Luận văn thạc sĩ kinh tế: Giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay
3,020
295
126
- 28 -
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG GIAO NHẬN VÀ QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Thực trạng hoạt động giao nhận ở Việt Nam:
2.1.1. Sự ra đời và phát triển hoạt động giao nhận ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, nghề giao nhận đã hình thành từ lâu. Từ trước khi giải phóng, ở
miền nam đã có các công ty giao nhận nhưng phần lớn làm công việc khai quan
thuế vận tải đường bộ manh mún, nhỏ lẻ; một số khác là đại lý cho các hãng giao
nhận nước ngoài. Ở miền bắc, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi,
tháng 5 năm 1956, Bộ Công thương đã thành lập cơ quan chuyên làm giao nhận
mang tên Cục giao nhận mậu dịch đối ngoại với chức năng chính là quản lý, hướng
dẫn và trực tiếp tổ chức việc lưu thông hàng hoá giữa nước ta với nước ngoài.
Trong chế độ bao cấp, phạm vi dịch vụ giao nhận còn hạn chế. Những người giao
nhận chủ yếu lo giao hàng xuất, nhận hàng nhập tại các cảng trong nước. Thị
trường
giao nhận vì thế cũng rất nhỏ bé và không phát triển.
Trong những năm 60, các tổ chức giao nhận quốc tế ở Việt Nam mang tính
chất rất phân tán. Các đơn vị xuất nhập khẩu tự đảm nhận lấy công việc tổ chức
chuyên chở hàng hoá của mình, vì vậy các công ty xuất nhập khẩu đã thành lập
riêng phòng kho vận, chi nhánh xuất nhập khẩu, trạm giao nhận ở các cảng, ga
liên
vận đường sắt.
Với mục đích tập trung đầu mối quản lý, chuyên môn hoá khâu vận tải giao
nhận ở Việt Nam, năm 1970 Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương mại) đã thành lập
hai tổ chức giao nhận là :
+ Cục Kho vận kiêm Tổng công ty giao nhận ngoại thương, trụ sở tại Hải
Phòng
+ Công ty giao nhận đường bộ, trụ sở tại Hà Nội.
- 29 -
Năm 1976 Bộ Thương mại đã sáp nhập hai tổ chức nói trên, thành lập một
công ty giao nhận thống nhất là Tổng công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương
(Vietnam National Foreign Trade Forwarding and Warehousing Corporation -
VIETRANS). Trong thời kỳ bao cấp và đến tận năm 1989, VIETRANS là cơ quan
duy nhất, hoạt động như một tổng đại lý giao nhận độc quyền, được phép giao nhận
hàng hoá xuất nhập khẩu tại Việt Nam theo sự uỷ thác của các đơn vị xuất nhập
khẩu trong nước cũng như của các chủ hàng nước ngoài. Đánh giá một cách khách
quan, quyết định tập trung công tác giao nhận vào một mối thời kỳ này là hợp lý,
bởi lẽ trong hoàn cảnh bị cấm vận kinh tế, chúng ta cần phải có một tổ chức đủ
mạnh để phối hợp chặt chẽ với các ngành, hoàn thiện nhanh chóng chỉ thị của Nhà
nước về việc tiếp nhận hàng viện trợ của nước ngoài. Số hàng viện trợ này vào
Việt
Nam bằng nhiều phương thức khác nhau, số lượng thất thường tuỳ từng thời điểm.
Hơn nữa, số lượng hàng xuất khẩu những năm trong thời kỳ này chưa nhiều, trên
một số chuyến vận tải, phương tiện chuyên chở lúc thiếu lúc thừa nên cần có một
cơ
quan đứng ra thu xếp điều hoà chung để tránh tình trạng không giao được hàng đến
nơi quy định.
