Luận văn thạc sĩ kinh tế: Giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay
3,041
295
126
- 48 -
đường biển ký phát, trừ trường hợp có những văn bản pháp luật khác quy định cụ
thể. Ở đây cần hiểu rằng vận đơn suốt (Through Bill of Lading) là một dạng sơ
khai
ban đầu của vận đơn vận tải đa phương thức.
Theo điều 88, người vận chuyển đã ký phát vận đơn suốt có nghĩa vụ tổ chức
việc vận chuyển hàng hoá và chịu trách nhiệm về hàng hoá đối với chủ hàng trong
cả quá trình vận chuyển theo vận đơn suốt, cho đến khi hàng đã được trả cho
người
nhận hàng hợp pháp.
Phạm vi trách nhiệm giữa người ký phát vận đơn suốt và những người vận
chuyển khác trong liên hiệp vận chuyển do các bên thoả thuận theo nguyên tắc
cộng
đồng trách nhiệm.
Cũng theo Điều 88, chế độ trách nhiệm của những người tham gia quá trình
liên hiệp vận chuyển là chế độ cộng đồng trách nhiệm, nghĩa là người vận chuyển
nào đã phải bồi thường tổn thất liên quan đến vận đơn suốt thì có quyền yêu cầu
những người vận chuyển khác hoàn trả số tiền bồi thường theo tỷ lệ tiền cước vận
chuyển tương ứng với quãng vận chuyển do họ thực hiện.
Người vận chuyển nào chứng minh được mình đã không có lỗi, thì không phải
hoàn trả số tiền đó.
Tiếp đó Điều 88 quy định về việc người vận chuyển tham gia liên hiệp vận
chuyển có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình và tận tâm chuẩn bị
cho các quãng vận chuyển khác được thực hiện có kết quả. Người vận chuyển trong
quãng cuối cùng của Liên hiệp vận chuyển có nghĩa vụ bảo vệ các quyền của những
người vận chuyển khác, đặc biệt là quyền cầm giữ hàng hoá.
Như vậy, Bộ luật hàng hải Việt Nam chưa đề cập tới những vấn đề căn bản
như: người kinh doanh vận tải đa phương thức, tính không lưu thông và không
chuyển nhượng được của vận đơn vận tải đa phương thức, trách nhiệm và miễn
trách nhiệm về chậm giao hàng của người kinh doanh vận tải đa phương thức, trách
nhiệm ngoài hợp đồng vận tải đa phương thức, thời hiệu tố tụng, thẩm quyền của
trọng tài.
* Luật Thương mại Việt Nam:
- 49 -
Luật Thương mại được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp lần thứ 11
ngày 10/5/1997 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1998 viết “Dịch vụ giao nhận hàng hoá
là hành vi thương mại, theo đó người làm giao nhận hàng hoá nhận hàng từ người
gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho bãi, làm các thủ tục giấy tờ và dịch vụ khác có
liên quan để giao hàng cho người nhận theo uỷ thác của chủ hàng...” (Điều 163,
mục 10, chương 2, Luật Thương mại). Mục 10, Luật thương mại (từ Điều 163 đến
Điều 171) đã cơ bản hoạch định phạm vi, chức năng, nghĩa vụ và quyền hạn của
người kinh doanh dịch vụ giao nhận kho vận như sau:
Điều 167: Quyền và nghĩa vụ của người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá.
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá có những quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Được hưởng tiền công và các khoản thu nhập hợp lý khác.
- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
- Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của
khách hàng thì có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải
thông
báo ngay cho khách hàng.
- Sau khi ký kết hợp đồng, nếu xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không
thực hiện được toàn bộ hoặc một phần những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông
báo ngay cho khách hàng biết để xin chỉ dẫn thêm.
Trong trường hợp hợp đồng không có thoả thuận về thời hạn cụ thể thực hiện
nghĩa vụ với khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời hạn
hợp lý.
Điều 169: Các trường hợp miễn trách nhiệm
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không phải chịu trách nhiệm về
những mất mát, hư hỏng phát sinh trong những trường hợp sau đây:
Do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền.
Đã làm đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được
khách hàng uỷ quyền.
Khách hàng đóng gói và ghi ký mã hiệu không phù hợp.
- 50 -
Do khách hàng hoặc người được khách hàng uỷ quyền thực hiện việc
xếp, dỡ hàng hoá.
Do khuyết tật của hàng hoá.
Do có đình công.
