Luận văn thạc sĩ kinh tế: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng xuất khẩu tại Việt Nam
9,047
749
109
50
kịp với những biến động của tình hình trong nƣớc và thế giới, giúp doanh nghiệp
chủ động trong việc hoạch định kế hoạch sản xuất, quy mô sản lƣợng, chiến lƣợc
giá cả… để có thể đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt.
Ngay từ khi mới thành lập Hiệp hội dệt may Việt Nam phối hợp với tổng
công ty dệt may Việt Nam xuất bản tạp chí Dệt may và thời trang ra hàng tháng.
Nhằm cung cấp kịp thời hơn nữa các thông tin cập nhật nhƣ quy chế phân bổ hạn
ngạch xuất khẩu, tình hình thực hiện Hiệp định dệt may với Mỹ, EU, những bài
bình luận của các chuyên gia kinh tế về những thời cơ và thách thức, những vấn
đề
về giá cả và thị trƣờng xuất khẩu, hoạt động của các hội viên, các cơ chế chính
sách
mới… Tháng 8/2003 Hiệp hội còn phát hành bản tin nội bộ hàng tháng.
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản là một trong những Hiệp hội làm rất
tốt công tác thông tin, chỉ hơn một tháng sau khi thành lập, Hiệp hội đã cho ra
đời
Bản tin thƣơng mại thuỷ sản dƣới sự cho phép của Bộ văn hoá thông tin theo giấy
phép số 1928/1998-GPXB-BC vào ngày 16/8/1998. Bản tin thƣơng mại thuỷ sản
ban đầu chỉ có 8 trang và in hai màu phát hành hai kỳ mỗi tháng. Tiếp đến ngày
7/1/2000, Hiệp hội cho ra mắt số đầu tiên bản tin thƣơng mại thuỷ sản điện tử
đƣợc
phát hành bằng email cho từng hội viên vào thứ 6 hàng tuần. Nhƣng do các thông
tin cung cấp không đủ đáp ứng nhu cầu đặc biệt trong tình hình giá thị trƣờng
tôm
biến động đột ngột, từ tháng 2/2001, Hiệp hội phát hành bản tin nhanh đặc biệt
đƣợc gửi bằng email cho các hội viên hàng ngày. Ngoài ra Hiệp hội còn cho xuất
bản Tạp chí thƣơng mại thuỷ sản, mới đầu chỉ 52 trang sau tăng lên 60 trang với
4
màu đẹp vào các ngày 20 hàng tháng. Các thông tin bám sát các vấn đề về giá cả,
cung cầu thị trƣờng xuất khẩu, dƣ lƣợng kháng sinh trong sản phẩm thuỷ sản, các
vụ kiện chống bán phá giá cá tra, basa, tôm…Không những thế Hiệp hội còn phối
hợp các tạp chí chuyên ngành thuỷ sản có uy tín quốc tế nhƣ The Suisan Time
(Hiệp hội thủy sản Nhật Bản), Infofish (Châu Á), Seafood Business ( Mỹ), Product
de la mer ( Pháp), Seafood International ( EU) giới thiệu về Hiệp hội và ngành
thuỷ
sản Việt Nam ở gần 35.000 ấn phẩm nhằm giới thiệu với thế giới về tiềm năng thuỷ
sản Việt Nam. Ngoài ra Hiệp hội còn biên soạn các ấn phẩm bằng tiếng Anh nhƣ
51
Vietnam Shrimp Industry, Vietnam Seafood Cuisine và sắp tới là Vietfish
International để phát ở các hội chợ. [7]
Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam cũng xuất bản các catalogue giới thiệu các
doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam nhằm mở rộng cơ hội giao thƣơng với các
doanh nghiệp nƣớc ngoài. Hiệp hội da giầy Việt Nam hàng tháng cũng cho ra mắt
Bản tin công nghiệp và da giầy
Không dừng lại ở các ấn phẩm in, các Hiệp hội cũng xây dựng các trang chủ
với các địa chỉ nhƣ http://www.vicofa.org.vn (Hiệp hội cà phê- cacao Việt Nam),
http://www.vietfores.org (Hiệp hội Gỗ và Lâm Sản Việt Nam),
http://www.lefaso.org.vn (Hiệp hội da giầy Việt Nam), http://www.vasep.com.vn
(Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam), http://www.vntextile.com
(Hiệp hội dệt may Việt nam), http://www.vra.com.vn (Hiệp hội cao su Việt Nam),
http://www.vitas.org.vn (Hiệp hội chè Việt nam), http://www.vinacas.com.vn (
Hiệp
hội cây điều Việt Nam), http://www.vietfood.org.vn (Hiệp hội lƣơng thực Việt
Nam), http://www.veia.org.vn ( Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam). Các
trang web này thƣờng có cả tiếng Anh và tiếng Việt giúp các đối tác nƣớc ngoài
có
thể tiếp cận đƣợc với Hiệp hội.
