Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán chi Ngân sách nhà nước tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của Kiểm toán nhà nước
4,031
709
95
13
lập và có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ, trình độ chuyên môn phù hợp
tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định
lượng của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp
giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được xây dựng”.
Là một công cụ phục vụ cho quản lý, kiểm toán có hai chức năng chủ
yếu là: chức năng kiểm tra và xác nhận hay còn gọi là chức năng xác minh và
chức năng trình bày ý kiến (hay chức năng tư vấn). Qua hai chức năng của
kiểm toán có thể nhận thấy kiểm toán nhìn nhận đánh giá một cách toàn diện
cả về quá khứ và tương lai. Ở thời kỳ đầu, người ta thường chỉ tập trung quan
tâm đến chức năng kiểm tra, xác nhận, nhưng khi xã hội càng phát triển,
người ta quan tâm nhiều hơn đến chức năng tư vấn của kiểm toán, xuất phát
từ yêu cầu của thực tiễn và giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế phát triển
như hiện nay.
1.1.1.2. Các loại hình kiểm toán
Hiện nay có nhiều loại hình kiểm toán khác nhau dựa trên các cơ sở
phân chia khác nhau. Nếu căn cứ theo mục đích của kiểm toán (hay theo đối
tượng trực tiếp của kiểm toán) thì kiểm toán được chia thành ba loại hình cơ
bản: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.
- Kiểm toán Báo cáo tài chính: là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác
minh về tính trung thực, hợp lý của các BCTC được kiểm toán. BCTC được
kiểm toán thường là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo
cáo lưu chuyển tiền tệ, bản thuyết minh BCTC của các đơn vị được kiểm
toán. Ngoài ra, BCTC của các đơn vị khác như bảng cân đối tài khoản, báo
cáo quyết toán ngân sách, báo cáo quyết toán vốn đầu tư,..đối với các đơn vị
hành chính, sự nghiệp, các dự án đầu tư. Tiêu chuẩn, chuẩn mực cho việc
đánh giá thông tin của loại kiểm toán này thường là các chuẩn mực kế toán,
các quy định pháp lý về kế toán và những quy định khác có liên quan.
14
- Kiểm toán tuân thủ: là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được
kiểm toán có tuân thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên,
các cơ quan chức năng của Nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay
không. Đối tượng của kiểm toán tuân thủ có thể là việc tuân thủ các quy tắc
do các cơ quan Nhà nước cấp trên đề ra, như kiểm tra đánh giá về việc tuân
thủ các quy định về thuế giá trị gia tăng, các quy định về bảo vệ môi trường,
việc tuân thủ những quy định do người quản lý cấp trên trong đơn vị đề ra,
việc tuân thủ các quy định của cơ quan chuyên môn đề ra...
- Kiểm toán hoạt động: là loại kiểm toán để xem xét, đánh giá tính kinh
tế, tính hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.
Tính kinh tế là sự tiết kiệm các nguồn lực, hay đây còn gọi là nguyên
tắc tối thiểu, nghĩa là để đạt được mục tiêu nhất định cần dùng một lượng
nguồn lực ít nhất; Tính hiệu lực là khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm
vụ và mục tiêu đã xác định; Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất
với một lượng nguồn lực nhất định, hay đây còn gọi là nguyên tắc tối đa. Đối
tượng của kiểm toán hoạt động rất phong phú và đa dạng. Do vậy, để thực
hiện cuộc kiểm toán hoạt động đòi hỏi người kiểm toán viên phái am hiểu
nhiều lĩnh vực khác nhau như kế toán, tài chính, kinh tế, khoa học, kỹ thuật...
Nếu phân loại kiểm toán theo chủ thể kiểm toán thì kiểm toán gồm:
Kiểm toán độc lập, Kiểm toán nhà nước và Kiểm toán nội bộ.
- Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên
chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập về tính đúng đắn, hợp lý
của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp,
các cơ quan, tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội (gọi tắt là các đơn vị kế toán)
khi có yêu cầu của đơn vị này.
Như vậy, Kiểm toán độc lập thực chất là một loại hình dịch vụ, tư vấn
về tài chính, kế toán được thành lập theo quy định của pháp luật, hoạt động
15
chủ yếu của nó là trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính. Ngoài ra tùy
theo yêu cầu của khách hàng, kiểm toán độc lập còn có thể thực hiện kiểm
toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ hoặc tiến hành các dịch vụ tư vấn về tài
chính kế toán khác.
