Luận văn thạc sĩ kinh tế: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng xuất khẩu tại Việt Nam
8,996
749
109
40
doanh nghiệp hội viên nâng cao chất lƣợng kinh doanh với tầm nhìn xa và đề cao
trách nhiệm đại diện lợi ích chính đáng của doanh nghiệp trong các quan hệ trong
nƣớc và ngoài nƣớc. Trong nƣớc một mặt chú ý phổ biến, hƣớng dẫn hội viên thực
hiện nghiêm túc pháp luật, đấu tranh với những hành vi trái pháp luật, thiếu văn
hoá
trong kinh doanh, mặt khác thƣờng xuyên tập hợp ý kiến, nguyện vọng của hội viên
để đề đạt với cơ quan Nhà nƣớc, góp phần làm cho thể chế kinh tế đƣợc đổi mới
sát
với cuộc sống và đƣợc tổ chức thực hiện nghiêm minh. Trong quan hệ quốc tế, cần
tích cực mở rộng hợp tác, tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế có liên quan,
đồng thời nêu cao vai trò của Hiệp hội trong việc bảo vệ lợi ích của doanh
nghiệp
hội viên khi gặp rào cản và tranh chấp thƣơng mại từ các nƣớc đối tác". [10]
Ý thức đƣợc điều đó hầu hết các Hiệp hội ngành hàng đều thực hiện tốt vai
trò này. Với vai trò là ngƣời đại diện cho các doanh nghiệp thành viên, các Hiệp
hội
đã có những kiến nghị của mình với Nhà nƣớc và Chính phủ trong việc đề ra các
chính sách, các cơ chế quản lý của Nhà nƣớc đối với ngành. Các Hiệp hội cũng cố
gắng tập hợp những ý kiến xây dựng, những nguyện vọng chính đáng, những vƣớng
mắc trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp phản ánh lên cơ quan quản
lý Nhà nƣớc để kịp thời bổ sung, điều chỉnh nhằm giải toả ách tắc, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các Hội cũng thƣờng
xuyên tham gia vào việc xây dựng pháp luật có liên quan đến ngành với Chính phủ
và các cơ quan liên quan thông qua các buổi toạ đàm “ Nâng cao vai trò của Hiệp
hội doanh nghiệp trong đóng góp xây dựng văn bản pháp luật và đối thoại về chính
sách” ngày 2/11/2005 hay toạ đàm giữa Hiệp hội với tổ công tác 23 của Thủ tƣớng
Chính phủ tại VCCI. Mặt khác, các Hiệp hội ngành hàng còn đứng ra phổ biến các
chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nƣớc và tổ chức hƣớng dẫn thực hiện chính
sách, các văn bản quy phạm pháp luật mới cho các doanh nghiệp hội viên.
Hiệp hội cà phê- ca cao Việt Nam đã có những hợp tác chặt chẽ với các cơ
quan chức năng nhằm thực thi vai trò đầu mối của mình trong ngành cà phê. Bên
cạnh việc tuyên truyền các chính sách của Nhà nƣớc, Hiệp hội còn phối hợp với
các
Bộ ngành khác tham gia các hoạt động phục vụ điều phối sản xuất và xuất khâủ.
