Luận văn thạc sĩ kinh tế: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng xuất khẩu tại Việt Nam
9,042
749
109
70
Viện nghiên cứu, Trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ còn lỏng lẻo, chƣa
khai thác đƣợc nhiều lợi ích cho đôi bên.
Theo một kết quả khảo sát trên 112 doanh nghiệp là thành viên và chƣa là
thành viên của một Hiệp hội tại Việt Nam, cho kết quả tỷ lệ doanh nghiệp là
thành
viên của Hiệp hội chƣa cao ( chỉ 56,5%). Tại thời điểm hiện nay khi các vấn đề
nhƣ
gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu vào các thị trƣờng trọng điểm nhƣ Mỹ, EU,
Nhật Bản tăng cao, kéo theo sự xuất hiện ngày càng nhiều các vụ kiện chống bán
phá giá đối với các sản phẩm Việt Nam thì đáng ngạc nhiên là các doanh nghiệp dù
thuộc một ngành đang chịu sức ép của vụ kiện chống bán phá giá lại không hề kỳ
vọng gì vào vai trò của Hiệp hội. Sự xuất hiện các vụ kiện này cũng phần nào thể
hiện vai trò của các Hiệp hội trong việc tìm hiểu thông tin và hỗ trợ, tƣ vấn về
mặt
pháp lý tại các thị trƣờng xuất khẩu nhƣ EU, Mỹ ...còn nhiều hạn chế. [6]
Không những thế, sự liên kết của các hội viên Hiệp hội và đối với Hiệp hội
còn rất lỏng lẻo. Một đơn cử về việc doanh nghiệp mặc dù trong cùng một Hiệp hội
song lại vẫn chƣa xắn tay áo để cùng vào cuộc với 60 bị đơn trong vụ kiện chống
bán phá giá giầy do liên đoàn các nhà sản xuất giầy tại EU khởi kiện (CEC).
Nhiều
doanh nghiệp không có tên trong danh sách đã thở phào cho rằng mình không bị
kiện trực tiếp và do đó không liên quan. Đáng ngại hơn là có doanh nghiệp nằm
trong danh sách bị đơn lại tỏ ra không quan tâm do nghĩ rằng đơn vị của mình
không xuất khẩu nhiều sang EU nên có khả năng từ chối không chịu khai báo. Đây
là một điều hết sức tai hại bởi sẽ đƣợc Uỷ ban Châu Âu cho là không hợp tác và
điều này không những bất lợi cho chính các doanh nghiệp mà còn bất lợi hơn khi
EC đƣa ra một mức thuế bình quân giữa các doanh nghiệp hợp tác và không hợp tác
áp dụng cho cả ngành và trƣớc mắt là hơn 90.000 lao động trong ngành da giầy bị
mất việc làm. Vụ kiện cá Basa trƣớc đây là một minh chứng cho thấy sự thiệt thòi
của những doanh nghiệp đứng ngoài cuộc dù họ có đủ điều kiện để hƣởng mức
thuế thấp nhƣng lại phải chịu mức thuế cao do không nằm trong nhóm hợp tác
tức là nhóm có khai báo.
71
Nhiều Hiệp hội còn không thể hoàn thành vai trò “nhạc trƣởng” của mình
trong việc điều tiết giá cả và sản lƣợng xuất khẩu. Có những đơn hàng các doanh
nghiệp đua nhau hạ giá do tình trạng tranh mua tranh bán và kết quả là họ đã tự
giết
mình để khách hàng tha hồ mà bắt chẹt.
Mặt khác do những yếu kém và khó khăn về mặt tài chính và nhân sự đã tạo
nên một vòng luẩn quẩn của không ít các Hiệp hội: ảnh hƣởng xã hội, uy tín và
chất
lƣợng hoạt động không cao, không những không hấp dẫn đƣợc thêm hội viên mới
mà còn làm cho hội viên cũ chán nản không tham gia vào hoạt động của Hiệp hội,
không đóng hội phí, từ đó hoạt động của Hiệp hội co hẹp, nguồn thu giảm sút,
Hiệp
hội không đủ khả năng giải quyết dứt điểm những khó khăn của mình. Một số Hiệp
hội thừa nhận họ đang trong tình trạng bế tắc, lung tung không có lối ra.