Đặc biệt với nỗ lực hết sức của cả Hiệp hội dệt may trong việc tìm nguồn tài
trợ từ phía Nhà nƣớc và các doanh nghiệp sẽ tham gia khai thác, Cổng giao dịch
điện tử ngành dệt may với trang web: www.vietnamtextile.org.vn đã hoàn thành ở
giai đoạn 1 với kinh phí trên 1 tỷ đồng. Việc ra đời cổng giao dịch điện tử này
đánh
dấu một bƣớc phát triển quan trọng của công tác thông tin trong thời kỳ mới.
Trên
cổng giao dịch này, các tin tức, sự kiện cả trong và ngoài nƣớc đƣợc thu thập từ
rất
nhiều nguồn khác nhau sẽ cung cấp cho các đơn vị tham gia những thông tin quan
trọng nhất, cập nhật nhất và chính xác nhất.
Công nghệ là một khâu quan trọng đối với quá trình sản xuất của mỗi doanh
nghiệp, học hỏi và trao đổi các công nghệ tiên tiến hiện đại là mối quan tâm
hàng
đầu của các doanh nghiệp nhằm tăng năng suất chất lƣợng sản phẩm. Do đó các
thông tin về công nghệ là một phần không thể thiếu trong các thông tin đƣợc các
Hiệp hội ngành hàng cung cấp. Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản đã tổ chức
52
in và phát hành trên 30 ấn phẩm hƣớng dẫn công nghệ chuyên môn, quản lý, kiến
thức nghề nghiệp dƣới dạng sách in nhƣ sổ tay kiểm nghiệm vi sinh thực phẩm thuỷ
sản, nƣớc đá trong ngành thuỷ sản, hƣớng dẫn sử lý và bảo quản nhuyễn thể chân
đầu nguyên liệu, hƣớng dẫn giảm thiểu nƣớc thải và nƣớc sử dụng trong chế biến
thuỷ sản, kỹ thuật nuôi thuỷ sản sinh thái…
Hiệp hội chè cũng phối hợp với các tạp chí chuyên ngành chè nhƣ F/O Linch
(Anh), Asean Tea để cung cấp kịp thời các thông tin về tình hình xuất nhập khẩu,
sản xuất, thị trƣờng thế giới và trong nƣớc, các thông tin về các công nghệ hiện
đại
đang đƣợc áp dụng trong việc trồng trọt và chế biến chè.
Bên cạnh việc cung cấp thông tin về công nghệ, các Hiệp hội còn tham gia tƣ
vấn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp hội viên tiếp cận và ứng dụng các công nghệ
khoa
học hiện đại.