41
Năm 1994-1995, khi giá cà phê lên cao, Hiệp hội đã cùng ban vật giá Chính phủ
phối hợp thực hiện chính sách phụ thu lập quỹ bình ổn giá. Vào thời kỳ
1994-1997,
ở nƣớc ta tiến hành điều hành xuất khẩu cà phê theo chế độ đầu mối, Hiệp hội đã
cùng với Bộ thƣơng mại phối hợp trong việc xem xét đầu mối xuất khẩu và tổ chức
tổng kết công tác xuất khẩu cà phê hàng năm. Từ đầu năm 1999, giá xuống liên
tục,
Hiệp hội đã phối hợp với Bộ thƣơng mại điều hành, chỉ đạo xuất khẩu. Thông qua
các hội nghị Hội đồng quản trị và hội nghị các nhà xuất khẩu cà phê lớn hàng đầu
của cả nƣớc để đƣa ra những quyết sách phù hợp. Hiệp hội còn phối hợp với Bộ
thƣơng mại đề ra Thông tƣ quy định mức chênh lệch giá xuất khẩu so với giá tại
thị
trƣờng Luân Đôn, hạn chế tình trạng bán ồ ạt, đẩy giá xuống thấp. Ngoài ra Hiệp
hội còn phối hợp với Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ thƣơng mại về kế
hoạch lƣu trữ và tiêu thụ 150.000 tấn cà phê tạm trữ, xây dựng tiêu chuẩn quốc
gia
về cà phê Việt Nam, kế hoạch phát triển ngành cà phê trong tƣơng lai đảm bảo
tính
bền vững, cân đối ở trong nƣớc và trên thế giới nhằm khắc phục những tồn tại.
Hiệp hội gỗ- lâm sản Việt Nam thƣờng tổ chức các buổi đối thoại trực tiếp
với các cơ quan chức năng của Chính phủ và các bộ ngành liên quan, tổ chức các
buổi hội thảo lấy ý kiến về sửa đổi Luật lâm nghiệp và các chính sách có liên
quan
về công nghiệp chế biến gỗ, phản ánh lên Chính phủ và các cơ quan nhà nƣớc có
liên quan về tâm tƣ nguyện vọng, những khó khăn vƣớng mắc và những kiến nghị
của doanh nghiệp để xem xét và cho hƣớng xử lý. Hiệp hội cũng đề nghị Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và đầu tƣ, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trình Thủ
tƣớng Chính phủ xem xét bổ sung nhóm dự án chế biến gỗ lâm sản xuất khẩu vào
danh mục đối tƣợng đƣợc vay vốn đầu tƣ tín dụng ƣu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển
với lãi suất 6,6%/năm theo Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 1/4/2004 của Thủ
tƣớng Chính phủ về tín dụng đầu tƣ phát triển và theo tinh thần chỉ thị số
19/2004/CT-TTg ngày 1/6/2004 của Thủ tƣớng Chính phủ về một số giải pháp phát
triển ngành chế biến gỗ và xuất khẩu sản phẩm gỗ nhằm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp đầu tƣ chiều sâu đổi mới công nghệ thiết bị.
42
Trong 8 năm hoạt động vừa qua, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam (VASEP) đã có rất nhiều công văn kiến nghị gửi Thủ tƣớng Chính phủ,
Bộ thuỷ sản, Bộ thƣơng mại, Tổng cục thuế, Tổng cục Hải quan và một số cơ quan
khác đề xuất nhiều biện pháp cụ thể nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển xuất khẩu
thuỷ sản. Những kiến nghị này tập trung vào các thủ tục hành chính, quản lý chất
lƣợng và an toàn vệ sinh, chính sách và thủ tục nộp thuế xuất nhập khẩu… Phần
lớn
các kiến nghị của Hiệp hội đã đƣợc các cơ quan chức năng tiếp thu và từng bƣớc
giải quyết, giảm khó khăn, tạo thêm thuận lợi cho các doanh nghiệp hội viên hoạt
động sản xuất kinh doanh. Năm 2003, Vasep đã ký “Thoả thuận hợp tác” với Tổng
cục hải quan tăng cƣờng mối quan hệ giữa hai bên trong việc trao đổi ý kiến xây
dựng, hoàn thiện văn bản pháp quy cũng nhƣ trong việc thực hiện các nghĩa vụ hải
quan của các doanh nghiệp ngành chế biến và xuất khẩu thuỷ sản. Với sự hỗ trợ
của
Chính phủ, Bộ thuỷ sản, chƣơng trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Cục
xúc tiến thƣơng mại thuộc Bộ thƣơng mại, Vasep đã xây dựng “ Chiến lƣợc tiếp thị
xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010”. Đây là một trong hai hợp
phần chính của dự án VIE 98/2001 “Hỗ trợ phát triển và xúc tiến thƣơng mại”.