- Kiểm toán nhà nước là một tổ chức chuyên môn thuộc hệ thống cơ
quan quản lý của Nhà nước, được thành lập để thực hiện việc kiểm tra và báo
cáo về việc quản lý và sử dụng các nguồn lực của Nhà nước ở các đơn vị.
Tại các quốc gia khác nhau, quy định về địa vị pháp lý, nhiệm vụ của
KTNN là khác nhau. Các tổ chức Kiểm toán nhà nước thường độc lập với cơ
quan hành pháp và báo cáo trực tiếp tới cơ quan lập pháp, cho người dân hoặc
cả hai. KTNN có thể thực hiện cả ba loại hình: kiểm toán báo cáo tài chính,
kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý,
sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Báo cáo kiểm toán của KTNN là
một trong những căn cứ để các cơ quan dân cử sử dụng trong quá trình xem
xét, quyết định dự toán NSNN và phê chuẩn quyết toán NSNN cũng như việc
giám sát việc thực hiện NSNN, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia.
- Kiểm toán nội bộ được tổ chức bên trong mỗi đơn vị, thực hiện kiểm
tra và cho ý kiến về các đối tượng được kiểm toán nhằm giúp đơn vị thực hiện
tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Là một phần trong cơ cấu kiểm soát
quản lý của tổ chức, kiểm toán nội bộ có một chức năng quan trọng là kiểm
tra và báo cáo với nhà quản lý cấp cao về việc vận hành của hệ thống kiểm
soát quản lý và hỗ trợ nhà quản lý trong việc đánh giá các rủi ro và cải thiện
hệ thống quản lý.
Qua nghiên cứu ba chủ thể kiểm toán trên ta có thể thấy: Việc tồn tại
song song ba chủ thể kiểm toán (Kiểm toán nội bộ, Kiểm toán độc lập, Kiểm
toán nhà nước) và ba loại hình kiểm toán (Kiểm toán báo cáo tài chính, Kiểm
toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động) là do nhu cầu của xã hội, nhất là trong
16
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay ở
nước ta; Chủ thể Kiểm toán độc lập và Kiểm toán nội bộ sẽ chỉ tập trung vào
loại hình kiểm toán báo cáo tài chính là chủ yếu...; Chủ thể Kiểm toán nhà
nước sẽ ngày càng phát triển, bởi nó là công cụ chủ yếu của Nhà nước trong
việc kiểm soát các hoạt động kinh tế - tài chính; Song song với sự tồn tại của
thiết chế kiểm toán nhà nước thì cả ba loại hình kiểm toán cũng sẽ cùng tồn
tại và phát triển, trong đó kiểm toán hoạt động sẽ là loại hình chủ yếu của hoạt
động kiểm toán nhà nước trong thời gian tới.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của KTNN
KTNN là cơ quan được thành lập để tăng cường sự quản lý của Nhà
nước trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước và công quỹ quốc gia, bảo đảm
tính trung thực, chính xác, hợp pháp và hợp lệ của việc sử dụng nguồn lực tài
chính công; ngăn ngừa đối với sự xâm phạm tài sản Nhà nước, xây dựng Nhà
nước pháp quyền có hiệu lực trong việc quản lý kinh tế - xã hội; thực hiện
kiểm tra tính tuân thủ trong việc sử dụng tiền của của nhân dân theo những
quy định của pháp luật hiện hành; đảm bảo sự minh bạch về tài chính và hiệu
quả sử dụng nguồn lực tài chính này.
Kinh phí hoạt động của hệ thống KTNN do NSNN cấp. Biên chế của
hệ thống KTNN thuộc biên chế quản lý Nhà nước. Tổng Kiểm toán nhà nước
xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt biên chế và kinh phí hoạt
động của hệ thống kiểm toán.
Sự ra đời và phát triển của nền tài chính quốc gia, trong đó tài chính
công là quan trọng nhất, vì nó luôn gắn liền với sự phát triển của nhà nước và
của nền kinh tế. Nhà nước với chức năng của mình là quản lý và sử dụng tài
chính công để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước, để phát triển kinh tế xã
hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Tài chính công cũng chính là công cụ
chủ yếu của nhà nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy chức năng kiểm
17
tra tài chính công là chức năng quan trọng và vốn có của mọi nhà nước. Chức
năng này thể hiện quyền lực của nhà nước và được thực hiện thông qua các
công cụ kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng có thẩm quyền, nhằm
tăng cường sự quản lý của nhà nước về tài chính, bảo đảm cho sự ổn định và
phát triển của nhà nước và của xã hội.
