Luận văn thạc sĩ kinh tế: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng xuất khẩu tại Việt Nam
8,995
749
109
10
nghiệp hội viên. Là môi trƣờng thuận lợi để đào tạo, bồi dƣỡng kiến thức tiếp
cận
thị trƣờng, thoả thuận về giá, sản lƣợng, chiến tranh thƣơng mại…[11]
- Khi tham gia vào thƣơng trƣờng quốc tế nếu doanh nghiệp đứng đơn lẻ thì
sẽ gặp khó khăn trong việc thuyết phục khách hàng, gây ảnh hƣởng tốt và lòng tin
cho khách hàng. Các Hiệp hội chính là nơi các doanh nghiệp tập hợp lực lƣợng,
đoàn kết lại, hình thành sức mạnh tổng hợp để thâm nhập và giành nhiều thị phần
trên thị trƣờng quốc tế.
Trƣớc xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế nhƣ hiện nay thì chỉ
riêng có sự quản lý và điều hành của Chính phủ đối với nền kinh tế của mỗi quốc
gia là không đủ, nhiều lúc bất cập.Việc thực hiện các liên kết “mềm” theo chiều
ngang giữa các doanh nghiệp nhằm tìm hiểu và điều phối các vấn đề có liên quan
đến cung cấp nguyên liệu, công nghệ và đẩy mạnh xuất khẩu dƣới hình thức các
Hiệp hội ngành hàng đã và đang trở thành một hình thức liên kết hiệu quả và là
mô
hình phổ biến cho xu hƣớng liên kết trong nền kinh tế thị trƣờng hiện đại.
1.1.2 Vai trò của Hiệp hội ngành hàng trong việc thúc đẩy xuất khẩu
Hiệp hội ngành hàng là một tổ chức kinh tế dân sự. Hiệp hội ngành hàng góp
phần thúc đẩy kinh tế thị trƣờng phát triển lành mạnh thông qua việc nâng cao
sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp thành viên, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá, giải
quyết các tranh chấp hoặc chống lại các hành vi độc quyền, lũng đoạn. Chỉ có sự
liên kết để yểm trợ lẫn nhau trong các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp
mới đủ sức vƣơn lên mở rộng và trấn giữ thị trƣờng, và đó là quan hệ “đồng
minh” để đối phó với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trƣờng.
Nhận thức đƣợc vai trò và các tác dụng quan trọng đó, ngay từ Nghị quyết
Trung ƣơng 4 (khoá VII) Đảng ta đã đƣa ra tƣ tƣởng chủ đạo: “Phát triển các hình
thức hợp tác giữa các doanh nghiệp Nhà nƣớc với các Hợp tác xã, xây dựng các
Hiệp hội ngành nghề theo cơ chế dân chủ, tự quản”. Hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới, Nhà nƣớc buộc phải giảm dần các can thiệp trực tiếp vào tất cả
các
hoạt động kinh tế (chỉ còn can thiệp gián tiếp), nhiệm vụ sẽ đặt lên vai các tổ
chức
11
Hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề. Tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề
mà không lĩnh hội đƣợc vai trò, trách nhiệm can thiệp trực tiếp thì chắc chắn
hoạt
động của các doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Sau đây là một số vai trò chủ đạo của Hiệp hội ngành hàng trong việc thúc
đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp hội viên ở Việt Nam
1.1.2.1 Làm cầu nối giữa các Cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức kinh tế
khác với các doanh nghiệp thành viên
Với vai trò cầu nối quan trọng giữa Nhà nƣớc và doanh nghiệp, các Hiệp hội
tuyên truyền, phổ biến các đƣờng lối, chính sách của Nhà nƣớc đến các doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp hiểu đúng và tuân thủ pháp luật của Nhà nƣớc. Hiệp hội
chính là cơ quan tƣ vấn, phản biện trong xây dựng các chiến lƣợc phát triển cho
nền
kinh tế trên cơ sở chiến lƣợc phát triển ngành hàng, mặt hàng và sản phẩm, góp
phần tích cực vào việc hình thành các văn bản pháp luật, tạo thuận lợi nhiều hơn
cho doanh nghiệp nhƣ Luật đầu tƣ trong nƣớc, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật
doanh
nghiệp, Bộ luật lao động, Nghị định 90 về doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Vai trò đại diện cho các doanh nghiệp còn đƣợc các Hiệp hội ngành hàng
thực hiện thông qua việc cùng với các cơ quan chính quyền tổ chức các cuộc đối