Tuy nhiên, từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế mở cửa theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước, hoạt động giao nhận ở Việt Nam đã có những
biến chuyển đáng ghi nhận. Vận tải hàng hoá bằng đường hàng không bắt đầu đóng
một vai trò lớn khi mà các công ty muốn sử dụng các dịch vụ vận tải hàng không
phải uỷ thác cho những người giao nhận vận tải hàng không bởi vì các hãng hàng
không sẽ chỉ trực tiếp giao dịch với những công ty lớn hơn chứ không phải với
những công ty vừa và nhỏ. Đồng thời các công ty vận tải hàng hải từ Mỹ, Tây Âu,
Nhật Bản cũng bắt đầu mở rộng phạm vi hoạt động của mình sang các cảng của
Việt Nam bởi vì nhiều khách hàng của những công ty này đã bắt đầu nhập khẩu
hàng hoá từ Việt Nam. Với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, các nhà đầu
tư nước ngoài đã đẩy mạnh việc đầu tư liên doanh liên kết với các đối tác Việt
Nam
trong việc xây dựng các khu chế xuất, nhà máy, khách sạn, cảng biển, sân bay
cũng
như nhiều công trình khác. Trong quá trình đó, những nhà đầu tư nước ngoài rất
cần
- 30 -
có những người làm công tác giao nhận kho vận thay mặt họ đảm nhận toàn bộ mọi
vấn đề liên quan đến thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải hàng hoá, vật tư, thiết
bị,
nguyên vật liệu của họ từ các địa điểm xuất phát ở nước ngoài tới tận công
trường
thi công ở Việt Nam hoặc ngược lại. Ở đây các nhà đầu tư nước ngoài yêu cầu
người làm giao nhận kho vận tổ chức sắp xếp khâu vận tải sao cho thiết bị,
nguyên
vật liệu, hàng hoá của họ có thể di chuyển nhanh chóng và kinh tế nhất qua nhiều
thủ tục công đoạn chuyên chở trên những chặng đường khác nhau, xuyên qua nhiều
biên giới quốc tế để từ kho của người cung cấp đến kho của người tiêu thụ một
cách
nhanh chóng, an toàn, kịp thời theo tiến độ thi công... Có thể nói giao nhận
quốc tế
lúc này là một đòi hỏi thiết yếu đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, cả mậu dịch và
viện trợ, cả hàng bách hoá và nguyên liệu, hàng công trình, cả hàng quốc doanh
và
hàng tư nhân, cả hàng trong nước và hàng quá cảnh.
Ngoài ra, kinh doanh dịch vụ giao nhận không phải bỏ vốn đầu tư ban đầu như
các ngành khác mà chủ yếu là chất xám, trình độ kỹ năng nghiệp vụ, nếu kinh
doanh khéo léo sẽ có lợi nhuận rất cao. Với những lý do đã nêu, hàng loạt doanh
nghiệp tại Việt Nam đã đổ xô vào hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận. Kể
từ đầu 1990, bên cạnh VIETRANS đã xuất hiện nhiều các công ty giao nhận vận tải
được phép hoạt động kinh doanh cung cấp dịch vụ cho khách hàng Việt Nam và
khách hàng nước ngoài tại Việt Nam. Tại thành phố Hồ Chí Minh ban đầu chỉ có
hai công ty giao nhận chuyên nghiệp tương đối toàn diện là VIETRANS SAIGON
và TRANSIMEX SAIGON thì tính đến đầu năm 1994 đã có tới gần 20 tổ chức làm
giao nhận. Ở miền Bắc, bên cạnh hai công ty lớn là VIETRANS và VIETFRACHT,
số công ty giao nhận tăng lên chậm hơn nhưng cũng phát triển hơn trước nhiều.