Với các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam, công nghệ chế
biến là một khâu quan trọng quyết định chất lƣợng sản phẩm và năng lực cạnh
tranh
của sản phẩm trên thị trƣờng. Công ty TNHH tƣ vấn dịch vụ chế biến xuất khẩu
thuỷ sản trực thuộc Hiệp hội luôn tìm hiểu và tƣ vấn cho các doanh nghiệp lựa
chọn, nhập khẩu thiết bị phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hiệp hội còn phối
hợp với cơ quan hỗ trợ nhập khẩu Thuỵ Sỹ SIPPO chủ động giới thiệu công nghệ
nuôi tôm sinh thái trong rừng ngập mặn, vừa bảo vệ môi trƣờng vừa tạo ra sản
phẩm tôm nuôi chất lƣợng cao của Việt Nam. Sản phẩm tôm nuôi sinh thái Việt
Nam có tên là Eco-Shrimp đã đƣợc tổ chức quốc tế Naturland công nhận là sản
phẩm sinh thái từ tháng 12/2001. Hiệp hội còn phối hợp với một số tổ chức quốc
tế
tiến hành hội thảo về các công nghệ chế biến thuỷ sản nhƣ: Hội thảo với công ty
Cryovac – Newzealand về vấn đề công nghệ bảo quản lạnh và bao gói hàng thuỷ
sản, hội thảo với công ty triển khai công nghệ PAT về vấn đề thiết bị xử lý nƣớc
và
nƣớc thải, làm việc với tập đoàn YANTAI MOON- Trung Quốc về việc đầu tƣ xây
dựng nhà máy sản xuất thiết bị bảo quản lạnh tại Việt Nam.
Vasep cũng góp phần cùng các hội viên đƣa vấn đề quản lý chất lƣợng vào
sản xuất, phổ biến và khuyến khích các doanh nghiệp hội viên áp dụng các phƣơng
53
pháp quản lý chất lƣợng tiến tiến và hiện đại nhƣ HACCP, ISO, SQF… và phối hợp
với các tổ chức quốc tế nhƣ SIPPO tổ chức chƣơng trình hỗ trợ thực hiện HACCP
trong các xí nghiệp chế biến thuỷ sản, với NAFIQACEN tổ chức hội thi “ Quản lý
chất lƣợng an toàn và vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP trong công nghiệp
chế biến thủy sản” và tổ chức đoàn hƣớng dẫn thực hiện và thẩm định nội bộ 8
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các tỉnh miền Trung và miền Bắc.
Nâng cao chất lƣợng chè xuất khẩu cũng đƣợc Hiệp hội chè Việt Nam
nghiên cứu và phổ biến cho các doanh nghiệp hội viên, để làm đƣợc việc đó cần
nâng cao chất lƣợng giống chè, kỹ thuật canh tác và chế biến. Thông qua các hoạt
động liên doanh, liên kết quốc tế, Hiệp hội đã đƣa nhiều giống mới có xuất xứ từ
Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ vào nghiên cứu trồng thử và triển khai ở Việt Nam
nhƣ đã nhập khẩu và giâm ƣơm 14 giống chè Nhật Bản tại Mộc Châu, 9 giống của
Trung Quốc và 3 giống của Ấn Độ triển khai trồng và khảo nghiệm sinh thái tại 13
tỉnh và thực tế các giống mới nhập trên đều phù hợp với khí hậu và thổ nhƣỡng
Việt
Nam trong đó có các giống quý nhƣ Mironi (Nhật), Bát Tiên (Trung Quốc), Assam
(Ấn Độ), Long Tỉnh, Ngọc Thuý (Đài Loan)…Hiệp hội cũng tƣ vấn cho ngƣời
trồng chè về kỹ thuật canh tác chè, thâm canh chăm sóc chè, thu hoạch và bảo
quản
chè đúng tiêu chuẩn và giữ vệ sinh an toàn thực phẩm cho chè. Hiệp hội đã yêu
cầu
các doanh nghiệp thành viên quản lý chặt chẽ việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật,
hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc trừ sâu trên chè, đẩy mạnh việc quản lý dịch
hại
tổng hợp (IPM). Các dịch vụ phun thuốc trừ sâu sẽ do hợp tác xã hoặc doanh
nghiệp
đứng ra đảm nhận, bắt buộc ngƣời nông dân sử dụng thuốc trừ sâu trong danh mục
Nhà nƣớc chỉ định và đƣợc kiểm soát chặt chẽ của Chi cục bảo vệ thực vật. Công
nghệ chế biến chè từ chỗ trƣớc đây chỉ áp dụng công nghệ của Liên Xô và Trung
Quốc nay đã áp dụng của cả Nhật, Ấn Độ, Srilanka… Ngoài ra Hiệp hội còn phối
hợp với nhiều cơ quan nghiên cứu trong cả nƣớc nhƣ Viện công nghệ sinh học
thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia, Trƣờng đại học bách
khoa hà Nội, Viện công nghệ thu hoạch nghiên cứu cải tiến, đổi mới công nghệ và
đa dạng hoá sản phẩm.