Các trường hợp bất khả kháng.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không chịu trách nhiệm về việc mất
khoản lợi đáng lẽ khách hàng được hưởng, về sự chậm trễ hoặc giao nhận hàng sai
địa chỉ mà không phải do lỗi của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
Điều 170: Giới hạn trách nhiệm
- Trách nhiệm của người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá trong mọi trường
hợp không vượt quá giá trị hàng hoá, trừ khi các bên có thoả thuận khác trong
hợp
đồng.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không được miễn trách nhiệm nếu
không chứng minh được việc mất mát, hư hỏng hoặc chậm giao hàng không phải do
lỗi của mình gây ra.
- Tiền bồi thường được tính trên cơ sở giá trị hàng hoá ghi trên hoá đơn và các
khoản tiền khác có chứng từ hợp lệ. Nếu trong hoá đơn không ghi giá trị hàng hoá
thì tiền bồi thường được tính theo giá trị của loại hàng đó tại nơi và thời điểm
mà
hàng được giao cho khách hàng theo giá thị trường; nếu không có giá thị trường
thì
tính theo giá thông thường của hàng cùng loại và cùng chất lượng.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không phải chịu trách nhiệm trong
các trường hợp sau đây:
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không nhận được thông báo về
khiếu nại trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày giao hàng, không
tính ngày chủ nhật và ngày lễ.
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không nhận được thông báo
bằng văn bản về việc bị kiện tại trọng tài hoặc toà án trong thời hạn
chín tháng, kể từ ngày giao hàng.
Điều 171: Quyền cầm giữ và định đoạt hàng hoá
- 51 -
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá có quyền cầm giữ số hàng hoá nhất
định và các chứng từ liên quan đến hàng hoá để đòi tiền nợ đã đến hạn của khách
hàng và thông báo ngay bằng văn bản cho khách hàng.
Sau thời hạn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày cầm giữ hàng hoá hoặc chứng từ
liên quan đến hàng hoá, nếu khách hàng không trả tiền nợ thì người làm dịch vụ
giao nhận hàng hoá có quyền định đoạt hàng hoá hoặc chứng từ đó theo quy định
của pháp luật và phải thông báo ngay bằng văn bản cho khách hàng; mọi chi phí
cầm giữ và định đoạt hàng hoá do khách hàng chịu.
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá được sử dụng số tiền thu được từ việc
định đoạt hàng hoá để thanh toán các khoản mà khách hàng nợ mình và các chi phí
có liên quan. Số tiền còn lại phải được chuyển trả cho khách hàng. Kể từ thời
điểm
đó, người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá hết trách nhiệm đối với hàng hoá hoặc
chứng từ đã được định đoạt.
Trong trường hợp hàng hoá có dấu hiệu bị hư hỏng, quyền định đoạt hàng hoá
của người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá quy định tại khoản 2 điều này phát sinh
ngay khi có bất kỳ khoản nợ nào của khách hàng, với điều kiện người làm dịch vụ
giao nhận hàng hoá đã thông báo cho khách hàng biết về việc định đoạt hàng hoá.
Theo điều 166, khi người làm dịch vụ giao nhận đảm nhiệm việc vận chuyển
hàng hoá thì phải tuân theo pháp luật chuyên ngành về vận tải.
Luật thương mại Việt Nam đang được sửa đổi và phần này sẽ được viết lại
theo hướng cập nhật đầy đủ rõ ràng hơn về giao nhận vận tải và cả về logistics.
* Luật hàng không dân dụng Việt Nam
Luật hàng không dân dụng Việt Nam được thi hành từ 1/6/1992 và đã được
sửa đổi 20/4/1995.
Luật hàng không dân dụng Việt Nam quy định những quan hệ pháp lý có liên
quan tới những hoạt động nhằm sử dụng máy bay vào mục đích vận chuyển hành
khách, hành lý, hàng hoá bưu kiện, bưu phẩm và các hoạt động kinh tế khác, phục
vụ nghiên cứu khoa học, hoạt động văn hoá, thể thao, y tế, tìm kiếm - cứu nguy
và
các hoạt động dân dụng khác, nhằm đảm bảo an toàn hàng không, khai thác có hiệu
- 52 -
quả các tiềm năng về hàng không, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, mở rộng
giao lưu và hợp tác quốc tế...
- Trách nhiệm của người chuyên chở:
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam và Điều lệ vận chuyển hàng hoá quốc tế
của Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam quy định trách nhiệm của người chuyên
chở như sau:
Người chuyên chở có nghĩa vụ chuyên chở hàng hoá đã thoả thuận trong hợp
đồng tới địa điểm đến và trả hàng hoá cho người có quyền nhận.
Khi hàng hoá đã được vận chuyển tới nơi giao hàng, người chuyên chở có
nghĩa vụ thông báo cho người có quyền nhận hàng đến nhận hàng.