Hoạt động của các Hiệp hội hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều khiếm khuyết.
Theo đánh giá của Bộ nội vụ, số lƣợng các Hiệp hội thành lập khá nhiều nhƣng
không ít Hội hoạt động yếu kém, chƣa đáp ứng đƣợc đòi hỏi của xã hội và của
nhiều hội viên. Công tác tổ chức Hội còn nhiều bất cập, mối quan hệ giữa hội
viên
và Hiệp hội còn lỏng lẻo, cơ sở vật chất của Hội còn nghèo nàn, nhiều Hội không
có
trụ sở riêng, đói kinh phí hoạt động do hội viên không đóng góp. Có Hội để mất
đoàn kết nội bộ, hoạt động đến 10 năm mà không tổ chức đƣợc đại hội.
Theo một nghiên cứu của Thạc sỹ Vũ Thế Dũng thì hầu hết các doanh
nghiệp đều không mấy hài lòng về các dịch vụ mà Hiệp hội ngành hàng cung cấp.
Bảng 2.3 dƣới đây sẽ cho ta thấy rõ điều đó:
Bảng 2.3: Đánh giá, kỳ vọng và khoảng cách giữa chúng của các thành viên
STT
Dịch vụ
Đánh giá
(a)
Kỳ vọng
(b)
Khoảng cách
(c)
1
Cung cấp thông tin về chính sách và luật pháp
4,5
6,2
1,7
2
Tổ chức các khoá huấn luyện ngắn hạn
4,6
5,4
0,8
3
Cung cấp thông tin thị trƣờng
4,5
6,2
1,7
4
Đề xuất và góp ý kiến với Chính phủ về xây
4,5
6,1
1,6
72
dựng và hoàn thiện chính sách
5
Đại diện và bảo vệ quyền lợi của thành viên
4,4
6,0
1,6
6
Xây dựng và phát triển uy tín và hình ảnh
Hiệp hội trong và ngoài nƣớc
4,3
5,5
1,2
7
Các dịch vụ hỗ trợ tiếp cận thị trƣờng xuất
khẩu nhƣ tổ chức hội chợ thƣơng mại
4,3
5,5
1,2
8
Cung cấp thông tin về các công nghệ mới
4,2
5,8
1,6
9
Phát triển quan hệ và tìm kiếm các nguồn tài
trợ từ các tổ chức quốc tế
4,1
5,8
1,7
10
Hỗ trợ phát triển các quan hệ hợp tác kinh
doanh giữa các thành viên
3,9
5,4
1,5
11
Tƣ vấn cơ hội kinh doanh
3,8
5,9
2,1
12
Hỗ trợ tìm các vốn
3,7
4,3
1,6
13
Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên
3,6
4,8
1,2
14
Tƣ vấn công nghệ và kỹ thuật
3,5
5,5
2,0
Ghi chó: a. Thang ®o 1: rÊt kh«ng hµi lßng- 7: rÊt hµi lßng, b: 1: rÊt kh«ng
quan träng, 7: rÊt quan träng, c: Kho¶ng c¸ch = Kú väng - ®¸nh gi¸
Nguån: X©y dùng lîi thÕ c¹nh tranh vai trß cña HiÖp héi- Th¹c sü Vò ThÕ
Dòng- Tuæi trÎ chñ nhËt (24/7/2005)
Qua b¶ng trªn ta thÊy gi¸ trÞ trung b×nh dao ®éng trong kho¶ng c¸ch thang ®o
3-4/7 víi møc trung b×nh lµ 4,3/7. C¸c dÞch vô ®-îc ®¸nh gi¸ cao nhÊt hiÖn nay
lµ
cung cÊp th«ng tin ph¸p luËt, tæ chøc c¸c kho¸ huÊn luyÖn ng¾n h¹n vµ cung cÊp
th«ng tin thÞ tr-êng, trong khi ®ã c¸c dÞch vô nh- t- vÊn c«ng nghÖ, kinh doanh,
gi¶i
quyÕt tranh chÊp bÞ ®¸nh gi¸ rÊt thÊp. YÕu tè cã t¸c ®éng m¹nh nhÊt ®Õn møc ®é
hµi
lßng chung cña c¸c thµnh viªn lµ ph¸t triÓn quan hÖ vµ t×m kiÕm c¸c nguån tµi
trî tõ
c¸c tæ chøc quèc tÕ. KÕt qu¶ ph©n tÝch cho thÊy trong ®iÒu kiÖn c¸c yÕu tè kh¸c
kh«ng thay ®æi, nÕu HiÖp héi c¶i thiÖn ®-îc ®¸nh gi¸ cña dÞch vô ph¸t triÓn quan
hÖ
vµ t×m kiÕm nguån tµi trî quèc tÕ 1 ®iÓm trªn thang ®o 7 ®iÓm th× sÏ c¶i thiÖn
