một tổ chức
phi
lợi nhuận, một diễn đàn dành cho sự trao đổi tự do về kỹ thuật dệt may, trao đổi
thông tin trên nền tảng của sự hợp tác và toàn diện. Đứng đầu bởi tổ chức có tên
gọi
là Uỷ ban điều hành đƣợc bầu ra từ các đơn vị trực thuộc có liên quan dựa trên
tỷ lệ
về sức mạnh kinh tế. Những nhà quản lý hoạt động tại Văn phòng hiệp hội đƣợc
bầu ra bởi Uỷ ban điều hành. Các đơn vị thành viên dƣới sự điều hành của các nhà
quản lý tự động hoạt động trong lĩnh vực của họ và phối hợp chung thông qua một
87
cơ cấu liên đoàn dƣới sự lãnh đạo của Văn phòng trung ƣơng ở cấp quốc gia. Các
thành viên của Uỷ ban điều hành và các đơn vị bộ phận đƣợc bầu 2 năm một lần.
Hiện tại Hiệp hội quy tụ đƣợc số lƣợng thành viên đông đảo hơn 18.000 hội viên
cả
trong và ngoài nƣớc ở 27 cơ sở trên khắp đất nƣớc Ấn Độ. Hội viên của Hiệp hội
gồm
7 nhóm :
+ Thành viên danh dự
+ Thành viên bảo trợ
+ Thành viên cố vấn
+ Thành viên bình thƣờng
+ Thành viên nƣớc ngoài
+ Thành viên tổ chức, doanh nghiệp
+ Thành viên sinh viên.
Hội còn kết hợp với tất cả các đơn vị có liên quan tới ngành dệt may, thƣơng
mại, giáo dục và nghiên cứu cho dù với tƣ cách cá nhân hay tổ chức. Sự phát
triển
mang tính hiện tƣợng mà Hiệp hội đạt đƣợc hơn 60 năm qua là kết quả không chỉ
bởi công lao của các nhà sáng lập mà còn ở tinh thần dân chủ thực sự của một số
lƣợng lớn các chuyên gia dệt may tận tình, ngƣời đã làm việc không nghỉ cho sự
phát triển của Hiệp hội dệt may Ấn Độ.
Mục tiêu của Hiệp hội: Cung cấp những hiểu biết khoa học trong ngành dệt,
từ khi còn là sợi đến khi đƣợc làm thành quần áo. Thực hiện các chƣơng trình
giáo
dục liên tục về công nghệ và quản lý trong ngành dệt. Giúp các thành viên có
đƣợc
các kỹ thuật dệt nhằm cải tiến phƣơng thức sản xuất. Ghi nhớ công lao những
ngƣời
đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành dệt Ấn Độ. Phân tích
môi trƣờng kinh tế xã hội cho các chiến lƣợc phát triển. Hỗ trợ các doanh nghiệp
thành viên trong xúc tiến xuất khẩu
Vai trò của các đơn vị ở các trung tâm dệt khác nhau của Ấn Độ bao gồm tổ
chức các hội thảo, hội nghị, khoá học, chƣơng trình trò chơi kỹ thuật, các cuộc
trao
đổi kinh nghiệm đƣợc tiến hành ở cả các phân xƣởng dệt. Các bộ phận lần lƣợt tổ
chức các hội nghị dệt may toàn Ấn Độ uy tín. Hầu hết các bộ phận tổ chức các
cuộc
88
hội thảo xã hội và mời các gia đình hội viên cùng tham gia. Các bộ phận mạnh
giúp
đỡ các bộ phận yếu ở những khu vực gần nhau nhằm hoạt động có hiệu quả hơn.
Hiệp hội còn rất chú trọng tới công tác giáo dục và đào tạo, từ con số 2
trƣờng dệt may năm 1950, đến năm 1990 con số này đã là 60 trƣờng và đang tiếp
tục tăng trong những năm qua. Cùng với công tác đào tạo, công tác thẩm định chất
lƣợng và cấp chứng chỉ cũng đƣợc nâng cao khiến uy tín của các hoạt động Hiệp
hội ngày càng đƣợc khẳng định.