thoại giữa doanh nghiệp và chính quyền nhằm tháo gỡ những vƣớng mắc và tạo
thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp. Nhƣ ở Việt Nam, trên Trung ƣơng,
hàng năm Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam đã phối hợp với Văn
phòng Chính phủ tổ chức cuộc gặp của Thủ tƣớng với doanh nghiệp. Ở địa phƣơng,
lãnh đạo của nhiều tỉnh cũng thƣờng xuyên phối hợp với chi nhánh Phòng Thƣơng
mại và Công nghiệp Việt Nam và các Hiệp hội ngành hàng tổ chức các cuộc đối
thoại với doanh nghiệp. Các cơ chế tham khảo ý kiến của các doanh nghiệp thông
qua phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam và các Hiệp hội doanh nghiệp
ngày càng đƣợc mở rộng. Các kiến nghị và tác động của các Hiệp hội ngành hàng
cũng đã tích cực thúc đẩy quá trình đổi mới thủ tục hành chính của các cơ quan
quản lý Nhà nƣớc, dễ nhận thấy nhất đó là việc đổi mới trong khâu đăng kí thành
12
lập doanh nghiệp, thủ tục hải quan, thuế nhằm giải quyết những vƣớng mắc liên
quan đến việc thanh tra kiểm tra chồng chéo hay việc hình sự hoá các quan hệ
kinh
tế dân sự…Đây là cách làm việc dân chủ và thiết thực, hợp tác, góp phần thu hẹp
khoảng cách giữa chính quyền và doanh nghiệp, tạo lập sự đồng thuận vì mục tiêu
phát triển kinh tế đất nƣớc. Cùng với Diễn đàn kinh tế tƣ nhân và Hội nghị tƣ
vấn
các nhà tài trợ cho Việt Nam, vừa qua các diễn đàn khác cũng đã góp sức hình
thành các định hƣớng và giải pháp đổi mới kinh tế ở nƣớc ta. Kinh nghiệm từ các
nƣớc chịu tác động của cuộc khủng hoảng châu Á cho thấy để nhanh chóng vƣợt
qua khủng hoảng, thì yếu tố tạo sự thống nhất cao trong xã hội, hạn chế sự lo
lắng
trong dân chúng, huy động đƣợc sự đóng góp và đồng cam cộng khổ của từng
ngƣời dân và chính quyền để vƣợt qua khủng hoảng có ý nghĩa quan trọng không
kém các biện pháp kinh tế vĩ mô. Chính một cơ chế hợp tác, sự đồng thuận của xã
hội đối với những tình huống nhất định không chỉ làm giảm biên độ và cƣờng độ
tác
động tiêu cực khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng mà còn là giải pháp thu hút
các
nguồn lực thoát khỏi khủng hoảng và phát triển.
Gần đây nhiều Hiệp hội cũng đã có chƣơng trình hợp tác với các Ngân hàng
thƣơng mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là
các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh tế gia đình tiếp cận đƣợc tốt hơn với các
nguồn vốn chính thức.
Trƣớc yêu cầu của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đòi hỏi các
Chính phủ phải có sự thay đổi hoàn thiện đáng kể về cơ chế chính sách pháp luật
theo các cam kết song phƣơng và đa phƣơng. Đặc biệt đối với những nƣớc tham gia
tiến hành hội nhập đồng thời với việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá
tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trƣờng nhƣ nƣớc ta, việc hoàn thiện, bổ sung hệ
thống
chính sách pháp luật để phù hợp với những yêu cầu hội nhập là một vấn đề không
dễ dàng. Với vai trò đại diện của mình, Hiệp hội ngành hàng tiến hành điều tra,
tổng
hợp và phân tích tình hình kinh tế, các tác động chính sách và môi trƣờng kinh
doanh đối với sự phát triển của nền kinh tế và doanh nghiệp, xây dựng báo cáo
13
doanh nghiệp, thông qua các hoạt động xúc tiến thƣơng mại và đầu tƣ hỗ trợ các
doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng- đối tác, mở rộng thị trƣờng xuất khẩu, các Hiệp
hội tiến hành điều tra khảo sát xác định lợi thế cạnh tranh của hàng Việt Nam so
với
một số hàng hoá tƣơng ứng của các nƣớc khác, qua đó làm cơ sở khoa học cho các
kiến nghị của Hiệp hội với Chính phủ nhằm tƣ vấn cho Chính phủ trong quá
trình đàm phán hội nhập và đề xuất với Chính phủ về mức độ và lộ trình mở cửa
thích hợp để Chính phủ có căn cứ và quyết định phƣơng án đàm phán nhằm đƣa
lại hiệu quả cao nhất.