®-îc
0,7 ®iÓm trong møc ®é hµi lßng chung cña c¸c thµnh viªn. [6]
73
Bên cạnh đánh giá chất lƣợng các dịch vụ, bảng 2.3 cũng cung cấp thông tin
về kỳ vọng của các thành viên về các dịch vụ trong tƣơng lai. Ba dịch vụ và hoạt
động đƣợc coi là quan trọng nhất cần tiếp tục phát triển là: cung cấp thông tin
pháp
luật, cung cấp thông tin thị trƣờng và đề xuất góp ý kiến với Chính phủ về các
chính
sách vĩ mô. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và doanh nghiệp quy mô lớn có kỳ
vọng khác nhau ở 6/14 dịch vụ đó là : Cung cấp thông tin về chính sách và luật
pháp, cung cấp thông tin thị trƣờng, tổ chức các khoá huấn luyện ngắn hạn, hỗ
trợ
tìm các nguồn vốn, tƣ vấn công nghệ và kỹ thuật, tƣ vấn cơ hội kinh doanh, các
doanh nghiệp nhỏ luôn kỳ vọng lớn hơn các doanh nghiệp lớn. Kết quả này một lần
nữa khẳng định các Hiệp hội cần phải quan tâm nhiều hơn đến nhóm các doanh
nghiệp nhỏ. Kết quả này cũng có một số khác biệt so với kết quả nghiên cứu tƣơng
tự trên thế giới: kỳ vọng của các doanh nghiệp khi tham gia Hiệp hội để sử dụng
các
dịch vụ hỗ trợ kinh doanh của Hiệp hội không nằm trong ba thứ hạng đầu. Kết quả
này còn phản ánh thực trạng là các doanh nghiệp chƣa quen sử dụng các dịch vụ hỗ
trợ kinh doanh và chất lƣợng, độ phong phú của các dịch vụ do Hiệp hội cung cấp
chƣa cao.
Các Hiệp hội ngành hàng cũng bộc lộ những yếu kém trong hoạt động hỗ trợ
nâng cao năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp trong các việc tăng chất lƣợng
yếu tố đầu vào, các yếu tố ngành, các yếu tố điều kiện cầu.
Với các yếu tố đầu vào, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp chế biến, sản
xuất và các doanh nghiệp cung ứng chƣa chặt chẽ do đó còn nhiều sai phạm và bất
cập dẫn đến giá nguyên liệu thƣờng xuyên biến đổi mà các Hiệp hội không thể điều
tiết nổi, doanh nghiệp ngại đầu tƣ cho các nhà cung ứng nguyên liệu trƣớc còn
các
nhà cung ứng nhiều khi lại thấy cái lợi trƣớc mắt mà phá vỡ hợp đồng. Nguyên
nhân chủ yếu là do chƣa có chế tài đủ chặt chẽ để xử lý công bằng các vi phạm
trong việc thực hiện hợp đồng
Về kết cấu ngành: do chƣa phát huy đƣợc vai trò điều hoà quy mô sản xuất
và xuất khẩu, điều hoà về giá cả nên trong thời gian qua vẫn còn tình trạng
tranh
giành nhau hợp đồng ngoại, tạo kẽ hở cho thƣơng nhân nƣớc ngoài ép giá. Vấn đề
quản lý chất lƣợng sản phẩm cũng chƣa đƣợc quan tâm thích đáng, chỉ mới tập
74
trung ở khâu chế biến, còn khâu nguyên liệu và bảo quản sau thu hoạch chƣa đƣợc
thực hiện tốt nên các sản phẩm hay bị các đối tác nƣớc ngoài khởi kiện về chất
lƣợng mà các Hiệp hội thƣờng không đủ bằng chứng chứng minh. Điều kiện cầu
trong các năm qua có gia tăng về số lƣợng thị trƣờng nhƣng kim ngạch xuất khẩu
chƣa tạo ra đƣợc các đột biến đáng kể.