Các
doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận cũng đã bắt đầu vào
Việt Nam liên doanh liên kết với các đối tác trong nước, trở thành thách thức
không
nhỏ đối với các nhà giao nhận Việt Nam và làm tăng sự cạnh tranh trong lĩnh vực
này. Đến nay, cả nước có hơn 600 doanh nghiệp lớn nhỏ hoạt động trong lĩnh vực
giao nhận vận tải, tập trung chủ yếu và phát triển mạnh nhất ở thành phố Hồ Chí
Minh, trong số đó, 90% là các doanh nghiệp mới được thành lập từ năm 1994 đến
- 31 -
nay. Các doanh nghiệp này thành lập nhiều chi nhánh, văn phòng đại diện ở nhiều
nơi khác nhau, tập trung vào các thành phố có cảng hàng hoá như Hải Phòng, Đồng
Nai, Quy Nhơn, Vũng Tàu,... làm cho mạng lưới các công ty giao nhận càng trở nên
dày đặc. Bên cạnh đó, một số công ty tự tách ra thành các công ty con nhỏ hơn
như
Công ty giao nhận kho vận ngoại thương thành phố Hồ Chí Minh (Vinatrans
Saigon) tách ra thành nhiều công ty con như Công ty cổ phần vận tải ngoại thương
(Vinafreight), Công ty cổ phần giao nhận vận tải và thương mại (Vinalink)...,
làm
cho số lượng các công ty ngày càng tăng lên trong một thời gian rất ngắn. Mỗi
doanh nghiệp đều có một thế mạnh riêng và đăng ký kinh doanh với nhiều tên khác
nhau như: Công ty vận tải-thương mại-dịch vụ, Công ty giao nhận kho vận, Công ty
vận tải-giao nhận-thương mại, Công ty dịch vụ hàng hoá, Công ty giao nhận quốc
tế...
Bên cạnh đó, phạm vi của dịch vụ giao nhận cũng phát triển không ngừng. Các
doanh nghiệp không đơn thuần làm công việc giao nhận nội địa mà mở rộng ra bên
ngoài, triển khai đúng tính chất dịch vụ giao nhận quốc tế. Các doanh nghiệp tập
trung kinh doanh trong các lĩnh vực sau:
- Dịch vụ vận tải đa phương thức: đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, đường
hàng không
- Dịch vụ gom hàng lẻ đi thẳng hoặc qua chuyển tải
- Kinh doanh vận tải, xếp dỡ thiết bị đồng bộ, hàng siêu trường, siêu trọng và
hàng thông thường bằng đường biển, đường hàng không, đường bộ trong và ngoài
nước.
- Xuất nhập khẩu trực tiếp vật tư, hàng hoá, phương tiện thiết bị giao thông
vận tải, hàng tiêu dùng và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu hàng hoá cho các khách
hàng.
- Kinh doanh dịch vụ đại lý hàng hải, môi giới thuê tàu.
- Kinh doanh các dịch vụ khác như: khai thuê hải quan, giao hàng từ cửa đến
cửa, kinh doanh kho bãi..
- 32 -
Ngoài ra, chất lượng dịch vụ giao nhận cũng không ngừng được cải thiện. Các
doanh nghiệp trong khả năng tài chính của mình đều cố gắng đưa ra những dịch vụ
ưu đãi nhất, thuận lợi nhất, chất lượng cao, giá cước hạ để cố gắng thu hút
khách
hàng. Đội ngũ nhân viên giao nhận được trẻ hoá thật sự năng động, có kiến thức,
chuyên môn không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để hoàn thành tốt công việc.