Trong trường hợp người nhận hàng từ chối nhận hàng hoặc hàng không thể
giao cho người nhận hàng được thì người vận chuyển có nghĩa vụ cất giữ hàng hoá
và thông báo cho người gửi hàng. Các phí tổn phát sinh do người gửi hàng chịu.
- Thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở:
Người chuyên chở chịu trách nhiệm đối với hàng hoá hành lý trong quá trình
vận chuyển bằng máy bay.
Quá trình vận chuyển hàng hoá, hành lý ký gửi bằng máy bay được tính từ thời
điểm người gửi hàng giao hàng hoá, hành lý cho người vận chuyển tới thời điểm
người vận chuyển trả hàng hoá, hành lý cho người có quyền nhận.
- Cơ sở trách nhiệm của người chuyên chở:
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam Điều 74 và 77 quy định về cơ sở trách
nhiệm của người chuyên chở như sau:
Người chuyên chở chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mất mát, thiếu hụt
hoặc hư hỏng hàng hoá, hành lý ký gửi trong quá trình vận chuyển bằng máy bay.
Người vận chuyển có trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra trong trường hợp
chậm trễ, nếu không chứng minh được rằng nhân viên hoặc đại lý của mình đã áp
dụng mọi biện pháp để tránh thiệt hại hoặc không thể áp dụng những biện pháp như
vậy.
Người chuyên chở được miễn trách nhiệm trong những trường hợp sau:
- 53 -
(Điều 74 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam)
Đặc tính tự nhiên hoặc khuyết tật vốn có của hàng hoá, hành lý ký gửi.
Do hành động bắt giữ hoặc hành động cưỡng chế khác của nhà chức
trách hoặc toà án đối với hàng hoá, hành lý ký gửi.
Do xung đột vũ trang.
Do lỗi của người gửi hàng, người nhận hàng, hành lý ký gửi hoặc do lỗi
của người áp tải được người gửi hoặc người nhận cử đi kèm theo hàng
hoá.
- Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở:
Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở đối với tổn thất của hàng hoá
trong quá trình chuyên chở là số tiền lớn nhất mà người chuyên chở phải bồi
thường
cho chủ hàng đối với một kilôgam trong trường hợp tính chất và trị giá của hàng
hoá không được kê khai trên vận đơn vào khi giao hàng.
Điều 76 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam quy định như sau:
Nếu hàng hoá và hành lý đã được kê khai trị giá thì bồi thường theo trị
giá đã kê khai.
Nếu giá trị kê khai lớn hơn trị giá thực tế thì căn cứ vào trị giá thực tế.
Nếu không kê khai trị giá bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của
hàng hoá và hành lý.
Mức bồi thường thiệt hại của người chuyên chở trong các trường hợp
đã nói ở trên không vượt quá giới hạn trách nhiệm dân sự của người
chuyên chở.
Nếu không xác định được giá trị thiệt hại thực tế, thì mức bồi thường
được tính tới giới hạn trách nhiệm dân sự của người chuyên chở. Giới
hạn trách nhiệm dân sự của người chuyên chở được quy định như sau:
Đối với hàng hoá và hành lý ký gửi, giới hạn trách nhiệm của người
chuyên chở là 20 USD/KG hay 9,07 USD/pound.
Ngoài mức bồi thường nói tại điều này, người vận chuyển phải hoàn lại người
gửi hàng cước phí, phụ phí vận chuyển số hàng hoá và hành lý ký gửi bị thiệt
hại.
- 54 -
Về cơ bản, những quy định của luật Hàng không dân dụng Việt Nam phù hợp
với quy định của các Công ước quy tắc quốc tế về vận tải hàng không, đặc biệt là
những quy định liên quan đến thời hạn trách nhiệm, cơ sở trách nhiệm, giới hạn
trách nhiệm của người chuyên chở.
* Nghị định 10/2001 NĐ-CP ban hành ngày 15/3/2001 quy định về điều kiện
kinh doanh dịch vụ hàng hải ở Việt Nam.
Về điều kiện kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải đường biển, điều 14 của Nghị
định quy định:
- Giám đốc doanh nghiệp có thời gian công tác tối thiểu 02 (hai) năm trực tiếp
đảm nhiệm nghiệp vụ đại lý vận tải đường biển.
- Đại lý viên cần có đủ các điều kiện sau:
Tốt nghiệp Đại học Hàng hải, Đại học Ngoại thương hoặc có thời gian
thực hiện nghiệp vụ liên quan đến đại lý vận tải đường biển tối thiểu 03
(ba) năm.