54
Hiệp hội Cà phê- Cacao Việt Nam cũng phối hợp với các tổ chức khác về
công nghệ chế biến cải tiến chất lƣợng đối với sản phẩm cà phê. Xây dựng dự án
nâng cao chất lƣợng cà phê Việt Nam, ngăn ngừa sự hình thành nấm mốc bằng
nguồn vốn của FAO. Hiệp hội còn hợp tác với tổ chức GTZ của Đức và 2 tập đoàn
cà phê lớn tại công ty hồ tiêu Tân Lâm tham gia dự án nâng cao chất lƣợng cà phê
Robusta ở Quảng Trị. Hiệp hội còn cùng với các cơ quan chức năng tham gia xây
dựng tiêu chuẩn quốc gia về cà phê Việt Nam.
2.2.4 Hoạt động hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thƣơng mại
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thƣơng mại, mục tiêu của
Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) là tạo thuận lợi cho hoạt động thƣơng mại
quốc tế. Các nƣớc thành viên WTO phải cắt giảm một cách đáng kể hoặc dỡ bỏ
hoàn toàn những hàng rào phi thuế truyền thống nhƣ: hạn ngạch, giấy phép, các
rào
cản kỹ thuật khác. Nhờ đó hàng hoá các nƣớc đang phát triển tiếp cận thị trƣờng
dễ
hơn trƣớc sự cạnh tranh gay gắt của các hàng hoá cùng loại. Để giải quyết những
ảnh hƣởng thƣơng mại không bình đẳng của các nƣớc khác hoặc gây tổn thất do
hàng nhập khẩu tăng nhanh gây ra, thuật ngữ khắc phục thƣơng mại ra đời đề cập
đến các biện pháp chống bán phá giá, thuế đối kháng và tự vệ.
Các biện pháp khắc phục thƣơng mại ra đời xuất phát từ thực tế là do sự điều
tiết của thị trƣờng, xu hƣớng vận động của tƣ bản ở các nƣớc phát triển tập
trung
vào những ngành công nghiệp kỹ thuật cao, chuyển những ngành công nghiệp dân
dụng ít có lợi thế so sánh, có giá trị kinh tế thấp, sử dụng lao động rẻ và tay
nghề
không cao (nhƣ may mặc, dệt, giầy dép, đồ gỗ gia dụng, nông, lâm sản…) sang các
nƣớc nghèo và đang phát triển… đã làm giảm sức cạnh tranh của sản xuất trong
nƣớc trƣớc các sản phẩm nhập khẩu. Tại các nƣớc đang phát triển, nhờ có một số
lợi thế so sánh, nên có một số sản phẩm có tính cạnh tranh cao so với sản phẩm
của
những nƣớc phát triển. Bởi vậy để tự vệ trƣớc những bất lợi, các nƣớc phát triển
đƣa ra những biện pháp bảo hộ các ngành sản xuất trong nƣớc dƣới danh nghĩa
“biện pháp bảo đảm công bằng trong thƣơng mại” nhƣ chống bán phá giá, chống trợ
55
cấp, thuế đối kháng, tự vệ…. Một số nƣớc đang phát triển cũng áp dụng theo để
bảo
hộ ngành sản xuất nội địa.