1.1.2.2 Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Các Hiệp hội ngành hàng thƣờng chủ động hợp tác với nhiều tổ chức đào tạo
có uy tín trong và ngoài nƣớc để thực hiện các khoá đào tạo nhân lực cho bộ máy
lãnh đạo Hiệp hội cũng nhƣ các doanh nghiệp thành viên.
Về nội dung đào tạo ngoài việc tập trung đào tạo cho doanh nghiệp về kỹ
năng quản trị, quản lý kinh doanh, phát triển thị trƣờng, cổ phần hoá, tiếp cận
thị
trƣờng chứng khoán, nhiều Hiệp hội còn tổ chức tuyên truyền phổ biến các chủ
trƣơng chính sách của Nhà nƣớc liên quan tới ngành, tìm hiểu về lộ trình hội
nhập,
nâng cao kỹ năng xuất nhập khẩu, tìm hiểu thủ tục hải quan, các rào cản pháp
luật
trong thƣơng mại quốc tế…
Về chƣơng trình đào tạo, căn cứ vào đối tƣợng học viên Hiệp hội có những
chƣơng trình đào tạo cho phù hợp nhƣ chƣơng trình chuyên sâu, chƣơng trình nâng
cao, chƣơng trình đào tạo từ xa, chƣơng trình cơ bản nhằm trang bị cho hội viên
những cái mà họ thiếu chứ không phải những cái mà lãnh đạo Hiệp hội có.
1.1.2.3 Cung cấp thông tin và tư vấn, hỗ trợ về khoa học công nghệ
Vai trò của các Hiệp hội ngành hàng còn đƣợc thể hiện rõ nét trong việc
cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp. Trong thời đại bùng nổ thông tin nhƣ
hiện
nay, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các hội viên đòi hỏi sự hoạt động năng
động của bộ máy lãnh đạo Hiệp hội. Do nhiều hạn chế nên các doanh nghiệp không
thể tự mình thu thập, xử lý các nguồn thông tin trong nƣớc và đặc biệt là nƣớc
ngoài. Các nguồn thông tin trong nƣớc thƣờng đƣợc hình thành từ việc tổng hợp
các
14
báo cáo của các hội viên, các tin tức, bài viết từ các báo, tạp chí, công trình
nghiên
cứu trong nƣớc, các thông tin từ các Bộ, ngành liên quan, từ các dự án nghiên
cứu
của các cơ sở nghiên cứu, từ các hãng thông tấn, báo chí các cơ quan đại diện
thƣơng mại, đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nƣớc ngoài, các tổ chức Quốc tế
nhƣ Hiệp hội cà phê- Ca cao Việt Nam có liên hệ với Tổ chức Cà phê quốc tế (
ICO) để thu thập thông tin về ngành hàng này.
Về nội dung thông tin, do đối tƣợng phục vụ là các doanh nghiệp hội viên,
chuyên sản xuất, chế biến và xuất khẩu một số mặt hàng nhất định nên Hiệp hội có
thể tập trung hình thành những nội dung thông tin có chất lƣợng cao. Thông
thƣờng
các thông tin của các Hiệp hội thƣờng có các nội dung cơ bản nhƣ tình hình thị
trƣờng, giá cả của ngành hàng trong nƣớc và quốc tế, những vấn đề liên quan đến
thâm nhập và phát triển thị trƣờng nƣớc ngoài nhƣ các quy định về tiêu chuẩn đối
với hàng hoá nhập khẩu, các quy định pháp luật liên quan đến các mặt hàng mà các
doanh nghiệp của Hiệp hội kinh doanh, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc sản
xuất,
xuất khẩu, tìm kiếm bạn hàng, tranh thủ các điều kiện thuận lợi để thâm nhập và
chiếm giữ các thị trƣờng có mức tiêu thụ lớn.