Chiến lƣợc này giúp cho ngành thuỷ sản đánh giá đƣợc đúng tiềm năng và triển
vọng xuất khẩu của ngành và có những bƣớc đi thích hợp trong thời gian tới. Hiệp
hội còn có đề án trình Bộ thuỷ sản và Chính phủ xin phép thành lập Quỹ phát
triển
thị trƣờng để tạo nguồn vốn lâu dài và ổn định cho hoạt động xúc tiến thƣơng mại
và xuất khẩu thuỷ sản. Thủ tƣớng đã có quyết định số 61/QĐ-TTg ngày 17/1/2002
cho phép thành lập quỹ và giao cho Hiệp hội tổ chức, quản lý và sử dụng quỹ. Quỹ
đƣợc sử dụng vào mục đích hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thƣơng mại để phát triển
thị trƣờng trong nƣớc và xuất khâủ gồm: hỗ trợ giải quyết khó khăn và rủi ro khi
có
biến động đột xuất ảnh hƣởng lớn đến việc giữ vững thị trƣờng xuất khẩu, hỗ trợ
các hoạt động nghiên cứu triển khai trực tiếp phục vụ cho việc phát triển sản
xuất
các sản phẩm mới để xuất khâủ, triển khai các văn phòng đại diện ở nƣớc ngoài,
vận động và thuê luật sƣ cho các vụ kiện, xây dựng cơ sở dữ liệu nhằm cung cấp
thông tin phục vụ hoạt động xuất khẩu, các hoạt động hợp tác quốc tế trong
thƣơng
43
mại thuỷ sản…Hiệp hội cũng đã tập hợp ý kiến của các hội viên kiến nghị tới Bộ
thuỷ sản để sửa đổi một số thủ tục hành chính trong quản lý nhà nƣớc và đã đƣợc
Bộ thuỷ sản chỉ đạo các vụ, cục, trung tâm NAFIQACEN tiếp thu và giải quyết.
Trong điều kiện các doanh nghiệp đã đáp ứng điều kiện về an toàn vệ sinh theo
quy
định của Nhà nƣớc, việc bãi bỏ việc bắt buộc kiểm tra Nhà nƣớc, bỏ quy định lấy
mẫu kiểm tra từng lô hàng trƣớc khi xuất khẩu đi EU, việc thay đổi một số nội
dung
quy chế kiểm tra và công nhận điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh của cơ sở sản
xuất
là phù hợp với cách tiếp cận và xu thế của thế giới đã đƣợc các doanh nghiệp
đồng
tình hoan nghênh.
Hiệp hội điều Việt Nam cũng đề nghị với Bộ tài chính với những mặt hàng
thuế xuất khẩu bằng 0% thì thuế tạm nhập tái xuất cũng chỉ ở mức 0% nhằm giảm
bớt gánh nặng về vốn cho các doanh nghiệp chế biến điều xuất khẩu. Ngoài ra việc
các doanh nghiệp khi nhập khẩu vẫn phải tạm nộp thuế ở mức 45% và cho dù vẫn
đƣợc hoàn lại khi tái xúât nhƣng thủ tục hành chính rƣờm rà gây khó khăn cho các
doanh nghiệp nên Hiệp hội đã đề nghị Bộ xem xét giảm thuế. Hiệp hội cũng thƣờng
xuyên làm việc với các ngân hàng bàn về phƣơng án giải ngân, thu mua hạt điều
khi
các niên vụ thu hoạch sắp đến.