Qua các giai đoạn phát triển của nhà nước, việc kiểm tra tài chính công
được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều có chung mục
đích là kiểm tra và xác định các khoản chi tiêu tài chính, công quỹ của bộ máy
nhà nước, ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi tham nhũng, lạm dụng làm thất
thoát công quỹ, để đảm bảo các khoản chi tiêu tiết kiệm, đúng mục đích và có
hiệu quả cao.
Theo thông lệ quốc tế, ở hầu hết các nước trên thế giới công cụ kiểm tra
tài chính công cao nhất của nhà nước là Cơ quan Kiểm toán nhà nước hay còn
gọi là Cơ quan Kiểm toán tối cao.
Việc thành lập Cơ quan Kiểm toán nhà nước, đi liền với nó là hoạt
động kiểm toán nhà nước nhằm hình thành một thiết chế quản lý của nhà
nước, là một điều kiện đảm bảo cho nền dân chủ xã hội, không chỉ trong xã
hội dân chủ mà cả trong những hình thái tổ chức nhà nước khác, việc thành
lập thiết chế kiểm toán là điều kiện cần thiết cho mọi nhà nước nói chung, bất
kể nhà nước đó có hình thức tổ chức như thế nào. Việt Nam hình thành thiết
chế kiểm toán là một tiến triển phù hợp với tiến trình thực hiện cải cách nền
hành chính quốc gia, xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là công cụ của cơ
quan quyền lực nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra tài chính công và cùng
với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, các cơ quan bảo vệ pháp luật bảo đảm để
pháp luật của nhà nước được thực hiện, pháp chế xã hội chủ nghĩa được tăng
cường, phục vụ tốt cho nhà nước quản lý kinh tế xã hội.
18
Tổ chức kiểm toán nhà nước đóng vai trò là một công cụ quản lý của
nhà nước, đặc biệt là trong quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước; giúp Nhà
nước nắm bắt và củng cố điều hành hoạt động của các đơn vị, các tổ chức
trong việc tuân thủ luật pháp và các quy định khác của Nhà nước.
1.2.1. Khái niệm nội dung chi Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn
tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà
nước nhằm thực hiện chức năng của nhà nước trên cơ sở luật định. Nó phản
ánh các quan hệ kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể trong xã hội phát sinh
khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn lực tài chính quốc gia theo
nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Theo Luật Ngân sách nhà nước năm 1996 “Ngân sách nhà nước là toàn
bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước”. Năm 2002 Luật Ngân sách
nhà nước đã xác định lại “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi
của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của nhà nước”.
Chi NSNN là quá trình phân phối, sử dụng vốn NSNN để đáp ứng cho
các nhu cầu chi gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước về lập
pháp, hành pháp, tư pháp và một số dịch vụ công cộng khác mà Nhà nước vẫn
phải cung ứng. Với xu thế phát triển của xã hội, nhiệm vụ thường xuyên mà
Nhà nước phải đảm nhận ngày càng gia tăng, vì vậy nội dung chi thường
xuyên cũng có xu hướng mở rộng.
19
Chi NSNN tại các Bộ, Ngành bao gồm: chi đầu tư phát triển (xây dựng,
cải tạo, mở rộng trụ sở làm việc của cơ quan Bộ và các đơn vị trực thuộc); chi
Chương trình mục tiêu quốc gia (Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
Nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững,
Chương trình mục tiêu quốc gia về Biến đổi khí hậu, ...) và chi thường xuyên.
Xét theo lĩnh vực chi, có thể phân loại chi thường xuyên tại các Bộ,
Ngành thành: chi hoạt động quản lý nhà nước (bao gồm chi lương và các
khoản đóng góp theo lương; chi công tác phí; chi hội nghị; chi mua sắm, sửa
chữa tài sản; chi nghiệp vụ chuyên môn; chi thuê mướn, ...); chi hoạt động sự
nghiệp kinh tế của Nhà nước (chi thực hiện các nhiệm vụ, dự án do Nhà nước
giao theo thẩm quyền); chi hoạt động khoa học, công nghệ (chi thực hiện các
đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp cơ sở); chi hoạt động sự nghiệp giáo dục;
chi hoạt động sự nghiệp văn-xã; chi cho các tổ chức chính trị, xã hội và các tổ
chức khác được cấp kinh phí từ NSNN; chi cho quốc phòng, an ninh và trật tự
xã hội; chi khác.