Mặc dù thƣơng hiệu từ lâu đã giữ vai trò quan trọng trong quyết định lựa
chọn của ngƣời tiêu dùng đặc biệt ở nƣớc ngoài nhƣng việc đăng ký và bảo hộ
thƣơng hiệu ở nƣớc ngoài hầu nhƣ chƣa đƣợc các Hiệp hội đầu tƣ thích đáng, hầu
hết các hàng hoá đều mang thƣơng hiệu của các công ty trung gian, may mắn lắm
thì ghi “product from Vietnam”. Hầu hết các Hiệp hội hiện nay mới bắt tay vào
xây
dựng thƣơng hiệu ở khâu sáng tác logo chứ chƣa tổ chức quảng bá ở nƣớc ngoài
nhằm
xây dựng hình ảnh các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ở nƣớc ngoài dù trên thực
tế
có những ngành hàng kim ngạch xuất khẩu của ta đứng nhất nhì thế giới.
2.3.2 Nguyên nhân
2.3.2.1 Nguyên nhân khách quan
+ Cơ chế quản lý của Nhà nƣớc:
Ở nƣớc ta vai trò của Nhà nƣớc đối với Hiệp hội đƣợc thể hiện không những
qua việc định ra các chính sách, khung khổ pháp lý để trên cơ sở đó các Hiệp hội
đƣợc hình thành và phát triển mà Nhà nƣớc còn thực hiện vai trò quản lý đối với
các Hiệp hội. Đầu mối quản lý là Vụ tổ chức phi Chính phủ trực thuộc Bộ nội vụ
và ngoài ra còn có Bộ chủ quản. Ở nƣớc ta tồn tại một thực tế là các ngành hàng
có
Bộ chủ quản nhƣ Hiệp hội da giầy, Hiệp hội thuỷ sản và một số Hiệp hội khác nhờ
sự giúp đỡ của Bộ chủ quản nên hoạt động tƣơng đối tốt có cơ sở vật chất đàng
hoàng còn những Hiệp hội khác riêng chuyện cơ sở vật chất vẫn còn là vấn đề nan
giải.
Hơn nữa ở nƣớc ta các doanh nghiệp lớn tham gia vào Hiệp hội là doanh
nghiệp Nhà nƣớc đã cổ phần hoặc chƣa cổ phần, các Tổng công ty nên khi tham gia
Hiệp hội họ không thể toàn quyền quyết định, muốn đề xuất một vấn đề nào đó
ngoài việc đề xuất qua Hiệp hội họ có thể đề xuất trực tiếp tới Bộ chủ quản và
trong
75
thực tế đề xuất qua Bộ chủ quản lại nhanh nhạy và hiệu quả hơn. Sự quản lý chồng
chéo, đôi khi buông lỏng hoặc đôi khi can thiệp quá sâu vào hoạt động của Hiệp
hội
phần nào đã làm giảm vai trò của Hiệp hội và do đó cũng làm hạn chế sự phát
triển
của Hiệp hội ngành hàng. Không những thế trong bản thân các Hiệp hội cũng sẽ bị
chia rẽ và không bình đẳng do các doanh nghiệp Nhà nƣớc trực thuộc Bộ chủ quản
sẽ đƣợc ƣu ái và nhận đƣợc nhiều sự hỗ trợ hơn các doanh nghiệp thuộc các thành
phần khác chẳng hạn hội viên là doanh nghiệp tƣ nhân đi khảo sát nƣớc ngoài sẽ
không đƣợc cấp hộ chiếu công vụ do không có sự đề nghị của Bộ chủ quản.
