Luận văn thạc sĩ kinh tế: Giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay
3,016
295
126
- 18 -
1.2.1. Khái niệm về quản lý và quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất
nhập khẩu:
Khái niệm quản lý:
Quản lý là một khái niệm có nội hàm xác định, song lâu nay thường có các
cách định nghĩa, cách hiểu khác nhau và được thể hiện bằng các thuật ngữ khác
nhau. Tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học quản lý, vấn đề cơ bản đã được
làm
sáng tỏ để có một cách hiểu thống nhất.
Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi loại hoạt động. Nó phát
sinh từ sự phân công lao động xã hội, cần thiết phải phối hợp hành động của các
cá
nhân, các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực hiện
mục
tiêu chung của tổ chức.
Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các thành viên trong tổ chức hành động
nhằm
đạt tới mục tiêu với kết quả tốt nhất.
Như vậy, quản lý phải bao gồm các yếu tố sau:
- Phải có một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra tác động quản lý và đối tượng
bị quản lý. Đối tượng bị quản lý phải tiếp nhận và thực hiện tác động quản lý.
Tác
động quản lý có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.
- Phải có mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng. Mục tiêu này là căn cứ
chủ yếu để tạo ra các tác động. 14 , 16 , 17
Có thể có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tổ chức quản lý, song đa số đều
cùng thống nhất về một số nội dung chính của công tác quản lý như sau:
+ Bất kỳ một tổ chức nào đều phải có hoạt động quản lý.
+ Quản lý vừa là một khoa học, vừa là nghệ thuật.
+ Quản lý là toàn bộ công việc của chủ thể quản lý để tổ chức, tập hợp, phát
huy mọi nguồn lực, hoàn thành mục tiêu của tổ chức trong điều kiện môi trường
luôn biến động.
- 19 -
+ Quản lý là những hoạt động tổng hợp, bao gồm những mặt chính trị, kinh tế,
xã hội, pháp lý, nhân văn, để tác động có hướng đích đến đối tượng quản lý, nhằm
đạt được những kết quả cao nhất, hiệu quả nhất với các mục tiêu đã định trước
của
tổ chức.
+ Mỗi lĩnh vực hoạt động đều có những yêu cầu chung của khoa học quản lý
và những đặc điểm riêng thể hiện trong công tác tổ chức quản lý lĩnh vực của
mình.
Khái niệm quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu:
Quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu là một bộ phận của
khoa học quản lý nói chung và công tác quản lý của toàn ngành giao nhận kho vận
nói riêng. Quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu chính là sự tác
động có chủ đích của Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước tới các
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá xuất nhập
khẩu nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, ổn định cho sự phát triển của
toàn ngành.
Cũng như các hình thức quản lý khác, quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá
xuất nhập khẩu cũng bao gồm những nội dung, những yếu tố chung thuộc ngành
quản lý. Tuy nhiên, do đặc thù của hoạt động kinh doanh giao nhận hàng hoá xuất
nhập khẩu nên nội dung quản lý của Nhà nước bao gồm:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển.
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giao nhận
vận tải.
- Hướng dẫn thực hiện và tuyên truyền pháp luật về giao nhận vận tải.
- Quy định về tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp giao nhận vận tải.
- Đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động giao nhận.
- Thống kê Nhà nước về giao nhận vận tải.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, xử lý vi phạm pháp luật về giao
nhận.
- Hợp tác quốc tế về giao nhận.