Có giấy xác nhận về trình độ chuyên môn nghiệp vụ đại lý vận tải
đường biển của Hiệp hội giao nhận kho vận.
- Doanh nghiệp có bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đại lý vận tải đường
biển.
Theo điều 2 của Nghị định này, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế có đủ các điều kiện theo quy định của Nghị định này được phép kinh doanh các
loại dịch vụ hàng hải. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì vốn góp
của bên Việt Nam không dưới 51%. Riêng đối với hai loại dịch vụ: Dịch vụ đại lý
tàu biển và dịch vụ lai dắt tàu biển, chỉ các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trong
nước được phép kinh doanh.
Điều đáng nói là trong Nghị định này không đề cập tới dịch vụ Logistics - một
hình thức cao của dịch vụ Freight Forwarding. Do vậy, vừa qua một số thương nhân
nước ngoài đã lợi dụng kẽ hở này xin đăng ký kinh doanh dưới hình thức lập Chi
nhánh 100% vốn của họ mà không bị một rào cản nào cả. Thực tế là một số Sở Kế
hoạch đầu tư ở các tỉnh, thành phố đã cấp phép cho họ.
- 55 -
Theo tinh thần công văn 1011/CP-HTQT của văn phòng Thủ tướng Chính phủ
ngày 6/11/2001 thì kinh doanh giao nhận hàng hoá bằng đường hàng không chưa
cho phép bên nước ngoài lập Công ty 100% vốn của họ ở Việt Nam. Họ có thể liên
doanh với phía Việt Nam để kinh doanh dịch vụ này song phía Việt Nam phải có tỷ
lệ vốn không thấp hơn 51%.
* Nghị định 125/2003 NĐ-CP về vận tải đa phương thức quốc tế ban hành
ngày 29/10/2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2004.
Nghị định gồm 8 chương, 32 điều quy định về kinh doanh vận tải đa phương
thức ở Việt Nam. Về cơ bản, Nghị định này được xây dựng trên cơ sở tinh thần và
lời văn của Công ước Liên hiệp quốc về vận tải hàng hoá đa phương thức quốc tế
năm 1980 và Hiệp định khung của các nước ASEAN về vận tải đa phương thức.
- Cơ sở trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức:
Trong Nghị định, chế độ trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương
thức được xác định trên cơ sở trách nhiệm từng chặng (network liability). Nguyên
tắc này được quy định tại điều 22 khoản 4. Theo đó, chủ hàng được dẫn chiếu
những quy tắc có lợi cho mình khi áp dụng chế độ trách nhiệm network liability
trong trường hợp có thể xác định được nơi đã xảy ra hư hỏng tổn thất hàng hoá.
Theo quy định của điều này, người khiếu nại có thể viện dẫn mức giới hạn bồi
thường khác được áp dụng như thể có một hợp đồng riêng biệt được ký kết cho
từng chặng chuyên chở cụ thể nơi xảy ra tổn thất, mất mát, với điều kiện là giới
hạn
bồi thường được áp dụng trong trường hợp đó phải phù hợp với Công ước quốc tế
hoặc Luật quốc gia hiện hành áp dụng ở chặng đó. Điều khoản này có thể có lợi
cho
người khiếu nại theo mức bồi thường theo đơn vị chuyên chở khi tổn thất hoặc hư
hại được xác định trong khâu vận chuyển bằng đường biển của vận tải đa phương
thức và anh ta cũng có thể được lợi do việc áp dụng mức bồi thường cao hơn đối
với khâu vận chuyển bằng đường bộ, đường sắt và đường hàng không.
Trong điều 22, khoản 3 mức giới hạn tiền bồi thường 8,33 SDR/kg được áp
dụng khi không có công đoạn vận chuyển bằng đường biển trong toàn bộ quá trình
vận tải đa phương thức. Như vậy, mức giới hạn theo đơn vị hàng tính bằng kilô đã
- 56 -
được nâng từ 2 SDR trong khoản 1 điều 22 lên 8,33 SDR và mức giới hạn này sẽ có
lợi hơn cho người đòi bồi thường.