Trong điều kiện nƣớc ta hiện nay do hầu hết các Hiệp hội đều mới đƣợc hình
thành nên các Hiệp hội mặt nào đó vẫn chƣa hoạt động theo nguyên tắc vốn có của
nó mà hầu nhƣ đều có sự giúp đỡ của Nhà nƣớc. Vẫn còn hiện tƣợng cơ quan Nhà
nƣớc can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Chế độ cơ quan
chủ quản doanh nghiệp Nhà nƣớc vẫn chƣa đƣợc xoá bỏ và các cơ quan này trong
nhiều trƣờng hợp không chỉ đóng vai trò quản lý Nhà nƣớc mà còn đảm nhiệm luôn
cả chức năng đại diện cho doanh nghiệp, thực hiện trực tiếp các hoạt động điều
phối, liên kết hoạt động của các doanh nghiệp mà vai trò này trong điều kiện
kinh tế
thị trƣờng là thuộc về các Hiệp hội doanh nghiệp. Trƣớc mắt thì sự giúp đỡ này
của
Nhà nƣớc với các Hiệp hội là một sự thuận lợi cho họ nhƣng về lâu dài có nguy cơ
dẫn đến việc hành chính hoá các Hiệp hội làm hạn chế năng lực hoạt động của Hiệp
hội.
Không những thế do chƣa có một cơ chế chính sách nào điều chỉnh những hỗ
trợ của Nhà nƣớc đối với các Hiệp hội mà chỉ thông qua cơ chế xin cho nên trên
thực tế
xảy ra nhiều tiêu cực do sự liên minh giữa cán bộ Cơ quan chủ quản với lãnh đạo
Hiệp
hội trong việc sử dụng ngân sách Nhà nƣớc còn nhiều bất cập hoặc những nguồn lực
này lại phân bổ trực tiếp tới các cơ quan Nhà nƣớc, các Tổng công ty và do đó
không
tận dụng đƣợc các nguồn lực của Hiệp hội ngành hàng trong việc triển khai.
+ Khung khổ pháp lý
Cho đến nay các chính sách pháp luật về Hội còn nhiều bất cập, thiếu đồng
bộ. Văn bản pháp lý đầu tiên quy định sự hình thành là Sắc lệnh 102/SL/L004 quy
76
định quyền lập Hội của công dân trong đó điều 2 quy định: “ Mọi ngƣời đều có
quyền lập Hội trừ những ngƣời mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố trƣớc pháp
luật” ban hành ngày 20 tháng 5 năm 1957 tức 3 năm sau ngày hoà bình trên thực tế
không còn phù hợp với điều kiện hiện nay. Xung quanh sắc lệnh này còn có Nghị
định số 258/TTg quy định chi tiết thi hành luật 102/SL/L004 ngày 20/5/1957 về
quyền lập Hội, Chỉ thị số 01/CT ngày 05/01/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng
về việc quản lý tổ chức và hoạt động của Hội quần chúng, và đặc biệt là Chỉ thị
số
125-CT/TW ngày 24/08/1995 về thông báo ý kiến của Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng
số 52 ngày 21/08/1993 về tổ chức các Hội ngành nghề, Hiệp hội công thƣơng. Tiếp
theo trong Bộ luật dân sự năm 1996, mặc dù quy định các hình thức pháp nhân tạo
nền tảng pháp lý cho việc xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của các Hiệp hội
ngành hàng, nhƣng đây chỉ là các quyền về mặt dân sự chƣa xác định đƣợc quan hệ
hợp tác giữa chính quyền và doanh nghiệp thông qua các Hiệp hội ngành hàng. Văn
bản điều chỉnh trực tiếp nhất đến tổ chức và hoạt động Hiệp hội ngành hàng là
quyết định 38-HĐBT năm 1989 của Hội đồng Bộ trƣởng – nay là Chính phủ về liên
kết kinh tế. Tuy nhiên do những hạn chế của hoàn cảnh và nhận thức nên mô hình
tổ chức và hoạt động của các Hiệp hội theo quyết định này còn rất đơn giản và
không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay. Nghị định của Chính phủ số
88/2003/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản
lý Hội, Ban hành kèm theo Nghị định này có thông tƣ số 01/2004/TT-BNV ngày
15/01/2004 hƣớng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 88/2003/NĐ-CP
ngày 30 tháng 7 năm 2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội. Trong
Thông tƣ này có thêm một số điểm quy định cho Hiệp hội các tổ chức kinh tế nhƣ:
- Mục 1d điều 2: Hiệp hội các tổ chức kinh tế có phạm vi hoạt động trong cả
nƣớc có ít nhất 5 thành viên đại diện cho các tổ chức kinh tế, đối với Hiệp hội
có
phạm vi hoạt động trong tỉnh có ít nhất 3 thành viên đại diện cho các tổ chức
kinh tế
trong tỉnh ỏ trong Ban vận động thành lập Hội.