- 20 -
Như vậy, nói đến quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu là nói
đến vai trò của Nhà nước. Bằng hệ thống luật và các văn bản dưới luật, Nhà nước
quản lý các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận nhằm đạt được mục
đích cuối cùng là phát triển ngành giao nhận nói riêng và phát triển toàn bộ nền
kinh tế nói chung. Do đó, ý nghĩa nội dung quản lý Nhà nước chính là để ổn định
hoá và thuận lợi hoá môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp và đảm bảo sự
phối hợp đồng bộ các công cụ quản lý khác nhau nhằm củng cố năng lực cạnh tranh
của dịch vụ nội địa. Nhà nước với vai trò quản lý của mình sẽ giúp đa dạng hoá
hình thức, phương thức hoạt động, phát huy mọi lợi thế so sánh của quốc gia và
quốc tế có được ở mọi hình thức và phương thức đó. Các văn bản luật và dưới luật
được ban hành tạo cơ sở pháp lý để cụ thể hoá các điều kiện ràng buộc cũng như
ưu
đãi trong mọi hình thức, và để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình
hoạt
động giữa các bên.
1.2.2. Sự cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động giao
nhận hàng hoá xuất nhập khẩu
Hoạt động kinh doanh là một lĩnh vực rất cần có sự quản lý, với tính đặc thù rõ
rệt so với các hoạt động khác. Đối với bất kỳ một tổ chức hay một doanh nghiệp
nào đều cần phải có sự quản lý. Sở dĩ như vậy là bởi vì hoạt động kinh doanh của
bất kỳ một tổ chức hay doanh nghiệp nào dù ít hay nhiều đều có tác động đến nền
kinh tế của đất nước, tác động tới cung cầu thị trường. Do đó, việc quản lý Nhà
nước đối với các doanh nghiệp này không nằm ngoài mục đích là tạo dựng một nền
tảng pháp lý ổn định để các doanh nghiệp có điều kiện phát triển, tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp và tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, sự phát triển
không ngừng của các doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc tạo ra một số lượng
công ăn việc làm cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp cho xã hội.
Không
những thế, quản lý Nhà nước còn góp phần đẩy lùi tệ nạn buôn lậu và gian lận
thương mại, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh và tình trạng lũng đoạn thị
trường
của một số doanh nghiệp lớn. Vì vậy, bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng cần
phải có sự quản lý của Nhà nước.
- 21 -
Cùng với sự phát triển kinh tế chung của đất nước, nhu cầu giao nhận vận tải
hàng hoá ngày càng lớn mạnh và do đó, vấn đề quản lý hoạt động giao nhận sao cho
có hiệu quả lại được đặt ra cấp thiết. Cũng như các tổ chức kinh tế - xã hội
khác,
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải hàng hoá là đối
tượng
của công tác quản lý, với các chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu chung của khoa học
quản lý.
Hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động giao nhận hàng hoá xuất
nhập khẩu nói riêng luôn là lĩnh vực nhạy cảm và có nhiều ảnh hưởng đến nền kinh
tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là khi xu thế mở cửa và hội nhập đang diễn ra ngày
càng nhanh chóng. Thực tế hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu của nước
ta trong vài năm qua đã có những tiến bộ đáng kể, khối lượng hàng hoá xuất nhập
khẩu tăng mạnh, hoạt động tại các cảng biển, sân bay, nhà ga trở nên tấp nập.
Mặc
dù vậy, tổ chức quản lý Nhà nước đối với hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập
khẩu còn nhiều bất cập, không hợp lý. Sự phối hợp quản lý giữa các cơ quan Nhà
nước liên quan chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ nên đã nảy sinh không ít tiêu cực
như:
phá giá, kinh doanh không đăng ký để trốn thuế, kinh doanh không đúng ngành
nghề,... Thực tiễn tình hình hoạt động giao nhận vận tải và quản lý hoạt động
này
trong thời gian qua đòi hỏi nhanh chóng có sự đổi mới để kịp thời thích nghi,
hoàn
thiện công tác quản lý của Nhà nước đối với hoạt động giao nhận hàng hoá xuất
nhập khẩu. Tuy nhiên, nâng cao hiệu quả quản lý đối với hoạt động giao nhận là
một công việc phức tạp vì nó liên quan đến nhiều cơ quan chức năng khác nhau.
Chính vì vậy, cần phải có sự thống nhất và phối hợp đồng bộ giữa các ban ngành
nhằm đạt được hiệu quả mong muốn.