Một nguyên tắc quan trọng cơ bản tiếp theo liên quan tới chính người kinh
doanh vận tải đa phương thức là mức bồi thường tối đa sẽ không vượt quá giới hạn
tổn thất toàn bộ hàng hoá (điều 22 khoản 6). Do mục đích của Nghị định là để sử
dụng khi trong hợp đồng vận tải đa phương thức phải có cung đoạn quan trọng là
vận tải đường biển, vì vậy điều hoàn toàn hiển nhiên là trách nhiệm của người
kinh
doanh vận tải đa phương thức dựa trên những nguyên tắc chung về trách nhiệm
trong vận tải hàng hoá bằng đường biển. Do vậy giới hạn trách nhiệm tương đối
thấp trong vận tải hàng hoá bằng đường biển đã được lựa chọn đưa vào (tức là mức
giới hạn bồi thường tối đa 666,67 SDR một đơn vị hàng (bao hoặc kiện) và 2 SDR
một kilô). So với Hamburg Rules, giới hạn này thấp hơn 10% và với Công ước vận
tải đa phương thức 1980 là 20%. Đồng thời, những miễn trách cụ thể của Bộ luật
hàng hải đối với sai sót trong hàng vận hoặc trong việc quản lý tàu cũng như hoả
hoạn được áp dụng (điều 20 khoản 7). Bằng cách chọn những quy tắc hàng hải như
là cơ sở trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức, Nghị định đã
tránh được những trách nhiệm nặng nề hơn nhiều trách nhiệm của người chuyên
chở được áp dụng trong vận tải hàng hoá bằng đường không, đường bộ và đường
sắt.
Người kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm đối với những
tổn thất hoặc hư hỏng hàng hoá trong quá trình chuyên chở, trừ khi anh ta chứng
minh được rằng không có sai sót hoặc sự cẩu thả của mình, của những người làm
công hoặc đại lý cũng như của những người được thuê để thực hiện hợp đồng vận
tải đa phương thức. Như vậy, trách nhiệm của anh ta đã mở rộng đối với cả những
hành động hoặc sự chểnh mảng của những người làm công vừa nêu. Ngoài ra người
kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm về những tổn thất hoặc
hư
hỏng do việc chậm giao hàng gây ra. Nhưng muốn buộc người kinh doanh vận tải
đa phương thức nhận trách nhiệm về việc chậm giao hàng thì người gửi hàng phải
có văn bản yêu cầu giao trả hàng đúng hạn và được người kinh doanh vận tải đa
- 57 -
phương thức chấp nhận đưa vào hợp đồng (điều 18 khoản 4). Trong thực tế thì điều
này cũng tương tự như việc từ chối trách nhiệm về việc giao hàng chậm.
Điều 19 của Nghị định quy định về việc giao hàng chậm, vì người kinh doanh
vận tải đa phương thức không chịu trách nhiệm nếu người gửi hàng không kê khai
yêu cầu phải giao hàng đúng hạn nên quy định này chỉ trở thành trọng yếu khi có
yêu cầu bảo đảm thời gian hàng đến địa điểm đích của người gửi hàng. Nếu việc
giao hàng không được tiến hành trong khoảng thời gian hợp lý mà người kinh
doanh vận tải đa phương thức mẫn cán phải thực hiện thì sẽ bị coi là giao hàng
chậm. Trong vòng 90 ngày kể từ ngày quy định phải giao hàng (trong trường hợp
người gửi hàng kê khai và người giao nhận chấp nhận ghi vào vận đơn) mà hàng
không được giao thì coi như hàng bị mất.
Điều 20 khoản 7 quy định áp dụng những miễn trách đối với người vận tải
đường biển thông thường cho người kinh doanh vận tải đa phương thức tại những
cung đoạn vận chuyển bằng đường biển hoặc nội thuỷ. Cụ thể người kinh doanh
vận tải đa phương thức không chịu trách nhiệm về những tổn thất hoặc hư hỏng
hàng do những sai sót trong điều khiển, trong việc quản trị con tàu và trong
trường
hợp có hoả hoạn. Những miễn trách này sẽ không được áp dụng nếu việc tổn thất
hay hư hỏng hàng bị coi là do sự cẩu thả hoặc sơ suất trong việc quản lý tàu.
- Giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức:
Giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức được quy
định trong điều 22. Việc đánh giá bồi thường thiệt hại đối với mất mát hay hư
hỏng
hàng hoá được dựa trên cơ sở giá trị hàng hoá đó tại địa điểm và thời gian mà
hàng
hoá được giao cho người nhận hoặc tại địa điểm và thời gian lẽ ra hàng phải được
giao theo vận đơn. Giá trị của hàng hoá được xác định theo giá trao đổi hàng hoá
hiện hành, hay theo giá thị trường, hoặc theo giá thông thường của loại hàng
cùng
loại và cùng chất lượng. Có thể nhận thấy một điều quan trọng là giá trị hàng
hoá
được xác định tại địa điểm giao hàng. Nguyên tắc này được áp dụng cho việc
chuyên chở hàng hoá bằng đường biển theo quy tắc Hague-Visby, trong khi đó một
nguyên tắc ngược lại là tính trị giá hàng tại nơi xuất phát cộng với tiền cước
và