77
- Mục 5 điều 3 quy định: Hiệp hội của các tổ chức kinh tế có hội viên là đại
diện của các tổ chức kinh tế có tƣ cách pháp nhân của Việt Nam phạm vi hoạt động
trong cả nƣớc có ít nhất 11 đại diện pháp nhân ở nhiều tỉnh, Hiệp hội có phạm vi
hoạt động trong tỉnh có ít nhất 5 đại diện pháp nhân trong tỉnh cùng ngành nghề
hoặc cùng lĩnh vực hoạt động có đủ điều kiện, tự nguyện đăng ký tham gia thành
lập Hiệp hội.
- Điều 8 quy định: Các Hiệp hội các tổ chức kinh tế có thêm quyền và nghĩa
vụ sau: Làm đầu mối phối hợp liên kết giữa các doanh nghiệp thành viên, thúc đẩy
liên doanh, liên kết cùng có lợi. Hỗ trợ doanh nghiệp hội viên trong việc chuyển
giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, xúc tiến thƣơng mại. Bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của các hội viên trong tranh chấp thƣơng mại và hoà giải các mâu thuẫn,
tranh
chấp giữa các hội viên. [2]
Tại điều 10 nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi
hành Luật thƣơng mại năm 1997 về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý
mua bán hàng hoá với nƣớc ngoài có quy định: “Thƣơng nhân kinh doanh cùng
ngành hàng, không phân biệt thành phần kinh tế, đƣợc phép thành lập Hiệp hội
ngành hàng xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở tự nguyện để phối hợp hoạt động và
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
hội viên, đồng thời đảm bảo lợi ích quốc gia.
Đến nay sau hơn 10 năm thảo luận và đã ra đời dự thảo lần thứ 9 của Luật về
Hội, điển hình là 2 dự thảo luật của Bộ nội vụ và Liên hiệp các Hội khoa học và
Kỹ
thuật Việt Nam- VUSTA nhƣng thật đáng tiếc là vẫn chƣa có văn bản nào quy định
cụ thể riêng cho các Hiệp hội ngành hàng ở Việt Nam do đó chƣa phản ánh và đáp
ứng đƣợc nhu cầu phát triển mạnh mẽ của các Hiệp hội ngành hàng cũng nhƣ vai
trò của Hiệp hội ngành hàng trong tình hình mới. Hơn thế nữa, các thủ tục đăng
kí
thành lập còn phức tạp, bó hẹp các quyền tự do lập Hội, chƣa có đơn vị chủ quản
thống nhất trong việc đăng kí thành lập hội mà hiện tại chỉ có Vụ các tổ chức
phi
Chính phủ trực thuộc Bộ nội vụ quản lý các Hội còn tuỳ từng ngành cụ thể có các
78
Bộ liên quan, việc kiểm tra, kiểm soát và thành lập các Hội chƣa đƣợc tách bạch
nên có thể làm nản lòng những ai muốn thành lập các Hiệp hội mới và không thu
hút đƣợc những ngƣời có năng lực vào hàng ngũ các nhà lãnh đạo của Hiệp hội.