Đối với Hiệp hội dệt may Việt Nam vấn đề hạn ngạch và phân bổ hạn ngạch
là vấn đề luôn đƣợc quan tâm nhiều nhất. Năm 2005 bằng nỗ lực của mình Hiệp hội
đã trình Bộ thƣơng mại để trình Chính phủ đề xuất cơ chế cho phép chuyển nhƣợng
hạn ngạch, làm cho việc chuyển nhƣợng hạn ngạch đƣợc chính thức thừa nhận và
đƣợc phép thực hiện công khai. Các quy định về chuyển nhƣợng đƣợc quy định rõ
ràng trong Thông tƣ liên tịch số 06/TTLT/BTM/BCN ngày 1/4/2005. Đây là một cố
gắng không nhỏ đối với Hiệp hội dệt may trong việc làm cầu nối giữa doanh nghiệp
và cơ quan quản lý Nhà nƣớc. Chính cơ chế này đã góp phần làm giảm rất nhiều
tiêu cực, tạo môi trƣờng thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp dệt may nói chung
và các thành viên của Hiệp hội nói riêng. Các doanh nghiệp thành viên có thể tận
dụng tối đa các loại hạn ngạch, xử lý phần thừa, thiếu của từng doanh nghiệp
thành
viên trong việc sử dụng hạn ngạch do cơ chế phân bổ hạn ngạch theo thành tích.
44
Hơn thế nữa Bộ thƣơng mại cũng đã ban hành quyết định cho phép Hiệp hội dệt
may Việt Nam trở thành thành viên thứ tƣ của Ban xây dựng cơ chế điều hành, quản
lý việc xuất khẩu hàng dệt may. Đồng thời Hiệp hội cũng tƣ vấn đề xuất một số
kiến nghị nhằm hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế này với các cơ quan quản lý, chịu
trách nhiệm giúp cho cơ chế này thực hiện đúng theo ý nghĩa của nó, tránh hiện
tƣợng thƣơng nhân tổ chức mua bán lòng vòng hạn ngạch, làm tăng chi phí giao
dịch cho doanh nghiệp gây thiệt hại cho hoạt động xuất khẩu nói chung.
Trƣớc tình hình các nƣớc xuất khẩu dệt may khác không phải chịu hạn ngạch
dệt may nên có tính cạnh tranh hơn hàng Việt Nam, trong khi đó mức thu phí hạn
ngạch xuất khẩu dệt may lại khá cao, Hiệp hội cũng đã kiến nghị tới bộ Bộ công
nghiệp và Bộ thƣơng mại đề nghị giảm mức phí hạn ngạch xuống thấp hơn 60-70%
so với mức thu hiện nay. Hiệp hội cũng lấy ý kiến của các doanh nghiệp tại cuộc
họp Ban chấp hành đệ trình lên Chính phủ bản dự thảo với những kiến nghị nhƣ: đề
nghị Chính phủ hỗ trợ thực hiện các chƣơng trình thuỷ lợi ở một số vùng trọng
điểm
trồng bông, khấu trừ thuế VAT đầu vào cho việc chế biến bông và cho phép sử
dụng quỹ phát triển cây bông để trợ giá thu mua bông của nông dân tới mức 500
đồng/kg bông hạt, Chính phủ cũng nên áp dụng thuế VAT bằng 0% cho vải sản xuất
trong nƣớc hoặc cung cấp cho may xuất khẩu, hoãn nộp thuế VAT vật tƣ nhập khẩu
tại cửa khẩu, giảm thuế VAT ngành vải sợi xuống còn 5%, tiếp tục triển khai,
thực
hiện các cơ chế chính sách để tăng tốc độ phát triển ngành dệt may theo Quyết
định
55/CP ngày 23/04/2001, thực hiện tốt Thông tƣ 86/BTC ngày 27/9/2002 và Quy
định 0104/2003/QĐ-BTM ngày 24/4/2002 để hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu ngành hàng,
kiện toàn hành lang pháp lý đối với hoạt động của các tổ chức ngành nghề, đƣợc
quyền tổ chức bộ máy và hoạt động đúng với nhiệm vụ và quyền hạn ghi trong điều
lệ thành lập, Chính phủ cần tích cực đàm phán với phía Mỹ và các nƣớc EU nhằm
gia tăng hạn ngạch và giảm thuế nhập khẩu hàng dệt may nhƣ các nƣớc khác. Hiệp
hội cũng kiến nghị Chính phủ: Chỉ đạo các ngành hữu quan nhƣ: Bƣu chính viễn
thông, vận tải hàng không, tàu biển, điện nƣớc… giảm giá những dịch vụ để tạo
45
điều kiện cho doanh nghiệp giảm giá đầu vào, đơn giản hơn nữa thủ tục hành chính
về xuất nhập khẩu và thuế, rút ngắn thời gian và thủ tục hoàn thuế.