Trong những năm gần đây đã có tình trạng lạm dụng các biện pháp chống
bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ nhất là ỏ các nƣớc có tiềm năng kinh tế lớn
đã
gây bóp méo thƣơng mại, cạnh tranh không lành mạnh trong thƣơng mại quốc tế
mặc dù WTO đã có các Hiệp định nhằm điều tiết, hạn chế tình trạng này để đảm
bảo tính công bằng trong thƣơng mại quốc tế. Cụ thể theo tổng kết của WTO, từ
năm 1995-2004 các nƣớc thành viên của WTO đã tiến hành 2.537 cuộc điều tra về
chống bán phá giá, gồm Ấn Độ (383 vụ), Hoa Kỳ (350 vụ), EU (287 vụ). Có 1567
vụ chiếm 61,76% tổng số vụ điều tra đi đến kết luận là có bán phá giá và bị áp
thuế
chống bán phá giá.
Việt Nam cũng không nằm ngoài tình cảnh đó, từ năm 1994 đến năm 2004
đã có 18 vụ nƣớc ngoài kiện Việt Nam về chống bán phá giá và 4 vụ tự vệ liên
quan
đến một số sản phẩm nhƣ giầy dép, hàng nông sản, thuỷ sản, một số sản phẩm cơ
khí, sản phẩm công nghiệp…, trong đó 15 vụ đã có kết luận cuối cùng và vụ kiện
cá da trơn ( cá ba sa) và tôm là hai vụ kiện phức tạp nhất. Khởi kiện nhiều nhất
là EU (9 vụ), Hoa Kỳ (2 vụ) và các nƣớc khác nhƣ Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba
Lan…. Hiện tại chúng ta đang phải đối mặt với 6 vụ kiện chống bán phá giá (đối
với sản phẩm xe đạp, ống, tuýp thép hoặc thép, chốt, then cửa bằng inox và các
phụ
tùng, đèn huỳnh quang (CFL-i), ván lƣớt sóng và mới đây là giầy dép bán vào thị
trƣờng EU và 2 vụ tự vệ đối với bột sắn, tinh bột sắn, tinh bột cao cấp và nan
hoa xe
đạp. [21]
Trƣớc tình hình đó, các Hiệp hội ngành hàng đã nâng cao nhận thức cho các
doanh nghiệp về các vụ kiện nhằm trang bị cho họ những kiến thức nhằm chủ động
có các chiến lƣợc đối phó với các vụ kiện hoặc chuẩn bị sẵn sàng để các đối tác
nƣớc ngoài không thể viện lý do kiện các doanh nghiệp thành viên. Hiệp hội chế
biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam là một trong các Hiệp hội thực hiện khá tốt
việc hỗ trợ các doanh nghiệp hội viên tham gia giải quyết tranh chấp thƣơng mại.
56
Sau đây là hai vụ kiện tiêu biểu có sự tham gia giải quyết tích cực của Vasep và
đã
đạt đƣợc một số thành công:
+ Về vụ kiện cá tra, basa:
Kể từ năm 1997, sản phẩm fillet cá Tra, cá Basa của Việt Nam bắt đầu đƣợc
xuất khẩu sang Mỹ dƣới cái tên là Catfish. Ngay sau thời gian đó không lâu, với
ƣu
thế chất lƣợng cao, giá bán phù hợp, sản phẩm fillet cá Tra, Basa đƣợc ngƣời
tiêu
dùng khó tính của Mỹ chấp nhận. Năm 1998, sản lƣợng cá fillet Việt Nam xuất
khẩu sang thị trƣờng Mỹ với khối lƣợng là 259 tấn/năm, sản lƣợng xuất năm 1999
là 859 tấn, năm 2001 lên đến 7800 tấn (tăng 760%) và hơn 1 vạn tấn vào 3 tháng
đầu năm 2002. Nếu xem xét sản lƣợng cá tiêu thụ hàng năm tại thị trƣờng Mỹ thì
số