Về phƣơng thức cung cấp thông tin, một trong những phƣơng thức phổ biến
là phát hành các ấn phẩm định kì nhằm cung cấp các số liệu về tiêu dùng và xuất
khẩu, nhập khẩu của một hoặc một số mặt hàng nào đó trên thế giới. Hình thành
các
website của Hiệp hội, ngoài các thông tin chung, website của Hiệp hội còn có một
phần dành cho các hội viên. Bằng việc sử dụng mật mã riêng, hội viên có thể vào
trang “Hội viên” để tìm kiếm những thông tin cần thiết có liên quan đến hoạt
động
của doanh nghiệp mình mà những thông tin này không đƣợc phổ biến ở phần thông
tin chung. Phục vụ thông tin bằng hình thức hỏi- đáp, trong phạm vi quyền hạn
của
mình, cán bộ thông tin của Hiệp hội có thể trả lời trực tiếp cho khách hàng,
hoặc
chuyển cho Chủ tịch Hiệp hội trả lời hoặc hƣớng dẫn khách hàng các địa chỉ cần
thiết mà ở đó có khả năng đáp ứng yêu cầu của họ.
Cùng với việc hỗ trợ về thông tin, khi là thành viên của Hiệp hội, các doanh
nghiệp sẽ đƣợc tƣ vấn về công nghệ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình
15
nhƣ áp dụng các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, các quy trình quản lý mới vào
sản
xuất nhƣ hệ thống quản lý chất lƣợng theo bộ tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000…để
nâng cao chất lƣợng sản phẩm, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, tăng năng suất
lao
động, hạ giá thành…
1.1.2.4 Hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thương mại
Ngoài vai trò điều hoà lợi ích trong nội bộ, hoà giải các bất đồng, bảo vệ lợi
ích chính đáng của các thành viên, hạn chế cạnh tranh lẫn nhau một cách thiếu
lành
mạnh, một vai trò hết sức quan trọng của các Hiệp hội đối với doanh nghiệp là
các
Hiệp hội chính là chỗ dựa trong giải quyết các tranh chấp quốc tế. Chúng ta có
thể
thấy rõ điều này qua các vụ kiện cá tra, cá basa, vụ kiện bật lửa ga, giầy và đế
giày
không thấm nƣớc và vụ kiện tôm. Với vai trò là ngƣời bảo vệ lợi ích cho doanh
nghiệp trong nƣớc trƣớc các rủi ro kinh doanh trên thị trƣờng thế giới, Hiệp hội
phải
cùng với Nhà nƣớc đề ra các biện pháp bảo hộ thích hợp. Cùng với quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, các nƣớc thƣờng sử dụng các công cụ bảo hộ nhằm bảo vệ các
doanh nghiệp trong nƣớc của mình. Hiện nay có nhiều công cụ kỹ thuật đƣợc sử
dụng để bảo hộ các doanh nghiệp yếu kém, một trong những công cụ nhƣ vậy là
thuế chống bán phá giá. Theo nhƣ các quy định của WTO bất kỳ hàng hoá nào đƣợc
bán phá giá với biên độ phá giá lớn hơn hoặc bằng 2% giá xuất khẩu và khối lƣợng
hàng nhập khẩu từ mỗi nƣớc lớn hơn hoặc bằng 3% đều có thể bị xem xét điều tra
xem có bán phá giá hay không? Vì vậy, nếu các doanh nghiệp ồ ạt bán hàng hoá của
mình vào một thị trƣờng nào đó rất có thể sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá.
Muốn
bảo vệ lợi ích chung cho toàn bộ ngành hàng thì doanh nghiệp phải thông qua Hiệp
hội để phối hợp hành động, điều hoà sản xuất nhằm hạn chế xuất khẩu quá mức vào
các thị trƣờng, tránh bị đánh thuế chống bán phá giá vào nƣớc nhập khẩu. Đây là
một trong những biện pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp chủ động đối phó với
các chính sách bảo hộ của các nƣớc nhập khẩu.