1.2.3. Quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu
1.2.3.1. Chủ thể quản lý
Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra tác động quản lý. Chủ thể quản lý hoạt động
giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu chính là các cơ quan chức năng của Nhà nước
trực tiếp quản lý các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải
hàng
hoá.
- 22 -
Ở Việt Nam, chủ thể quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu rất
đa dạng. Sở dĩ như vậy là vì hiện nay, số lượng các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu rất nhiều và thuộc nhiều thành
phần kinh tế khác nhau. Cũng vì thế mà các cơ quan quản lý các doanh nghiệp này
cũng rất khác nhau. Một số doanh nghiệp trực thuộc sự quản lý của Bộ Thương mại
(Vietrans, Vinatrans...); một số thuộc sự quản lý của Bộ giao thông vận tải
(Vinafco); một số doanh nghiệp lại do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố quản
lý
(như Transimex Saigon do Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quản lý), hoặc
một số khác lại do Sở Kế hoạch đầu tư của các tỉnh, thành phố quản lý (như
Nippon
Express Vietnam do Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Hồ Chí Minh quản lý). Sở dĩ có
nhiều cấp quản lý như vậy là do hầu hết hoạt động giao nhận do Bộ Thương mại
quản lý, hoạt động vận tải do Bộ Giao thông quản lý. Tuy nhiên, các doanh nghiệp
hầu như đều hoạt động đồng thời cả giao nhận và vận tải nên không có sự phân
định
rạch ròi giữa các cơ quan quản lý Nhà nước. Ngoài ra, ở các nước phát triển, các
công ty xuất nhập khẩu đều uỷ thác toàn bộ khâu lưu thông, phân phối hàng hoá
cho các nhà giao nhận vận tải chuyên nghiệp để họ có thời gian tập trung mở rộng
sản xuất. Tuy nhiên ở Việt Nam, do quy mô sản xuất còn nhỏ bé nên nhiều công ty
xuất nhập khẩu tự mình lo liệu thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá từ kê khai hải
quan
đến liên hệ với các hãng tàu hay hãng hàng không để vận chuyển hàng hoá nhằm
tiết kiệm chi phí. Do đó dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp thuộc Bộ nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường... cũng tham
gia làm giao nhận. Điều này dẫn đến tình trạng có rất nhiều cấp quản lý đối với
ngành nghề này. Chính vì vậy, việc quản lý các doanh nghiệp giao nhận hàng hoá
xuất nhập khẩu ở Việt Nam rất khó khăn và chưa có một cơ quan quản lý Nhà nước
nào có trách nhiệm quản lý toàn bộ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
giao
nhận một cách độc lập.
Hiện nay, Việt Nam đã thành lập được Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam
(VIFFAS). Tuy nhiên, đây cũng chưa phải là cơ quan quản lý các doanh nghiệp
giao nhận kho vận mà mới chỉ là một tổ chức nghề nghiệp nhằm kiến tạo mối quan
- 23 -
hệ hợp tác, liên kết, hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau giữa các hội viên. Không những
thế,
số hội viên của Hiệp hội hiện nay mới chỉ là 82 hội viên, trong đó 61 là hội
viên
chính thức và 21 là hội viên liên kết; trong khi tổng số các doanh nghiệp hoạt
động
trong lĩnh vực giao nhận vận tải hàng hoá không ít hơn 600 doanh nghiệp. Do đó,
ngay cả khi Nhà nước muốn quản lý các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
giao nhận thông qua Hiệp hội thì cũng rất khó khăn.
Như vậy, do có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải
hàng hoá, mà các doanh nghiệp này trực thuộc các bộ chủ quản khác nhau nên chủ
thể quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu cũng có nhiều cấp quản
lý khác nhau. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể quản lý các doanh nghiệp
giao
nhận một cách thống nhất.