Trong năm 2006, trƣớc tình hình giá lúa hàng hoá đang giảm mạnh do các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo không đủ vốn thu mua, Hiệp hội lƣơng thực Việt Nam
đã họp với Ngân hàng Nhà nƣớc và các ngân hàng thƣơng mại tại thành phố Hồ Chí
Minh để tìm biện pháp khai thông. Hiệp hội đề nghị Chính phủ chỉ đạo cục dự trữ
quốc gia mở kho mua trong tháng 3 vì lúa đông xuân chất lƣợng tốt. Đề nghị Bộ
thƣơng mại và Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cho mua ngay 100.000 tấn
gạo dự trữ lƣu thông và đề phòng thiên tai. Hiệp hội cũng đề nghị các ngân hàng
xem xét cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo vay để mua 20.000- 30.000 tấn/doanh
nghiệp cùng với 2 tổng công ty mua 350.000-400.000 tấn gạo, đề nghị các ngân
hàng nên xem xét để các doanh nghiệp đƣợc vay vốn bằng hàng hoá thế chấp tại
kho của mình. Hiệp hội lƣơng thực Việt Nam cũng đề nghị với Quỹ hỗ trợ phát
triển quốc gia cho doanh nghiệp vay tiền mua 150.000 tấn gạo không cần thế chấp
nhằm giảm sức ép về tiêu thụ lúa đang thu hoạch rộ tại đồng bằng Sông Cửu Long.
Nguồn tín dụng này giúp các doanh nghiệp giải toả đƣợc áp lực thiếu vốn và giá
lúa
hàng hoá sẽ tăng lại trong những ngày sắp tới. Ngoài ra Hiệp hội còn đề nghị Bộ
thƣơng mại nêu vấn đề phối hợp với Thái Lan để giao dịch bán gạo cho thị trƣờng
Iran. Các doanh nghiệp phải thống nhất giá chào tối thiểu và nếu vi phạm thì
Hiệp
hội sẽ có chế tài xử lý.
Hiệp hội chè Việt Nam cũng thƣờng xuyên tƣ vấn cho Chính phủ và các cơ
quan chức năng và đã nhận đƣợc nhiều hỗ trợ dành cho ngành chè nhƣ quyết định
43/1999/QĐ-TTg về phê duyệt kế hoạch sản xuất chè năm 1999-2000 và phƣơng
hƣớng phát triển đến năm 2005-2010, quyết định này đã tạo hành lang pháp lý
chính thức cho ngành chè phát triển có cân nhắc và định hƣớng rõ ràng. Quyết
định
số 110/2002/QĐ-TTg về việc lập, sử dụng và quản lý quỹ bảo hiểm ngành hàng.
Theo quyết định này Hiệp hội đã tiến hành thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu chè
với nguồn vốn do các hội viên Hiệp hội và sự hỗ trợ trƣớc của Chính phủ. Quỹ này
đƣợc sử dụng vào mục đích: Hỗ trợ tài chính đối với các hội viên đã đóng bảo
hiểm
46
xuất khẩu tạm thời bị lỗ, hỗ trợ một phần lãi suất vay vốn để tạm trữ cho xuất
khẩu,
hỗ trợ một phần chi phí cho Hiệp hội cho các hoạt động mở rộng thị trƣờng, xúc
tiến thƣơng mại. Nhƣ vậy nhờ có quỹ này đã phần nào giảm bớt rủi ro xuất khẩu
cho các doanh nghiệp.