Nhìn chung, đây là các khoản chi chủ yếu phục vụ cho chức năng quản
lý và điều hành xã hội một cách thường xuyên của các Bộ, Ngành trong các
lĩnh vực được phân công, nên mang tính chất tiêu dùng xã hội, ổn định, tác
động ngắn, thường là trong một năm. Phạm vi, quy mô và cơ cấu chi thường
xuyên phụ thuộc chủ yếu vào tổ chức bộ máy của Bộ, Ngành và sự lựa chọn
của Bộ, Ngành đó trong việc cung ứng các hàng hóa công cộng.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý chi NSNN tại các Bộ, Ngành
Thứ nhất là nguyên tắc quản lý theo dự toán, trong đó lập dự toán là
khâu mở đầu của một chu trình NSNN. Mọi nhu cầu chi NSNN dự kiến cho
năm kế hoạch nhất thiết phải được xác định trong dự toán kinh phí từ cơ sở,
từ đơn vị dự toán cấp III, cấp II và tổng hợp của đơn vị dự toán cấp I, thông
qua các bước xét duyệt của các cơ quan quyền lực nhà nước từ thấp đến cao.
20
Các Bộ, Ngành, các cấp, các đơn vị phải có trách nhiệm chấp hành nghiêm
chỉnh các chỉ tiêu thuộc dự toán chi NSNN đã được Quốc hội và Chính phủ
thông qua, quyết định. Định kỳ, theo chế độ quyết toán kinh phí đã quy định,
các Bộ, Ngành khi phân tích đánh giá kết quả thực hiện của kỳ báo cáo phải
lấy dự toán làm căn cứ đối chiếu. Như vậy, công tác kiểm toán chi NSNN tại
các Bộ, Ngành cũng phải trên cơ sở các giai đoạn của chu trình ngân sách.
Thứ hai là nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả: Đặc thù hoạt động chi NSNN
diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp, nhu cầu chi từ NSNN luôn gia
tăng với tốc độ nhanh trong khi khả năng huy động nguồn thu có hạn. Do vậy,
cần phải xây dựng các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp với từng đối
tượng hay tính chất công việc và có tính thực tiễn cao, làm căn cứ pháp lý xác
đáng phục vụ cho quản lý chi NSNN; cần lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các loại
hoạt động sao cho với nguồn kinh phí có hạn nhưng khối lượng công việc vẫn
phải hoàn thành và đạt chất lượng cao; đánh giá tính tiết hiệu quả chi thường
xuyên NSNN phải có quan điểm toàn diện, nghĩa là phải xem xét mức độ ảnh
hưởng của mỗi khoản chi thường xuyên tới các mối quan hệ kinh tế, chính trị,
xã hội khác và phải tính đến thời gian phát huy tác dụng của nó.
Thứ ba là nguyên tắc chi trực tiếp qua Kho bạc Nhà nước (KBNN):
Kho bạc Nhà nước có quyền và trách nhiệm phải kiểm soát chặt chẽ mọi
khoản chi NSNN, đặc biệt là các khoản chi thường xuyên. Tất cả các đơn vị
sử dụng kinh phí NSNN phải mở tài khoản tại KBNN, chịu sự kiểm tra, kiểm
soát của cơ quan tài chính và KBNN trong quá trình lập dự toán, phân bổ dự
toán, cấp phát, thanh toán, hạch toán và quyết toán NSNN.
1.2.3. Quy trình ngân sách bộ, ngành
Quy trình ngân sách (hay còn gọi là quá trình ngân sách) là thuật ngữ
chỉ toàn bộ hoạt động của ngân sách từ khi bắt đầu xây dựng dự toán cho đến
khi phê duyệt và công bố quyết toán ngân sách. Xét về mặt không gian, chu
21
trình ngân sách diễn ra ở tất cả các cơ quan nhà nước, các đơn vị thụ hưởng
ngân sách từ trung ương đến cơ sở; xét về mặt nội dung, quy trình ngân sách
bộ, ngành bao gồm việc lập, phân bổ, chấp hành và quyết toán ngân sách. Xét
về quan hệ lợi ích, đó là quá trình sắp xếp, tổ chức thực hiện và đánh giá việc
thực hiện dự toán ngân sách bộ, ngành.