lƣợng cá xuất khẩu từ Việt Nam vào Mỹ không thấm vào đâu, chỉ chiếm không quá
2% tổng sản lƣợng tiêu thụ trên thị trƣờng. Trong khi đó có một dự luật vào
tháng
9/2001 do các đại biểu miền Nam nƣớc Mỹ trình Quốc hội cấm các loại cá da trơn
mang tên catfish nếu cá đó không có nguồn gốc từ Hoa Kỳ và đã đƣợc Quốc hội Mỹ
thông qua. Sau khi đòi Quốc hội phải coi cá Việt Nam khác với cá Mỹ, các trại cá
Hoa Kỳ lại trở ngƣợc lý luận coi cá Việt Nam giống cá Mỹ và yêu cầu Chính phủ
đánh thuế nặng lên cá Việt Nam nhập khẩu. Không những thế với quyết tâm đẩy cá
da trơn Việt Nam khỏi thị trƣờng Mỹ bằng vụ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán
phá giá sản phẩm fillet cá Tra, Basa vào thị trƣờng Mỹ. Các chủ trại cá Catfish
thuộc Hiệp hội CFA và 8 doanh nghiệp chế biến thực phẩm của Mỹ uỷ nhiệm cho
công ty luật Akimgam, là công ty luật đứng hàng thứ 8 về uy tín của Mỹ, khởi
kiện
các sản phẩm fillet đông lạnh chế biến từ cá Tra, Basa của Việt Nam theo luật
chống bán phá giá tại hai tổ chức hữu quan là Bộ thƣơng mại và Uỷ ban thƣơng mại
quốc tế của Mỹ. Đơn kiện gồm 300 trang với 37 phụ lục kèm theo đƣợc gửi đi ngày
28-6-2002. Bên bị là 53 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam. Bộ phận nông
nghiệp của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội đã kết hợp với Cục quản lý thực phẩm
và Dƣợc phẩm Hoa Kỳ cử ngƣời đi điều tra thực địa và đã tuyên bố “ Đại sứ quán
không tin rằng có bằng chứng ủng hộ tuyên bố cho rằng việc xuất khẩu cá da trơn
của Việt Nam sang Hoa Kỳ đựơc trợ giá, không có lợi cho sức khỏe, phá hoại ngầm
57
hay gây ảnh hƣởng cho thị trƣờng cá da trơn tại Hoa Kỳ”, tuy nhiên vụ kiện vẫn
diễn ra. [12]
Trƣớc tình hình đó, Vasep đã nhanh chóng tập hợp đƣợc 14 doanh nghiệp
chế biến xuất khẩu cá Tra, Basa cùng chia sẻ chi phí và theo đuổi vụ kiện tới
cùng.
Bƣớc vào cuộc chiến pháp lý với CFA, Vasep đã thuê Công ty luật White & Case
đứng hàng thứ 5 về uy tín tại Mỹ làm tƣ vấn trong vụ kiện này và đã gửi trực
tiếp
nhiều thƣ cho đại diện thƣơng mại Mỹ, các thƣợng nghị sĩ Mỹ để phản đối các dự
luật 107-76, HR2646 và các dự luật bất bình đẳng khác.
Nhằm tranh thủ sự ủng hộ trong nƣớc từ các cơ quan chức năng, trƣớc khi
CFA chính thức đệ đơn lên DOC kiện các doanh nghiệp Việt Nam, Vasep đã gửi
kiến nghị tới Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Uỷ ban kinh tế và ngân sách Quốc hội,
Uỷ Ban Đối ngoại của Quốc hội đề nghị phản ứng việc nghị viện Mỹ thông qua dự
luật cản trở nhập khẩu cá Tra, Basa đồng thời cũng tổ chức toạ đàm về luật chống
bán phá giá của Hoa Kỳ nhằm phổ biến kiến thức cho các doanh nghiệp hội viên.
Hiệp hội cũng gửi thƣ cho FDA đề nghị 3 tên thƣơng mại mới cho cá tra và cá Basa
và cuối cùng quyết định cá Basa đƣợc đổi thành Bocourti Basa và cá Tra Hypo
Basa.