Hiệp hội da giầy Việt Nam cũng thƣờng xuyên đề xuất ý kiến lên Chính
phủ. Trong hội nghị tiếp xúc giữa Thủ tƣớng Chính phủ và các doanh nghiệp năm
2004, Hiệp hội đã thẳng thắn nêu ra những bất cập: việc áp thuế xuất khẩu đối
với
nhóm nguyên liệu mua trong nƣớc để làm phom phục vụ sản xuất giầy dép tại Việt
Nam là không hợp lý ví dụ nhƣ các doanh nghiệp gia công giầy dép khi xuất khẩu
bị tính thuế 45% đối với nhôm mua ở thị trƣờng trong nƣớc nhƣng thực tế nhôm chỉ
sử dụng để làm phom giầy không cấu thành trong sản phẩm, sau khi sử dụng xong
vẫn giữ lại nhà máy để tái sử dụng hoặc bán phế liệu. Vậy nên Hiệp hội đề nghị
Chính phủ xem xét chỉ tính thuế xuất khẩu nhôm nguyên liệu khi phom thực sự
đƣợc xuất khẩu ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam thƣờng xuyên thiết lập và duy trì
các mối quan hệ với các cơ quan hữu quan của Chính phủ trong khuôn khổ thông
tin và hợp tác vì lợi ích của ngành nhƣ tƣ vấn cho Chính phủ trong việc hình
thành
các chính sách có ảnh hƣởng tới ngành công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin
và
viễn thông, cập nhật các quan điểm của ngành cho các cơ quan Nhà nƣớc và thông
tin kịp thời cho các hội viên về chính sách của Chính phủ. Hiệp hội doanh nghiệp
điện tử Việt Nam cũng kiến nghị giảm thuế nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong
ngành nhƣ giảm thuế giá trị gia tăng hàng điện tử sản xuất trong nƣớc xuống còn
5% và giữ nguyên thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu là 10%, đề nghị
giảm
thuế linh kiện nhập từ ASEAN có C/O form D là 0%, thuế MFN đèn hình trong
nƣớc chƣa sản xuất đƣợc là 5%, các loại màn hình dẹt LCD, Plasma bao gồm có
chức năng TV và monitor có thuế nhập khẩu 0%...
Gần đây nhiều Hiệp hội cũng đã có chƣơng trình hợp tác với các Ngân hàng
thƣơng mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là
các
47
doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh tế gia đình tiếp cận đƣợc tốt hơn với các
nguồn vốn chính thức.
Những ý kiến đóng góp trên của các Hiệp hội là rất thực tế và tích cực, nói
lên tâm tƣ nguyện vọng của doanh nghiệp hội viên trong ngành và đã phần nào giúp
Chính phủ và các cơ quan chức năng hiểu rõ và xây dựng các chính sách cho phù
hợp hơn với từng ngành đặc biệt là vấn đề về thuế, góp phần giảI quyết các khó
khăn trong doanh nghiệp ở tầm vĩ mô.
2.2.2
Hoạt động hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Con ngƣời là trung tâm của mọi sự phát triển do đó vai trò hỗ trợ đào tạo
nguồn nhân lực luôn đƣợc các hội viên kỳ vọng nhiều nhất ở Hiệp hội. Các Hiệp
hội ngành hàng thƣờng tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn về quản lý, nâng cao
trình độ kỹ thuật, phổ biến các kiến thức mới nhất với sự tham gia giảng dạy của
các chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nƣớc. Các Hiệp hội cũng thƣờng xuyên
phối hợp với Phòng thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức các buổi
hội thảo, toạ đàm về các chủ đề có liên quan.