Đến nay, ngành giao nhận ở Việt Nam đang phát triển rất mạnh. Trong tương
lai, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ hoàn toàn uỷ thác cho các công ty giao
nhận để thực hiện các công đoạn xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá nhằm đảm bảo
tính kinh tế, hiệu quả. Điều đó có nghĩa là ngành giao nhận vận tải thật sự đầy
tiềm
năng và đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
2.1.2. Thực trạng hoạt động giao nhận ở Việt Nam:
2.1.2.1. Các loại hình doanh nghiệp giao nhận hoạt động ở Việt Nam:
Như đã đề cập ở chương I, số lượng doanh nghiệp giao nhận hàng hoá xuất
nhập khẩu ở Việt Nam ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Nếu như trước
đây chỉ có một doanh nghiệp nhà nước duy nhất hoạt động trong lĩnh vực giao nhận
vận tải là VIETRANS thì đến nay đã có hàng trăm doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế cùng tham gia vào lĩnh vực này. Nhìn chung, các loại hình doanh
nghiệp giao nhận hoạt động ở Việt Nam hiện nay gồm có:
- Doanh nghiệp Nhà nước:
Trước đây, các doanh nghiệp giao nhận đều thuộc sở hữu của Nhà nước. Tuy
nhiên, với xu thế chung của thời đại và theo chủ trương của Đảng và Nhà nước,
các
doanh nghiệp này cũng dần chuyển sang công ty cổ phần và Nhà nước chỉ sở hữu
một phần rất nhỏ trong các công ty này. Điển hình là công ty Cổ phần kho vận
giao
nhận ngoại thương (Transimex) và Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển
(Gemadept) trước đây là công ty Nhà nước, nay đã trở thành công ty cổ phần. Tuy
nhiên, hiện nay vẫn còn một số doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước như Công ty
giao nhận kho vận ngoại thương (Vietrans), Công ty vận tải và thuê tàu
(Vietfracht).
Số lượng các công ty thuộc sở hữu Nhà nước không nhiều nhưng các công ty này
lại có cơ sở vật chất tốt do được sự đầu tư ban đầu của Nhà nước như trụ sở, kho
- 33 -
bãi... Tuy nhiên, một số công ty lại tỏ ra làm ăn không có hiệu quả nên trong
tương
lai, Nhà nước sẽ có chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp này để tạo đòn bẩy
thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sao cho đạt hiệu quả tốt
nhất.
- Doanh nghiệp cổ phần:
Đây là loại hình doanh nghiệp chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong ngành giao
nhận vận tải hàng hoá. Các doanh nghiệp cổ phần có xuất phát điểm từ doanh
nghiệp Nhà nước hiện nay đều hoạt động kinh doanh rất có hiệu quả do có cơ sở
vật
chất kỹ thuật tốt, lãnh đạo doanh nghiệp năng động và đội ngũ nhân viên có trình
độ, được đào tạo đầy đủ. Một số doanh nghiệp như Transimex, Gemadept còn đầu
tư xây dựng cả hệ thống cảng cạn (ICD) để kinh doanh. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp cổ phần không có xuất phát điểm từ doanh nghiệp Nhà nước như Công ty cổ
phần đại lý vận tải (SAFI) cũng hoạt động kinh doanh tương đối tốt và đóng góp
nhiều cho ngân sách Nhà nước. Đây là những tín hiệu đáng mừng cho ngành giao
nhận vận tải của Việt Nam.
- Doanh nghiệp tư nhân:
Đây là loại hình doanh nghiệp chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong số hơn 600 doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận ở Việt Nam. Từ khi có chủ trương mở cửa hội
nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước, số doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh
dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá tăng vọt. Do giao nhận không phải là một nghề
phải bỏ nhiều vốn đầu tư nên rất nhiều doanh nhân đã thành lập doanh nghiệp giao
nhận để kinh doanh dịch vụ này. Tuy nhiên, phần lớn các công ty này có vốn rất