Ở hầu hết các nƣớc, việc khởi kiện và kháng kiện đều do các Hiệp hội ngành
hàng chủ động phát động chứ không phải do các cơ quan quản lý Nhà nƣớc. Vấn đề
khởi kiện và kháng kiện trong các vụ tranh chấp thƣơng mại quốc tế không phải là
16
vấn đề phán xử ai thắng ai thua mà là để đòi hỏi các quyền đối xử bình đẳng theo
nguyên tắc không phân biệt đối xử. Lâu nay, các Hiệp hội ngành hàng của chúng ta
mới chỉ tập trung vào việc đi hầu kiện mà chƣa chủ động trong việc khởi kiện và
kháng kiện. Vì vậy, trong thời gia tới các Hiệp hội ngành hàng tuỳ theo điều
kiện
của mình mà cần thiết thì sẵn sàng khởi kiện và kháng kiện.
1.1.2.5 Xúc tiến xuất khẩu
Việc xúc tiến xuất khẩu của Hiệp hội thông qua các hoạt động nhằm tìm hiểu và
khai thác các thị trƣờng tiềm năng, hỗ trợ nâng cao năng lực xuất khẩu cho các
doanh
nghiệp hội viên và xây dựng quảng bá thƣơng hiệu cho ngành.
Hiệp hội thƣờng phối hợp với các cơ quan xúc tiến thƣơng mại của Chính phủ
tham gia vào các phái đoàn chuyên trách của Chính phủ gặp gỡ, tìm hiểu cơ hội
làm ăn
và đầu tƣ ở thị trƣờng nƣớc ngoài, tổ chức tham gia các chƣơng trình hội chợ
triển lãm,
cử các đoàn đi khảo sát thị trƣờng nƣớc ngoài nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tƣ, tham
gia
các cuộc hội thảo, hội nghị về xúc tiến thƣơng mại…. Ở Việt Nam, hoạt động xúc
tiến
thƣơng mại phục vụ cho xuất nhập khẩu đƣợc phối hợp với các tổ chức : Phòng
Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức xúc tiến thƣơng mại thuộc Bộ,
ngành, thƣơng vụ của sứ quán Việt Nam ở nƣớc ngoài, phòng xúc tiến thƣơng mại
của
các Tổng công ty…
Bên cạnh đó các Hiệp hội ngành hàng còn là ngƣời đóng vai trò trung gian
giúp các doanh nghiệp trong Hiệp hội phát triển xuất khẩu một cách có hiệu quả,
chống các hành vi gian lận, cửa quyền, tranh mua tranh bán trong kinh doanh xuất
khẩu. Thực tế cho thấy rất nhiều hàng hoá của Việt Nam chất lƣợng không thua
kém gì hàng hoá của nƣớc ngoài nhƣng thƣờng có giá thấp hơn nhiều so với một số
nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân một phần là do tình trạng tranh
mua, tranh bán đang diễn ra phổ biến, các doanh nghiệp thƣờng hoạt động đơn lẻ
trong quá trình chào hàng, bán hàng cho các công ty nƣớc ngoài, các doanh nghiệp
vô hình chung đã tự phá giá hàng hoá của mình. Hơn nữa, các công ty nƣớc ngoài
thƣờng lợi dụng tình trạng này nhằm ép giá đối với các công ty Việt Nam là giảm
hiệu quả xuất khẩu của Việt Nam.
17
Hiện nay nhiều ngƣời vẫn cho rằng trong nền kinh tế thị trƣờng ngƣời sản
xuất cần lƣu ý “không bán/ sản xuất những gì mà mình có, mà nên bán/ sản xuất
những gì thị trƣờng cần”. Nhƣng nhƣ thế vẫn chƣa thật đầy đủ và công bằng. Họ
vẫn chƣa thấy rằng trong thực tế nhiều lúc chúng ta không thể bán hay sản xuất
những gì mà chính năng lực của chúng ta không cho phép.