Về phƣơng thức đào tạo, các Hiệp hội cũng đa dạng hoá các loại hình đào
tạo, bồi dƣỡng nhằm nâng cao trình độ cán bộ khoa học kỹ thuật và nghiên cứu
khoa học hiện có. Các phƣơng thức đào tạo thƣờng đƣợc áp dụng bao gồm: Đào tạo
tại chỗ, cử đi đào tạo ở các trƣờng chuyên ngành, mở các khoá huấn luyện ngắn
hạn, cử các cán bộ thực sự có năng lực đi nghiên cứu sinh ở nƣớc ngoài…
Hiệp hội dệt may Việt Nam đã phối hợp với Sở thƣơng mại Hà Nội mở lớp
đào tạo thời trang do các chuyên gia Pháp giảng dạy. Hội còn tranh thủ sự hỗ trợ
quốc tế nhƣ Ấn Độ, Đan Mạch, Pháp, Nhật cử một số cán bộ đi học về quản lý, kỹ
thuật tại nƣớc ngoài thông qua các chƣơng trình hỗ trợ kỹ thuật. Năm 2004, phối
hợp với Đại sứ quán Ấn Độ 5 cán bộ của Hiệp hội đã đƣợc cử đi học. Ngoài ra Hiệp
hội cũng mời các chuyên gia nƣớc ngoài giảng dạy các kỹ năng về quản lý, kỹ
thuật, chuyên môn nhƣ Hiệp hội đã phối hợp với Hiệp hội các nhà nhập khẩu dệt
may Thuỵ Sỹ tổ chức huấn luyện về sản xuất tại Hà Nội và Hồ Chí Minh năm 2002.
Hiệp hội còn đẩy mạnh hoạt động của các trung tâm đào tạo là thành viên của Hiệp
48
hội liên tục tổ chức các chƣơng trình đào tạo cho công nhân và các nhà quản lý
nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của các hội viên. Đặc biệt dự án xây dựng Trƣờng
đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may đang đƣợc gấp rút triển khai để tăng
cƣờng nguồn cung ứng nhân lực có tay nghề cao, các cán bộ kỹ thuật, quản lý cho
các doanh nghiệp.
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cũng rất chú trọng công
tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ quản lý doanh nghiệp. Năm 1999 Hiệp hội bắt đầu
mở 4 lớp bồi dƣỡng chuyên đề nâng cao năng lực tiếp thị và phục vụ khách hàng
cho cán bộ quản lý. Từ năm 2000, các hoạt động đào tạo gia tăng cả về số lƣợng
và
chất lƣợng, cùng với các tổ chức quốc tế nhƣ US FDA, Eurocham, SIPPO,
NAFIQACEN, MPDF… tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn và các khoá tập huấn
cho các nhà quản lý về quản trị doanh nghiệp, về nuôi trồng thuỷ sản với kỹ
thuật
tiên tiến nhƣ nuôi trồng thuỷ sản sinh thái, quản lý môi trƣờng và công nghệ sản
xuất sạch hơn, nghiệp vụ marketing tại hội chợ thuỷ sản quốc tế, phối hợp với
SIRED tổ chức các hội thảo, tập huấn về cổ phần hoá, mua bán khoán cho thuê
doanh nghiệp Nhà nƣớc, đổi mới tổ chức và quản lý các Tổng công ty thuỷ sản năm
2003. Ngày 1/7/2004 phòng đào tạo và phát triển công nghệ trực thuộc Hiệp hội
đƣợc thành lập nhằm phổ biến các kiến thức cơ bản về các tiêu chuẩn chất lƣợng
nhƣ HACCP, kỹ năng marketing quốc tế, kỹ năng nuôi thuỷ sản sinh thái đã đánh
dấu bƣớc chuẩn bị kỹ lƣỡng của Hiệp hội về mặt con ngƣời cho các doanh nghiệp
hội viên. Hiệp hội còn tổ chức các khoá tập huấn “ HACCP cơ bản dành cho cán bộ
đảm bảo và kiểm soát chất lƣợng” đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản
sang Nhật Bản cũng nhƣ tổ chức một đoàn hƣớng dẫn về việc thực hiện nội bộ về
tiêu chuẩn HACCP cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của miền Trung. Chƣơng
trình Đào tạo từ xa cũng đang đƣợc Hiệp hội triển khai nhằm giảm chi phí đào
tạo.