nhỏ, văn phòng hầu hết là đi thuê, kho bãi đều không có, phương tiện vận chuyển
không nhiều nên chỉ thích hợp trong việc vận chuyển hàng hoá nội địa. Họ không
có mạng lưới đại lý ở nước ngoài nên rất khó khăn trong việc vận chuyển hàng hoá
quốc tế vì không thể theo dõi được hành trình của hàng hoá. Hơn nữa với số vốn
ít
ỏi của mình, thậm chí họ không thể thay mặt khách hàng trả tiền cước vận chuyển
cho người chuyên chở. Chính vì thế mà nhiều công ty tư nhân khi có trong tay một
luồng hàng để vận chuyển đi nước ngoài, họ đã không thể trực tiếp thực hiện dịch
vụ của mình mà phải thông qua các công ty giao nhận lớn, có uy tín để gửi hàng
với
- 34 -
giá cước tốt và có thể lợi dụng được nguồn vốn dồi dào của các công ty này. Một
số
công ty tư nhân hiện nay còn có biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh bằng cách
phá giá thị trường nhằm lôi kéo khách hàng quen thuộc của các công ty lớn hơn,
kinh doanh chộp giật, thiếu trách nhiệm trong nghiệp vụ, thiếu kiểm tra chặt chẽ
trong kinh doanh để khách hàng lợi dụng buôn lậu. Điều này gây rất nhiều khó
khăn
cho công tác quản lý Nhà nước, làm phương hại không những về kinh tế mà cả về
uy tín của Việt Nam đối với bạn hàng quốc tế.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Nếu như trước đây, hầu hết các công ty giao nhận trong nước đều làm đại lý
cho các hãng giao nhận vận tải lớn của nước ngoài thì vài năm trở lại đây, cùng
với
chủ trương mở cửa hội nhập của Đảng và Nhà nước, các công ty giao nhận nước
ngoài bắt đầu tham gia vào thị trường giao nhận Việt Nam dưới hình thức liên
doanh với một doanh nghiệp giao nhận trong nước. Có thể kể tên một vài công ty
liên doanh như: Công ty liên doanh TNHH Nippon Express Việt Nam (Nippon
Express Vietnam), Công ty liên doanh TNHH giao nhận hàng hoá Jupiter Pacific
(Jupiter Pacific), Công ty liên doanh vận tải Việt Nhật (Javitrans), Công ty
liên
doanh Việt Pháp (Gemartrans), Công ty liên doanh Phili-Orient Lines Vietnam
(Phili-Orient)... Các công ty này kinh doanh tương đối tốt do tiếp cận được công
nghệ tiên tiến của các hãng giao nhận nước ngoài. Hầu hết các công ty này đều có
mạng lưới ở khắp nơi trên thế giới và có hệ thống mạng nội bộ giữa các chi nhánh
ở
các nước với nhau. Chính vì điều này nên các công ty liên doanh thu hút được rất
nhiều khách hàng do họ yên tâm bởi lúc nào cũng có thể biết hàng hoá của mình
đang đi đến đâu. Khách hàng của các công ty này chủ yếu là các công ty có vốn
đầu
tư nước ngoài khác hoạt động ở nhiều ngành sản xuất khác nhau. Chẳng hạn như
khách hàng của các công ty giao nhận liên doanh với Nhật sẽ là các công ty của
Nhật khác đang hoạt động ở Việt Nam như Matsushita, Honda, Toyota, Canon,
Sumitomo Bakelite... Đây là các khách hàng lớn và thường xuyên có nguồn hàng
vận chuyển đi khắp các châu lục. Tuy nhiên, các doanh nghiệp giao nhận trong
nước khó có thể lấy được các khách hàng này do điều kiện về cơ sở vật chất còn
- 35 -
yếu kém cũng như khả năng marketing chưa tốt. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho
các
doanh nghiệp giao nhận của Việt Nam, đặc biệt là các công ty giao nhận có uy tín
như Vinatrans, Transimex, Vietfracht... là làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình trên chính thị trường Việt Nam.
2.1.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật của hoạt động giao nhận:
Dịch vụ giao nhận kho vận được đánh giá là ngành tạo ra giá trị gia tăng cao,
đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các ngành sản xuất, hoạt
động
xuất nhập khẩu phát triển. Tuy nhiên, cũng như bao ngành dịch vụ khác của Việt
Nam, ngành giao nhận kho vận vẫn còn ở giai đoạn sơ khai.
