Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp hoàn thiện văn hóa tổ chức tại Công ty COSCO SHIPPING Lines (Việt Nam)
5,784
829
144
3
Đối tượng khảo sát: Các nhân viên đang làm việc tại Công ty COSCO
TPHCM và khách hàng của Công ty.
Thời gian thực hiện nghiên cứu: từ tháng 6/2017 đến tháng 10/2017.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn này là phương pháp
nghiên cứu hỗn hợp, kết hợp giữa nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng và
nguồn dữ liệu thứ cấp về các tài liệu văn hoá tổ chức tại COSCO.
- Dựa trên cơ sở lý thuyết về các cấp độ văn hoá tổ chức của Schein và thang
đo đánh giá văn hoá tổ chức của Denison (Phụ lục 1), tác giả thực hiện thảo luận
với
ban lãnh đạo và một số nhân viên gắn bó lâu năm với công ty nhằm điều chỉnh bảng
câu hỏi khảo sát nhân viên và khách hàng cho phù hợp với tính chất hoạt động của
COSCO (Chi tiết dàn bài thảo luận nhóm và kết quả được trình bày ở phụ lục 2).
- Thực hiện khảo sát toàn thể nhân viên COSCO ở Hồ Chí Minh bằng bảng
câu hỏi chính thức theo thang đo Likert 5 điểm, tổng số 104 phiếu phát ra và số
phiếu thu về là 98 phiếu (Chi tiết bảng câu hỏi được trình bày ở phụ lục 3).
Thông
tin thu thập được xử lý bằng kỹ thuật tính giá trị trung bình mức đánh giá của
từng
mục hỏi, thống kê theo tỷ lệ phần trăm và kiểm định độ tin cậy bằng hệ số
Cronbach
alpha (Kết quả khảo sát được trình bày ở phụ lục 7, kết quả kiểm định thang đo
SPSS được trình bày ở phụ lục 9).
- Thực hiện khảo sát khách hàng của COSCO bằng bảng câu hỏi chính thức
theo thang đo Likert 5 điểm, danh sách khách hàng được chọn là 100 khách hàng
theo thứ tự từ trên xuống dựa trên mức độ giao dịch thường xuyên và sản lượng
hàng hóa giao dịch với COSCO trong năm 2016, tổng số 100 phiếu được gửi đi và
số phiếu thu về là 100 phiếu (Chi tiết bảng câu hỏi được trình bày ở phụ lục 4).
Thông tin thu thập được xử lý bằng cách tính giá trị trung bình mức đánh giá của
từng mục hỏi, thống kê theo tỷ lệ phần trăm và kiểm định độ tin cậy bằng hệ số
Cronbach alpha (Kết quả khảo sát được trình bày ở phụ lục 8, kết quả kiểm định
thang đo SPSS được trình bày ở phụ lục 10).
4
- Thực hiện phỏng vấn chuyên gia với ban lãnh đạo và thu thập dữ liệu thứ cấp
nhằm tổng hợp các thông tin để phân tích các ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân hạn
chế trong văn hoá tổ chức COSCO. Đồng thời, phỏng vấn chuyên gia với Ban Giám
đốc Công ty về định hướng phát triển của Công ty, đánh giá mức độ ưu tiên các
hạn
chế cần giải quyết.
5. Ý nghĩa của đề tài
Công ty COSCO vừa hoàn tất sơ bộ quá trình sát nhập và đang trên con đường
hoàn thiện và phát triển, không tránh khỏi có mâu thuẫn nội bộ về văn hóa tổ
chức,
điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của nhân viên mà
sâu xa hơn còn tác động đến sự gắn kết của nhân viên với Công ty. Nghiên cứu của
đề tài là cơ sở để ban lãnh đạo COSCO xem xét, củng cố, điều chỉnh và hoàn thiện
văn hóa tổ chức phù hợp với định hướng phát triển mới, phát huy tối đa ưu thế và
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty COSCO sau khi sát nhập.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, hình ảnh, tài liệu tham
khảo và các phụ lục, luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về văn hóa tổ chức
Chương 2: Thực trạng văn hóa tổ chức tại Công ty COSCO SHIPPING Lines
(Việt Nam).
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện văn hóa tổ chức tại Công ty COSCO
SHIPPING Lines (Việt Nam).
5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VĂN HÓA TỔ CHỨC
Ở chương 1, tác giả luận văn tiến hành hệ thống lý thyết về văn hóa tổ chức,
bao gồm các khái niệm về văn hóa, văn hóa tổ chức, văn hóa doanh nghiệp; vai trò
và đặc tính cơ bản của văn hóa tổ chức; cũng như tìm hiểu về cấu trúc và các
thành
phần của văn hóa tổ chức làm cơ sở cho việc nghiên cứu, phân tích thực trạng văn
hóa tổ chức tại COSCO ở chương 2.