1.2.3.2. Đối tượng quản lý
Đối tượng quản lý là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ giao
nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Đối tượng quản lý này cũng rất đa dạng, phong phú
và thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Trước đây, các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực giao nhận hầu hết là các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên,
trong khoảng vài năm trở lại đây, số doanh nghiệp giao nhận tăng vọt do sự góp
mặt
của nhiều công ty tư nhân nhỏ lẻ. Sở dĩ như vậy là do giao nhận là một nghề
không
cần phải đầu tư nhiều vốn, do đó nó rất thích hợp đối với các công ty tư nhân
nhỏ
với các tên gọi: Công ty vận tải thương mại dịch vụ, công ty vận tải giao nhận
thương mại, công ty dịch vụ hàng hoá... Hoạt động chủ yếu của các công ty này
chỉ
là vận chuyển hàng hoá nội địa và khai thuê hải quan. Họ hầu như không làm đại
lý
cho bất kỳ hãng giao nhận nước ngoài nào do cơ sở vật chất hầu như không có gì,
đồng thời không có uy tín trong thị trường giao nhận trong nước và quốc tế. Tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng có một số công ty tư nhân được thành lập ra với cái vỏ
bề
ngoài là đại lý cho một hãng giao nhận lớn của nước ngoài nhưng thực chất toàn
bộ
hoạt động của doanh nghiệp này bị hãng giao nhận nước ngoài thao túng.
Ngoài ra, theo chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, nhiều
công ty giao nhận thuộc sở hữu của Nhà nước hiện nay đã chuyển sang công ty cổ
- 24 -
phần và số cổ phần mà Nhà nước nắm giữ trong các doanh nghiệp này chỉ chiếm
phần nhỏ (khoảng 10%). Điển hình cho loại hình doanh nghiệp này là công ty
Transimex Saigon và Vinatrans Hanoi, trong đó Transimex Saigon đã được niêm
yết cổ phiếu lên thị trường chứng khoán Việt Nam và đã thu hút được nhiều nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào công ty.
Với chủ trương mở cửa hội nhập của Đảng và Nhà nước, một số công ty giao
nhận nước ngoài đã tham gia vào thị trường giao nhận Việt Nam dưới hình thức
liên
doanh với các doanh nghiệp giao nhận trong nước. Các công ty này hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam, tuân thủ luật pháp của Việt Nam nên cũng là đối tượng quản lý
của Nhà nước. Số doanh nghiệp liên doanh này hiện nay chưa nhiều song đang có
xu hướng tăng mạnh do chủ trương mở cửa của nước ta. Hiện nay, một số công ty
giao nhận liên doanh đang hoạt động ở thị trường Việt Nam như Draco, Nippon
Express Vietnam, Vijaco... đã đóng góp nhiều cho sự phát triển của ngành giao
nhận nước nhà.
Như vậy, đối tượng quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu ở
Việt Nam hiện nay rất đa dạng, phong phú, thuộc nhiều thành phần kinh tế khác
nhau và do đó công tác quản lý sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
1.2.3.3. Công cụ quản lý:
Công cụ quản lý của Nhà nước là các văn bản luật và dưới luật. Hiện nay, các
doanh nghiệp giao nhận vận tải hàng hoá đã được các cơ quan quản lý Nhà nước tạo
điều kiện thuận lợi để có thể chủ động trong hoạt động kinh doanh. Thể hiện rõ
nhất
là các chiến lược phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ thương mại (Bộ
Thương
mại) và dịch vụ hàng hải (Bộ Giao thông vận tải) đã được vạch ra và đề đạt Chính
phủ quyết định. Các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động doanh nghiệp nói
chung và doanh nghiệp giao nhận kho vận nói riêng được ban hành hoặc tiến hành
rà soát sửa đổi để ban hành như luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh, luật thương
mại,
luật hàng hải... Các văn bản dưới luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động giao nhận
kho
vận cũng đã được ban hành.