Mặc dù giao nhận là một ngành dịch vụ không đòi hỏi phải có vốn lớn như các
ngành sản xuất song nó cũng đòi hỏi phải có cơ sở vật chất kỹ thuật tối thiểu
của
doanh nghiệp giao nhận như kho hàng hoá, phương tiện chuyên chở... Nhìn chung,
cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp giao nhận ở Việt Nam còn rất nghèo
nàn, lạc hậu.
Xét riêng về lĩnh vực kho bãi, nhiều doanh nghiệp nắm trong tay hàng trăm
ngàn mét vuông kho bãi, nhưng tỷ lệ kho đủ tiêu chuẩn rất thấp. Phần lớn các
doanh
nghiệp đầu tư cơ sở vật chất rất sơ sài nên không đảm bảo an toàn cho hàng hoá,
nhiều kho dễ bị ngập nước, dẫn đến tình trạng mất cắp, hư hỏng. Từ đó có thể nói
năng lực cung cấp dịch vụ kho bãi dù rất lớn nhưng vẫn không đáp ứng nhu cầu.
Khách hàng sử dụng dịch vụ chỉ đổ về những địa chỉ có hệ thống kho được đầu tư
tốt trong khi rất nhiều kho khác không có việc làm hoặc quá dư thừa công suất.
Theo như ước tính, để đầu tư xây dựng 1.000 m2 kho phải mất gần 1 tỷ đồng, nếu
tính cả tiền thuê đất chi phí sẽ lớn hơn rất nhiều. Nhất là những vị trí thuận
lợi để
làm kho thì chi phí thuê đất càng là gánh nặng doanh nghiệp khó có thể kham nổi.
Chính vì vậy, đối với nhiều doanh nghiệp hiện nay, vấn đề kho bãi để chứa hàng
hoá là cả một bài toán hóc búa.
Đầu tư vận tải cũng là vấn đề khá gai góc đối với nhiều doanh nghiệp. Theo bà
Trần Thị Nguyên Hằng - Phó tổng giám đốc Transimex Saigon, cách tính chi phí để
nộp ngân sách hiện còn bất hợp lý. Chi phí khấu hao xe cộ, trang thiết bị hiện
còn
- 36 -
nhiều bất hợp lý. Chi phí khấu hao kéo dài cả chục năm và phải tăng giá trị khi
tu
bổ xe. Mặc dù Transimex Saigon đã cổ phần hoá, chỉ còn 10% vốn nhà nước,
nhưng hạch toán vẫn phải áp theo quy chế doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy, đầu tư
xe đối với doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã thuận lợi hơn. Những doanh nghiệp
này thường được khoán thuế và không chịu các quy định về hạch toán chi phí như
các doanh nghiệp chịu chi phối bởi luật doanh nghiệp Nhà nước. Hơn nữa, vận tải
là ngành kinh doanh theo mùa. Có mùa dư thừa xe, nhà xe đi năn nỉ khách hàng. Có
mùa không đủ xe chạy, giá thuê xe lại tăng lên, nên các doanh nghiệp giao nhận
kho
vận chưa quan tâm mấy đến lĩnh vực này. Với nhiều doanh nghiệp, ngay cả với
doanh nghiệp lớn như Transimex Saigon, đội xe tự trang bị chỉ đáp ứng khoảng
50% nhu cầu, còn lại công ty đi thuê lại các doanh nghiệp khác.
Về lĩnh vực công nghệ thông tin, gần đây, các doanh nghiệp giao nhận kho vận
đã đầu tư nhiều cho lĩnh vực này nhằm nâng cao năng lực giao dịch, tiếp thị. Tuy
nhiên, nếu so với các hãng giao nhận lớn trên thế giới thì công nghệ thông tin
của
Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn sơ khai. Ở một số doanh nghiệp liên doanh của Việt
Nam hiện nay cũng đã có hệ thống mạng kết nối với tất cả các công ty chi nhánh
trên thế giới để thuận tiện cho việc giao dịch và kiểm tra tình trạng hàng hoá.