Vasep cũng ra thông cáo báo chí tuyên bố các doanh nghiệp Việt Nam không
hề bán phá giá cá tra, basa vào thị trƣờng Mỹ, tổ chức các hội nghị nhƣ hội nghị
bàn
về giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cá tra, basa sau khi Mỹ ban hành luật HR2646, đã
sản xuất đĩa ghi hình CD- Rom Catfish Production in Mekong Delta gửi cho các
thƣợng nghị sĩ, các cơ quan hữu quan phía Mỹ, xây dựng website về basa, tổ chức
các hoạt động khuyếch trƣơng sản phẩm cá tra, basa tại hội chợ Los Angeles nhân
sự kiện này.
Vasep cũng nhanh nhạy hƣớng dẫn giúp đỡ các doanh nghiệp thành viên tìm
kiếm các thị trƣờng mới ở Nhật Bản, EU, Trung Quốc nhằm tìm đầu ra khác cho
các hộ nuôi cá. Hệ thống siêu thị Metro Cash & Carry cũng sẵn sàng đồng ý bao
tiêu khoảng 1/3 sản lƣợng cá xuất vào Mỹ trƣớc đó nêu cá đạt tiêu chuẩn chất
lƣợng. Ngoài ra Hiệp hội cũng tăng cƣờng hoạt động của Câu lạc bộ Basa Việt Nam
58
nhằm phối hợp hành động. Vụ kiện kết thúc vào tháng 6/2003 và các doanh nghiệp
Việt Nam bị áp mức thuế chống bán phá giá từ 36,84% tới 63,88%.
Mới đây nhất một số bang miền Nam Hoa Kỳ đã quyết định tạm ngừng tiêu
thụ fillet cá Basa của Việt Nam do phát hiện chất kháng sinh thuộc nhóm
fluoroquinolines trong một số mẫu cá của Việt Nam. Vasep đã đƣa ra nhiều dẫn
chứng về pháp luật trong lĩnh vực an toàn vệ sinh đã đƣợc ban hành cho thấy
tƣơng
đƣơng với quy định của Hoa Kỳ và kêu gọi các Bang miền Nam Hoa Kỳ không nên
coi một số lô hàng bị phát hiện nhiễm quinolon quy kết cho toàn bộ hàng thuỷ sản
Việt Nam vì lợi ích của các nhà kinh doanh thuỷ sản ở hai nƣớc. Hiệp hội cũng ra
thông cáo báo chí chỉ rõ các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh đƣợc các cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam hết sức chú trọng và việc quy kết này là một hành động hết
sức
phi lý và kêu gọi điều tra lại cho rõ ràng. Hành động kiên quyết này một lần nữa
chứng tỏ vai trò quan trọng của Vasep trong việc bảo vệ quyền lợi của các hội
viên.
+Về vụ kiện tôm:
Ngày 31/12/2003 Liên minh tôm miền Nam Hoa Kỳ nộp đơn kiện 6 quốc gia
xuất khẩu tôm lớn nhất vào thị trƣờng Hoa Kỳ là Thái Lan, Trung Quốc, Braxin, Ấn
Độ, Ê-cu-a-đo và Việt Nam đã bán phá giá gây thiệt hại cho ngành tôm Mỹ. Ngày
21/01/2004 ITC tổ chức phiên điều trần công khai tại Washington DC với sự tham
của cả hai bên là Liên minh tôm miền Nam nƣớc Mỹ (SSA) và Vasep và đến
17/02/2004 ITC ra quyết định sơ bộ xác định tôm nhập khẩu đe doạ gây thiệt hại
cho nền kinh tế Mỹ. DOC chọn 4 công ty là Minh Phú, Kim Anh, Camimex, Sea
Minh Hải để điều tra. Phía Việt Nam rất tích cực hợp tác với Mỹ trong quá trình
điều tra. Tuy nhiên bất chấp những số liệu mà phía Việt Nam cung cấp, ngày
2/7/2004 DOC vẫn công bố quyết định sơ bộ về cái gọi là “mức biên phá giá đối
với
tôm nhập khẩu” từ Việt Nam và Trung Quốc và buộc các doanh nghiệp Việt Nam
phải chịu mức thuế từ 12,11% đến 93,13%.