Công tác cung cấp thông tin cũng rất đƣợc chú trọng, ngoài bản tin Hiệp hội
đƣợc phát hành 2 lần 1 tháng, Hiệp hội còn phát hành nhiều ấn phẩm khác nhƣ :
Công nghệ sản xuất hàng dệt may trƣớc thế kỷ 21, Năng lực tiềm ẩn của sản xuất
hàng dệt may, Hội nhập công nghiệp dệt may Ấn Độ vào nền kinh tế thế giới, Quản
lý tốt trong sản xuất dệt may…Hiệp hội còn trao giải thƣởng thông qua các cuộc
thi
cho các ấn phẩm có giá trị, chính điều này đã thu hút mọi thành viên của Hiệp
hội
hết lòng tham gia hoạt động của Hiệp hội bất kể đó là tổ chức, cá nhân, chuyên
gia
hay sinh viên và mang lại nguồn thu cho Hiệp hội
3.1.2 Một số nhận xét chung từ hoạt động của các Hiêp hội ngành hàng trên thế
giới
Các Hiệp hội ngành hàng đã phát triển từ rất lâu trên thế giới đặc biệt tại các
nƣớc phát triển nhƣ Anh và Nhật Bản, Ấn Độ, Mỹ …. Qua các hoạt động của mình,
các Hiệp hội đã làm tốt đƣợc các chức năng của mình và trở thành đầu mối cho các
quan hệ của ngành. Thông qua việc thiết lập hệ thống tự điều hành giữa các doanh
nghiệp, Hiệp hội áp dụng những quy định và những hạn chế nhằm tăng cƣờng năng
lực của ngành hàng. Thực hiện các liên kết đa phƣơng theo ngành dọc giữa các
doanh nghiệp nhằm tìm hiểu và điều phối các vấn đề có liên quan đến cung cấp
nguyên liệu, công nghệ và buôn bán giữa các thành viên nhằm xúc tiến hợp tác
phát
triển công nghệ. Hiệp hội còn đại diện cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các
hoạt động nhằm nâng cao chất lƣợng sản phẩm nhƣ áp dụng tiêu chuẩn HACCP của
Hiệp hội thuỷ sản Nhật Bản, thực thi chiến lƣợc phát triển một số thƣơng hiệu
nổi
tiếng. Tổ chức và thực hiện các hoạt động về dịch vụ cộng đồng nhằm trợ giúp và
nâng cao khả năng của các doanh nghiệp. Hiệp hội ngành hàng còn là ngƣời đại
89
diện cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết các Hiệp định
về buôn bán và kinh doanh với các Hiệp hội nƣớc ngoài cũng nhƣ với các Hiệp hội
ngành hàng quốc tế. Hiệp hội ngành hàng còn tổ chức các triển lãm, hội chợ hàng
hoá ở trong và ngoài nƣớc để giúp các doanh nghiệp tham gia nhằm đẩy mạnh trao
đổi, buôn bán giữa doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc. Khai thác thị trƣờng nƣớc
ngoài, nghiên cứu thị trƣờng quốc tế và tổ chức các đoàn khảo sát thị trƣờng thế
giới hoặc tổ chức cho các hội viên tham gia triển lãm quốc tế. Mở rộng các liên
kết
với các tổ chức có liên quan ở nƣớc ngoài, phát triển các trao đổi hợp tác về
kinh tế,
công nghệ và quản lý doanh nghiệp.
Các dịch vụ cung cấp từ các Hiệp hội cũng rất phong phú. Dịch vụ thông tin
và tƣ vấn đƣợc đặt lên hàng đầu. Thông qua đối thoại và các phƣơng tiện thông
tin
đại chúng để dành nhiều thì giờ thông tin tuyên truyền cho các thành viên, cung
cấp
thông tin cho các thành viên từ mọi hình thức nhƣ bằng thƣ, hệ thống máy fax,
các
tập san, mạng nội bộ, các trang web…
Hoạt động nghiên cứu triển khai là một trong những hoạt động chứa đựng
nhiều rủi ro mà một doanh nghiệp đơn lẻ khó thực hiện đƣợc. Vì vậy, Hiệp hội có
thể là ngƣời thay các doanh nghiệp thực hiện những công trình nghiên cứu triển
khai nhằm mang lại lợi ích cho tất cả các doanh nghiệp cũng nhƣ chia sẻ những
rủi
ro giữa các doanh nghiệp. Bằng cách lập ra một quỹ nhằm nghiên cứu triển khai kỹ
thuật và công nghệ nhằm phổ biến kiến thức này cho tất cả các thành viên của
Hiệp
hội sẽ mang lại hiệu quả lớn. Hoạt động này nếu làm tốt không những sẽ không
ngừng nâng cao khả năng của toàn bộ các thành viên trong Hiệp hội mà còn nâng
cao vai trò của chính Hiệp hội đối với các thành viên.
Có đƣợc những thành công trên là do không những các Hiệp hội ra đời từ rất
lâu mà còn do các doanh nghiệp đã nhận thức đƣợc tầm quan trọng vô cùng to lớn
của Hiệp hội ngành hàng đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp. Sự tự do phát
triển trong nền kinh tế thị trƣờng nhờ giảm nhẹ sự can thiệp của Nhà nƣớc và
Chính
phủ cũng là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của các Hiệp hội ngành hàng.