Tuy
nhiên, hầu hết các doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam, đặc biệt là các công ty tư
nhân nhỏ đều chưa thể có hệ thống này bởi lẽ họ chưa có được các chi nhánh ở
nước ngoài mà chỉ đơn thuần làm đại lý cho một số hãng giao nhận lớn mà thôi.
Nhìn chung, ngành giao nhận Việt Nam còn ở giai đoạn mới phát triển, cơ sở
vật chất kỹ thuật còn rất lạc hậu so với các nước tiên tiến trên thế giới. Bên
cạnh đó,
do khả năng tài chính eo hẹp nên sự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của các
doanh
nghiệp giao nhận Việt Nam còn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến làm giảm
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ nước ngoài.
2.1.2.3. Sự cạnh tranh trên thị trường giao nhận vận tải hiện nay:
* Nguyên nhân chủ yếu làm thay đổi tính chất và tình hình cạnh tranh:
Khi tham gia kinh doanh trên thị trường giao nhận vận tải, các phương thức
vận tải chịu tác động trực tiếp và to lớn của xu hướng biến động tình hình thế
giới.
- 37 -
Xu hướng đó phản ánh đặc điểm chủ yếu của môi trường kinh doanh hiện đại đầy
biến động và phức tạp, đặt ra thách thức mới buộc phải không ngừng nâng cao khả
năng cạnh tranh trên thị trường. Những nguyên nhân chủ yếu làm thay đổi tính
chất
và tình hình cạnh tranh hiện nay có thể kể đến như sau:
- Xu hướng phát triển quy mô lớn và đa phương hoá các ngành dịch vụ.
Ngành dịch vụ đang tiến gần tới quy mô lớn và đa phương hoá, tiếp thu mô
thức quản lý của ngành sản xuất hàng, sử dụng một số lượng lớn thành quả khoa
học kỹ thuật, thực hiện phương thức kinh doanh quy mô lớn.
Sự hợp tác về dịch vụ theo khu vực cũng được chú ý nâng cao cụ thể như hợp
tác giữa Việt Nam và các nước ASEAN, giữa Việt Nam và APEC. Trong sự hợp tác
tất yếu dẫn tới quan hệ đa phương và có sự cạnh tranh trong điều kiện mới của
nền
kinh tế thế giới. Đây vừa là cơ hội đồng thời là thách thức đối với dịch vụ giao
nhận
vận tải hàng hoá quốc tế của Việt Nam.
- Xu hướng toàn cầu hoá giao nhận vận tải đi đến những mối liên kết hoặc độc
quyền kinh doanh.
Ngày nay, do cạnh tranh ngày càng gay gắt, các công ty nhỏ có nguy cơ bị thu
hẹp dần thị phần, bị phá sản hay trở thành nhà thầu phụ hay bị mua lại bởi các
tập
đoàn giao nhận vận tải lớn. Trong những năm gần đây, quá trình tập trung hoá,
toàn
cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, trong giao nhận vận tải là những liên kết giữa các hãng
hàng không, tàu biển với các hãng giao nhận quốc tế để kết hợp thế mạnh vận tải
từ
cảng tới cảng, sân bay đến sân bay của các hãng vận tải và mạng lưới giao nhận
toàn cầu của các hãng giao nhận quốc tế. Bên cạnh đó, các công ty có quy mô nhỏ
hơn cũng liên minh, liên kết lại với nhau để đối phó lại sức cạnh tranh từ các
hãng,
tập đoàn giao nhận lớn trong xu thế toàn cầu hoá về mọi mặt.
- Sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học công nghệ đặc biệt là công
nghệ thông tin đã tạo những điều kiện to lớn cho việc giao lưu, thu thập, nắm
bắt,
xử lý thông tin trên các thị trường. Tranh thủ tận dụng các thành tựu khoa học
công
nghệ tạo thế cạnh tranh về chiến lược trên cơ sở tiết kiệm chi phí và sử dụng
hiệu
quả các nguồn lực là một trong những đặc điểm quan trọng hiện nay.