- 25 -
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có quy chế đầy đủ cho hoạt động của doanh
nghiệp giao nhận kho vận. Các văn bản pháp quy thiếu đồng bộ, thiếu phối hợp
chặt
chẽ giữa các cơ quan quản lý đã gây khó khăn cho kinh doanh của doanh nghiệp và
tạo kẽ hở để doanh nghiệp lợi dụng kinh doanh lộn xộn dẫn đến những hậu quả tiêu
cực.
Nhìn chung, các văn bản pháp luật hiện nay có liên quan đến hoạt động giao
nhận vận tải hàng hoá bao gồm:
- Bộ luật hàng hải Việt Nam ngày 30/6/1990 áp dụng trong hoạt động kinh
doanh vận tải biển.
- Luật Thương mại Việt Nam được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp lần
thứ 11 ngày 10/5/1997 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1998, trong đó mục 10 (từ điều
163 đến điều 171) có quy định về dịch vụ giao nhận hàng hoá.
- Luật hàng không dân dụng Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày
26/12/1991 được thi hành từ 1/6/1992 và đã được sửa đổi 20/4/1995. Đây là văn
bản luật có giá trị pháp lý cao nhất trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ vận tải
hàng
không.
- Nghị định 10/2001 NĐ-CP ban hành ngày 19/3/2001, quy định về điều kiện
kinh doanh dịch vụ hàng hải ở Việt Nam.
- Nghị định 125/2003 NĐ-CP ban hành ngày 29/10/2003 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2004 quy định về vận tải đa phương thức quốc tế.
Như vậy, công cụ quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu là các
văn bản luật và dưới luật. Tuy nhiên, các văn bản này hiện nay còn chưa rõ ràng,
nhiều văn bản dưới luật còn chồng chéo nhau gây khó khăn cho các doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực này.
1.2.4. Điều kiện để được phép hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá:
Theo điều I, Bộ luật Thương mại của Pháp, thương nhân là những người ký
hợp đồng thương mại và coi việc ký kết và thực hiện các hợp đồng thương mại là
nghề nghiệp thường xuyên của mình.
- 26 -
Theo điều 104 Bộ luật Thương mại thống nhất của Mỹ, thương nhân là những
người ký kết hợp đồng thương mại, thực hiện nghiệp vụ kinh doanh thương mại, coi
việc ký kết và thực hiện các hợp đồng thương mại là nghề nghiệp thường xuyên của
mình. Đối với những hàng hoá thuộc chủng loại nhất định và xét về tính chất
nghiệp vụ của mình họ được coi là những người có kiến thức hoặc kinh nghiệm đặc
biệt trong nghiệp vụ đó.
Theo Luật Thương mại Việt Nam, thương nhân là những chủ thể có đăng ký
kinh doanh hoạt động thương mại độc lập và thường xuyên.
* Điều kiện để trở thành thương nhân:
a) Điều kiện cần:
- Các chủ thể phải tồn tại dưới các dạng sau:
Cá nhân
Pháp nhân
Hộ gia đình
Tổ hợp tác
- Tham gia hoạt động thương mại.
- Các hoạt động thương mại phải được tiến hành một cách độc lập.
Các chủ thể chịu trách nhiệm trực tiếp về hành vi của mình.
Các chủ thể có quyền tự do quyết định nội dung hoạt động hoặc thời
gian làm việc của mình.
- Các hoạt động thương mại phải được các chủ thể tiến hành một cách thường
xuyên.
b) Điều kiện đủ:
Muốn trở thành thương nhân các chủ thể phải được cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh.
* Các loại thương nhân:
- Cá nhân
- Pháp nhân là thương nhân
Doanh nghiệp nhà nước
- 27 -
Hợp tác xã
Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã hội; của lực lượng vũ trang;
của các tổ chức xã hội nghề nghiệp
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Công ty cổ phần
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Hộ gia đình
Tổ hợp tác
Như vậy theo luật Việt Nam, mọi chủ thể kinh tế, nếu đạt 4 điều kiện cần và
điều kiện đủ và có đăng ký kinh doanh kho vận thì được phép hoạt động kinh doanh
dịch vụ giao nhận hàng hoá.