Rút kinh nghiệm ở vụ kiện cá tra, basa, hành động của Vasep lần này khẩn
trƣơng hơn và hiệu quả hơn. Khi nghe tin sắp có vụ kiện xảy ra, ngày 25/09/2003
Hiệp hội đã thành lập hẳn Uỷ ban tôm để đứng ra chuẩn bị đối phó với vụ kiện. Uỷ
59
ban đã triệu tập các doanh nghiệp thuộc diện điều tra để tập huấn về việc chuẩn
bị
hồ sơ, sổ sách kế toán, kiểm toán để đảm bảo chính xác và giúp doanh nghiệp tự
bảo vệ mình, cùng các doanh nghiệp lựa chọn các công ty tƣ vấn luật tốt đó là 4
công ty luật Hoa Kỳ. Hiệp hội cũng kêu gọi tinh thần đoàn kết của toàn bộ các
doanh nghiệp hội viên nhằm ủng hộ về mặt tài chính cho vụ kiện và liên tục tổ
chức
các buổi hội thảo nhằm thông báo tình hình vụ kiện và giúp đỡ hội viên có những
chiến lƣợc đúng đắn nhằm đối phó với vụ kiện.
Vasep cũng không ngừng đƣa ra các thông cáo báo chí kiên quyết phản đối
các cáo buộc của Mỹ và khẳng định để có mức giá đó là do Việt Nam có những lợi
thế do giá công nhân rẻ, lợi thế về mặt tự nhiên chứ không có bất cứ sự hỗ trợ
nào
từ phía chính phủ Việt Nam nhằm tranh thủ kêu gọi sự ủng hộ của các lực lƣợng
tiến bộ cả trong và ngoài nƣớc, nhờ đó đã nhận đƣợc sự ủng hộ của tổ chức Action
Aid Vietnam và Hiệp hội phân phối thuỷ sản hoa Kỳ. Ngoài ra Hiệp hội còn liên
kết
với các Hiệp hội thủy sản của 5 nƣớc còn lại để bàn biện pháp đối phó với vụ
kiện
thông qua diễn đàn của Liên đoàn nuôi thuỷ sản ASEAN ( AAF), đồng thời cũng
tiến hành hợp tác riêng rẽ với các Hiệp hội thuỷ sản trong khu vực nhƣ Hiệp hội
thực phẩm đông lạnh Thái Lan, Hiệp hội thuỷ sản Bănglađét, Hiệp hội Công nghiệp
thuỷ sản Singapore trong cuộc chiến chống lại sự bảo hộ phi lý và đi ngƣợc tinh
thần tự do thƣơng mại và cạnh tranh bình đẳng của Hoa Kỳ.
Với nỗ lực rất lớn của Uỷ ban tôm và Bộ thuỷ sản cùng sự ủng hộ của lực
lƣợng tiến bộ thế giới ngày 26/01/2005 DOC ra thông báo sửa đổi và thừa nhận có
sai sót trong quá trình tính biên độ phá giá và giảm thuế xuống còn từ 4,13% đến
25,76%, nhƣ vậy sau vụ kiện mức thuế phá giá bình quân của con tôm Việt Nam
trên thị trƣờng Mỹ là 4,57% trong khi Thái Lan phải chịu cao hơn gần 1,5%, Ấn Độ
cao hơn gần 5%, Trung Quốc cao hơn gần 50%. Tuy chƣa đạt đƣợc thành công mỹ
mãn nhƣng việc các doanh nghiệp chế biến tôm phải chịu mức thuế chống bán phá
giá thấp hơn các doanh nghiệp chế biến cá tra, basa khẳng định sự trƣởng thành
về
mọi mặt của VASEP không những trong nƣớc mà còn cả trên trƣờng quốc tế.