Tiêu chí đánh giá năng lực xuất khẩu của Hiệp hội ngành hàng phụ thuộc
phần lớn vào mức độ cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá thuộc ngành hàng đó. Và
xét cho cùng đó là khả năng tạo ra và duy trì lợi nhuận và thị phần tại các thị
trƣờng
ngoài nƣớc mà tại đó có nhiều chủ thể khác cùng tham gia kinh doanh ngành hàng
đó, thông qua việc tận dụng lợi thế so sánh về chi phí sản xuất, năng suất và
một
loạt các nhân tố đặc trƣng khác của ngành. Việc đạt tới một sự tăng trƣởng về
thị
phần đòi hỏi một sự phối hợp xác đáng các yếu tố vĩ mô và vi mô thông qua việc
định hƣớng một cách tích cực đối với sức cạnh tranh của mặt hàng.
Năng lực xuất khẩu là chỉ tiêu quan trọng cuối cùng đánh giá năng lực cạnh
tranh, trong khi năng lực cạnh tranh của ngành lại phụ thuộc vào các yếu tố nhƣ:
các
yếu tố đầu vào, chiến lƣợc, điều kiện về cầu, môi trƣờng cạnh tranh và kết cấu
ngành.
Đối với yếu tố đầu vào: Nếu nhƣ việc tạo ra các yếu tố đầu vào phổ biến là
nhiệm vụ của Nhà nƣớc thì việc tạo ra các yêu tố đầu vào chuyên môn hoá lại là
trách nhiệm của chính các Hiệp hội. Việc hình thành những yếu tố đầu vào chuyên
môn hoá nhƣ vậy mỗi doanh nghiệp sẽ không thực hiện đƣợc hoặc thực hiện không
có hiệu quả mà cần phải có sự kết hợp của nhiều doanh nghiệp thông qua Hiệp hội.
Đối với kết cấu ngành: Hiệp hội giữ vai trò điều hoà quy mô sản xuất và xuất
khẩu, giá cả và chất lƣợng sản phẩm. Trong cơ chế thị trƣờng, cạnh tranh là cần
thiết và là động lực để phát triển nhƣng cạnh tranh không lành mạnh, tranh mua,
tranh bán sẽ làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia. Trong những năm vừa qua,
nhiều
trƣờng hợp các doanh nghiệp của chúng ta do chƣa có sự điều tiết của ngành đã
gây
thiệt hại không nhỏ cho sản xuất của cả ngành. Điển hình là chuyện xảy ra trong
bài
học về chữ tín đối với ngành điều của Việt Nam. Năm 2005 giá điều tụt xuống thảm
hại chỉ còn 4900USD/tấn và đến tháng 5 hàng loạt khách hàng nƣớc ngoài đã lần
18
lữa không lấy nhân điều của Việt Nam đó là do các doanh nghiệp đã bị trả đũa vì
trong năm 2004, các doanh nghiệp Việt Nam do sản lƣợng điều thế giới sụt giảm
kéo theo giá thu mua tăng cao, đến thời điểm phải giao hàng so sánh chênh lệch
quá
lớn giữa giá xuất khẩu lúc đó và giá xuất khẩu trong hợp đồng nhiều doanh nghiệp
phải tự cứu mình bằng việc trì hoãn giao hàng hoặc thậm chí còn “ xù” luôn cả
mấy
hợp đồng đó, do đó làm cho các khách hàng nƣớc ngoài mất lòng tin vào các doanh
nghiệp Việt Nam khiến cho giá điều năm 2005 sụt giảm. Nếu nhƣ Hiệp hội cây điều
phát huy đƣợc vai trò điều tiết của mình thì có lẽ chuyện buồn này đã không xảy
ra.