Với đặc trƣng riêng của ngành, Trung tâm đào tạo của Hiệp hội chè cũng
thƣờng xuyên tổ chức các lớp học ngắn ngày để hƣớng dẫn đồng thời giới thiệu
công nghệ mới, phƣơng pháp sản xuất mới cho các hội viên. Hiệp hội còn phối hợp
với trƣờng Đại học Bách Khoa mở các lớp đại học tại chức về công nghệ chè với
49
học viên là các hội viên. Hiệp hội phối hợp với VCCI tổ chức các khoá bồi dƣỡng
ngắn hạn về nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu cho các cán bộ hội viên. Ngoài
ra
do chất lƣợng chè bị ảnh hƣởng ngay từ quá trình trồng trọt, thu hái nên bên
cạnh
việc đào tạo các cán bộ, Hội còn tổ chức tập huấn cho nông dân các kỹ thuật thâm
canh, canh tác chè ở Thái Nguyên, Phú Thọ nhằm nâng cao chất lƣợng chè.
Hiệp hội da giầy Việt Nam cùng với viện nghiên cứu da giầy và Hiệp hội các
nhà thuộc da UNIC (ITALY) đã tổ chức hai khoá đào tạo thiết kế giầy, ngày hội
thảo với chủ đề liên quan đến ngành da giầy trong khuôn khổ dự án hỗ trợ kỹ
thuật
do Cộng đồng châu Âu tài trợ năm 2000-2002, phối hợp với Hiệp hội các nhà sản
xuất thiết bị ngành da giầy Ý- ASSOMAC tổ chức lớp thiết kế vào tháng 6 và 7
năm 2004. Hiệp hội còn tổ chức tại làng nghề giầy Phú Yên khoá tập huấn “Nâng
cao nhận thức về an toàn vệ sinh lao động và kỹ thuật sản xuất giầy”, đào tạo về
kỹ
năng khai thác Internet và cách thức xây dựng sàn giao dịch chứng khoán ảo trên
mạng VNE-Mart tại Hà Nội và Hồ Chí Minh. Ngoài ra Hiệp hội còn phối hợp với
VCCI tổ chức các khoá đào tạo và hội thảo giới thiệu cổng giao dịch thƣơng mại
điện tử nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao kỹ năng xuất nhập khẩu da giầy và
các biện pháp phòng tránh các hàng rào bảo hộ tại các nƣớc phát triển.
Hiệp hội Cà phê- Cacao cũng đẩy mạnh các hoạt động, xúc tiến xây dựng
các chƣơng trình, dự án cải tiến, nâng cao chất lƣợng cà phê, nâng cao trình độ
cho
cán bộ trong ngành. Hiệp hội cũng tổ chức các lớp bồi dƣỡng về thị trƣờng kỳ hạn
cà phê với sự trợ giúp của sở giao dịch SICOM Singapore.
2.2.3 Hoạt động cung cấp thông tin, tƣ vấn và hỗ trợ về khoa học công nghệ
Công tác thông tin là một mảng hoạt động lớn luôn đƣợc các Hiệp hội quan
tâm kể từ những ngày đầu thành lập. Những thông tin mà các Hiệp hội cung cấp
thƣờng xuyên và cập nhật cho các hội viên là các thông tin về chủ trƣơng chính
sách của Đảng, các chính sách pháp luật có liên quan đến hoạt động ngành, các
thông tin về tình hình giá cả, thị trƣờng xuất khẩu thiết bị công nghệ mới…thực
sự
là những nguồn thông tin hữu ích cho các doanh nghiệp trong việc nắm bắt và theo