Dự toán ngân sách gắn chặt với năm ngân sách, nên khi năm ngân sách
này kết thúc, thì năm ngân sách mới lại bắt đầu. Chính vì vậy hoạt động ngân
sách có tính chu kỳ, lặp đi lặp lại, hình thành nên các chu trình ngân sách liên
tục. Để có được dự toán hàng năm đòi hỏi phải tổ chức lập dự toán ngân sách,
công việc này phải được thực hiện từ trước khi năm ngân sách bắt đầu; sau
khi dự toán ngân sách được thông qua, nó được tổ chức thực hiện trong năm
ngân sách; sau khi năm ngân sách kết thúc đòi hỏi phải tổng kết đánh giá tình
hình thực hiện ngân sách. Như vậy, quy trình ngân sách bao gồm 3 khâu: Lập
ngân sách (hình thành ngân sách), chấp hành ngân sách (thực hiện ngân sách)
và quyết toán ngân sách.
- Lập dự toán ngân sách: Giai đoạn này là quá trình phân tích và đánh
giá khả năng, nhu cầu các nguồn tài chính để tính toán và đưa ra dự toán các
khoản thu, chi cho năm ngân sách; khâu này bao gồm các nội dung lập dự
toán, quyết định dự toán và công bố dự toán. Khâu này là khâu đầu tiên của
một chu trình ngân sách, nó được thực hiện trước khi năm ngân sách bắt đầu.
- Chấp hành ngân sách: Giai đoạn này là quá trình sử dụng các biện
pháp kinh tế - tài chính cà các biện pháp khác để thực hiện dự toán thu, chi
ngân sách; nội dung của khâu này là tổ chức thực hiện thu, chi NSNN theo dự
toán đã được cấp có thẩm quyền quyết định. Khâu này là khâu tiếp theo của
khâu lập ngân sách, về nguyên tắc khâu này thường trùng với năm ngân sách,
tuy nhiên trong thực tế vẫn xảy ra trường hợp việc chấp hành ngân sách kéo
dài qua năm ngân sách (như thực tế ở Việt Nam).
22
- Quyết toán ngân sách: Giai đoạn này là quá trình tổng kết việc thực
hiện dự toán ngân sách năm; nội dung của khâu này là tổng hợp kết quả thực
hiện ngân sách trong năm theo các nội dung dự toán đã được quyết định và
theo các tiêu chí nhất định khác nhằm đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động của
một năm ngân sách, nó được thực hiện sau khi năm ngân sách kết thúc.
Qua phân tích cho thấy, chu trình ngân sách có thời gian dài hơn năm
ngân sách. Việc lập ngân sách phải tiến hành trước khi bắt đầu năm ngân sách
(có nghĩa là phải thực hiện từ năm ngân sách trước đó) và quyết toán ngân
sách được tiền hành khi năm ngân sách đã kết thúc (thực hiện trong năm ngân
sách tiếp theo). Xét về tính thời điểm, trong cùng một thời gian của một năm
ngân sách đồng thời diễn ra cả 3 khâu cả chu trình ngân sách: chấp hành ngân
sách của năm hiện tại, lập dự toán của năm sau và quyết toán ngân sách của
năm trước.
1.3.1. Đối tượng, mục tiêu, phạm vi kiểm toán chi ngân sách bộ, ngành
- Về đối tượng kiểm toán ngân sách bộ, ngành: Đối tượng kiểm toán
của KTNN là các hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền
và tài sản của Nhà nước. Quy định trên đây nhằm bao quát hết các hoạt động
thuộc đối tượng kiểm toán của KTNN; đồng thời phân biệt rõ đối tượng kiểm
toán của KTNN với các đơn vị kiểm toán (các cơ quan, đơn vị, tổ chức có
quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước). Theo đó, về nguyên tắc,
vốn và tài sản nhà nước có nguồn gốc từ NSNN phải được KTNN thực hiện
kiểm toán, bảo đảm quyền sở hữu của Nhà nước đối với các tài sản của mình.
Do vậy, đối tượng kiểm toán của KTNN phải là các hoạt động kinh tế, tài
chính nhà nước của mọi cơ quan, đơn vị, tổ chức có quản lý, sử dụng NSNN;
các doanh nghiệp nhà nước; các cơ quan, đơn vị, tổ chức quản lý các quỹ tập
trung của Nhà nước; các đơn vị quản lý, sử dụng các nguồn vốn nhà nước