Việc xây dựng thƣơng hiệu cho một ngành hàng nhất định để đƣa nó đến với
công chúng trong và ngoài nƣớc tại thời điểm hiện nay là rất khó khăn cho các
doanh nghiệp đặc biệt tại Việt Nam trong khi thƣơng hiệu đã và đang trở thành
thứ
tài sản vô hình quan trọng và vũ khí cạnh tranh sắc bén nhất của các doanh
nghiệp
trên thƣơng trƣờng. Thƣơng hiệu đã thay thế yếu tố chất lƣợng để chiếm vị trí số
1
trong cạnh tranh. Thƣơng hiệu là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Với thƣơng
hiệu mạnh, quyền năng thị trƣờng của doanh nghiệp sẽ rất lớn. Các Hiệp hội đã
thực
hiên vai trò hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thƣơng hiệu bằng cách:
+ Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng, quảng bá thƣơng hiệu ở nƣớc
ngoài thông qua các chƣơng trình xúc tiến thƣơng mại, tham gia hội chợ triển lãm
ở
nƣớc ngoài, tƣ vấn cho các doanh nghiệp chiến lƣợc xây dựng thƣơng hiệu cho
riêng mình…
+ Nâng cao nhận thức của doanh ngiệp về thƣơng hiệu thông qua hoạt động
đào tạo của mình, Hiệp hội đã dần trang bị các kiến thức cơ bản về thƣơng hiệu,
vai
trò, vị trí không thể thiếu của thƣơng hiệu, kỹ năng để xây dựng và quảng bá
thƣơng
hiệu.
1.1.2.6 Đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp trong mối quan hệ với các tổ chức
quốc tế
Do xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng đa phƣơng hoá, đa
dạng hoá trong quan hệ quốc tế nên các quan hệ đối ngoại không chỉ theo con
đƣờng của Nhà nƣớc mà còn theo “kênh” các Hội, tổ chức phi Chính phủ. Thực tế
19
là các hoạt động liên kết sản xuất, xúc tiến và hỗ trợ các hoạt động thƣơng mại,
đầu
tƣ hợp tác khoa học công nghệ của các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc thông qua
con đƣờng các Hội, tổ chức phi Chính phủ tăng lên rõ rệt. Việc nhiều tổ chức phi
Chính phủ các nƣớc bắt đầu vào hoạt động ở Việt Nam đã góp phần hình thành các
Hội, tổ chức phi Chính phủ trong nƣớc với tƣ cách là đối tác tƣơng ứng của các
tổ
chức nƣớc ngoài.
Nhiều Hiệp hội đã thực sự là cầu nối giữa các doanh nghiệp Việt Nam với
cộng đồng doanh nghiệp quốc tế. Một số các Hiệp hội trong các lĩnh vực kinh tế
trọng điểm của Việt Nam đều đã thiết lập quan hệ hợp tác với các Hiệp hội tƣơng
ứng của các nƣớc khác, qua đó khuyến nghị các hội viên phát triển chiến lƣợc
cạnh
tranh và chuẩn bị tích cực thâm nhập vào thị trƣờng mới, đồng thời cùng các hội
viên, các cơ quan Nhà nƣớc tích cực xây dựng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã
hội
để thực hiện những chiến lƣợc đầu tƣ và xuất khẩu mang tính cơ bản, lâu dài.
Hiệp
hội còn hợp tác với các tổ chức nghiên cứu và các tổ chức kinh tế khác nhằm phối
hợp, trao đổi thông tin, tƣ vấn, đào tạo, tiến hành các hoạt động xúc tiến
thƣơng mại
… tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Lãnh đạo các Hiệp hội còn tiến hành các thủ tục cần thiết để có thể
trở
thành thành viên của các tổ chức quốc tế liên quan đến Hiệp hội của mình. Đồng
thời hiểu rõ các chức năng nhiệm vụ của các tổ chức đó để có thể tranh thủ các ý
kiến ủng hộ cũng nhƣ sự giúp đỡ về thông tin, tƣ vấn mỗi khi quyền lợi của doanh
nghiệp hội viên bị xâm phạm trên thị trƣờng quốc tế.
Với vai trò đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp trên các diễn đàn quốc tế và
khu vực, các Hiệp hội đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp,
chống áp đặt các điều kiện tiêu chuẩn quá cao của các nƣớc phát triển về môi
trƣờng và trách nhiệm xã hội vào các quan hệ thƣơng mại, tham gia ý kiến vào
việc
xây dựng một lộ trình hội nhập với sức vƣơn lên của các doanh nghiệp và nền kinh
tế. Hiệp hội đấu tranh nhằm bảo vệ thƣơng hiệu của hội viên trên thị trƣờng quốc
tế
mỗi khi có sự xâm phạm thƣơng hiệu xảy ra. Đồng thời ủng hộ doanh nghiệp không
chỉ về thông tin tƣ vấn mà có thể cả về tài chính, kỹ thuật trong các vụ kiện về
bản