2.3.2.2 Nguyên nhân chủ quan
+ Về năng lực tổ chức:
Cơ cấu tổ chức của các Hiệp hội ngành hàng ở nƣớc ta vẫn chƣa có một mô
hình nhất định, qua kết quả điều tra cho thấy trên 80% Hiệp hội có số cán bộ
chuyên
trách ít hơn 10 ngƣời, có Hiệp hội thậm chí không có nhân viên chuyên trách. Hơn
thế nữa do nhận thức chƣa đúng của xã hội nói chung và bản thân cấp lãnh đạo và
hội viên về vị trí, vai trò của Hiệp hội. Từ đó các Hiệp hội ngành nghề chƣa
phát
huy đầy đủ chức năng đại diện cho lợi ích thành viên, hội viên của mình. Hệ
thống
tổ chức còn bị hành chính hoá, đội ngũ cán bộ còn có biểu hiện quan liêu, viên
chức
hoá. Thậm chí có trƣờng hợp, Hiệp hội đƣợc xem nhƣ là sân sau của các quan chức
khi đã hết tuổi công tác trong các cơ quan quản lý Nhà nƣớc. Các lãnh đạo Hiệp
hội
thƣờng làm việc kiêm nhiệm và thƣờng là một quan chức Nhà nƣớc, số cán bộ
chuyên trách đa phần đã nghỉ hƣu nên nhiều khi sự tồn tại của Hiệp hội chỉ mang
tính hình thức. Quyền tự chủ, tự quyết định của các Hiệp hội trong việc lựa chọn
cán bộ lãnh đạo chƣa có. Các Hiệp hội vẫn chƣa thu hút đƣợc những ngƣời tài thực
sự vào cƣơng vị lãnh đạo do cơ chế quan liêu hoặc thái độ lảng tránh một hệ luỵ
nào
đó hoặc cảm thấy không vinh dự với nó hoặc một phần là do cơ chế tài chính cho
hoạt động của Hiệp hội chủ yêú là lấy thu bù chi nên hạn chế thu hút những nhân
viên có trình độ. Do các nhân viên ít và trình độ chƣa cao nên phần nào làm cho
hoạt động của Hiệp hội kém tính năng động và do đó đang làm hạn chế khả năng
vai trò với các hội viên.
+ Về tài chính:
Nguồn hình thành quỹ tài chính trong các Hiệp hội gồm : các khoản phí và lệ
phí do hội viên đóng, nguồn hỗ trợ từ ngân sách, các dự án tài trợ của các tổ
chức
nƣớc ngoài. Ngoài ra còn nguồn thu từ các dịch vụ do Hiệp hội cung cấp mang lại.
79
Nhƣng do năng lực yếu kém nên việc tổ chức và thu hút hội viên tham gia các dịch
vụ này còn hạn chế làm giảm đáng kể nguồn thu của các Hiệp hội.
Việc tiến hành các dịch vụ công thông qua các hợp đồng kinh tế với chính
quyền còn gặp nhiều khó khăn vì để thực hiện các dịch vụ này đòi hỏi lãnh đạo
Hiệp hội phải có đủ năng lực chuyên môn nên thực tế nguồn thu này không đáng kể,
nguồn hỗ trợ từ ngân sách Nhà nƣớc lại thƣờng theo cơ chế xin cho và do đó cũng
hình thành tiêu cực giữa Cơ quan chủ quản và một số lãnh đạo Hiệp hội. Hiện tại
nguồn hỗ trợ này lại đang chiếm vị trí không nhỏ trong việc xây dựng quỹ tài
chính
của các Hiệp hội ngành hàng Việt Nam. Theo cục xúc tiến thƣơng mại, Bộ trƣởng
bộ Thƣơng mại vừa phê duyệt 156 đề án xúc tiến thƣơng mại trọng điểm quốc gia
năm 2006 của 27 Hiệp hội ngành nghề với kinh phí trên 145 tỷ đồng. Các nguồn thu
từ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế vẫn còn hạn hẹp do nhiều Hiệp hội chƣa
thiết
lập đƣợc quan hệ tốt với các tổ chức nƣớc ngoài.
Tài chính yếu kém đã làm cho không ít các Hiệp hội có chất lƣợng không
cao, gây khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động nhƣ quảng bá thƣơng hiệu,
theo Vasep để cần hình thành thƣơng hiệu và tiến hành quảng bá tiếp thị thì cần
ít
nhất 300 triệu USD và một thời gian khá dài mà chƣa chắc đã thành công. Vì vậy
trong thời gian trƣớc mắt các Hiệp hội cần nâng cao chất lƣợng dịch vụ của mình
nhằm tăng thêm nguồn thu cho ngân quỹ.