1.1. Khái niệm về văn hóa trong tổ chức
1.1.1. Định nghĩa
1.1.1.1. Văn hóa
Văn hóa là một khái niệm có lịch sử lâu dài và thăng trầm, được hình thành và
phát triển trong mối quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Văn hóa là sản
phẩm
của loài người, song chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người và
duy
trì trật tự xã hội bền vững.
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng, liên quan đến mọi mặt trong đời
sống vật chất và tinh thần của con người. Do đó, có rất nhiều định nghĩa khác
nhau
về văn hóa, mỗi định nghĩa lại phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác
nhau.
Từ năm 1952, hai nhà nhân loại học người Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde
Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các
công trình nổi tiếng thế giới.
Văn hóa là một chỉnh thể phức hợp bao gồm toàn bộ những tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán
khác nhau mà con người cần hướng đến với tư cách là một thành viên xã hội
(Tylor,
1871). Đây là một định nghĩa khá tổng hợp về văn hóa vào cuối thế kỷ XIX.
Thông qua góc nhìn giản dị về những vấn đề xã hội nhân sinh thực tế, cụ thể
trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, vào những năm 40 của thế kỉ trước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận định: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn
6
mặc ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh, 1995). Định nghĩa chỉ ra chủ thể sáng tạo văn
hóa chính là con người, mục đích sáng tạo văn hóa là để phục vụ con người.
Văn hoá bao gồm các quá trình kế thừa về kỹ thuật, tư tưởng, tập quán và giá
trị (Manilowski, 1944). Khái niệm văn hóa ở đây nhấn mạnh đến quá trình kế thừa
truyền thống, xã hội.
Văn hóa là các nguyên tắc và những giá trị được thông báo công khai một
cách rõ ràng mà theo đó cả nhóm đều cam kết tuân thủ (Deal và Kennedy, 2000).
Khái niệm văn hóa ở đây mang tính cộng đồng, là những chuẩn mực, giá trị, quy
tắc
được xã hội thừa nhận.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa được nhiều quốc
gia thừa nhận và ứng dụng: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của
những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một
nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách
sống, phương thức sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”. Định nghĩa
văn
hoá của UNESCO được xác định theo hướng tổng hợp, xem văn hóa là do con
người sáng tạo ra, bao gồm cả những vấn đề thuộc về tinh thần lẫn vật chất, bất
kể
tốt xấu, phù hợp hay không phù hợp.
Như vậy, mặc dù văn hóa là một khái niệm có nội hàm hết sức phong phú và
nhiều đặc trưng phức tạp, ta vẫn có thể thấy bốn đặc trưng cơ bản nhất của văn
hóa
là tính nhân sinh, tính giá trị, tính hệ thống và tính lịch sử - đây là những
đặc trưng
cần và đủ để phân biệt văn hóa với những khái niệm có liên quan. Trên cơ sở đó,
tác
giả nhận thấy có thể định nghĩa văn hóa như sau: Văn hóa là toàn bộ những giá
trị
vật chất và tinh thần mà con người tạo ra trong quá trình tương tác với nhau, có
tính
kế thừa lịch sử, là những quy tắc, giá trị, quan điểm chung được xã hội thừa
nhận.
7
1.1.1.2. Văn hóa tổ chức
Khái niệm "văn hóa tổ chức" (Organization Culture) đã trở thành một phần
quan trọng trong nghiên cứu về quản trị những thập niên gần đây. Các nhà nghiên
cứu đã không đi đến thỏa thuận về một định nghĩa duy nhất cho khái niệm văn hóa
tổ chức. Thực tế, Kroeber và Kluckhohn (1952) đã xác định được có không dưới
164 định nghĩa văn hóa tổ chức khác nhau của các nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực
khác nhau như nhân chủng học, xã hội học, tâm lý học... Tuy nhiên hầu hết các
nhà
lý thuyết (Jaques, 1952; Ouchi, 1981; Peters và Waterman, 1982; Hofstede, 1991;
Deal và Kennedy, 2000; Schein, 2004) đều xem văn hoá như một hệ thống các giá
trị, niềm tin, thái độ, nhận thức, biểu tượng, mô hình truyền thông và hành vi.
Dưới
đây sẽ trình bày một số định nghĩa tiêu biểu đã được công bố và sử dụng phổ
biến:
Văn hóa tổ chức là tập hợp các thói quen, cách nghĩ truyền thống, giá trị, chiến
lược, ý tưởng và cách thức làm việc trong tổ chức được chia sẻ và thực hiện bởi
tất
cả các thành viên trong tổ chức (Elliott Jaques, 1952).
Văn hóa của một tổ chức là những chuẩn mực, giá trị, niềm tin, cách hành
động đặc trưng khi một nhóm người phối hợp với nhau làm một việc gì đó. Tính
đặc thù của một tổ chức có nguồn gốc sâu xa từ lịch sử phát triển của tổ chức,
từ
những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành phong cách của tổ chức như những
tiền lệ quyết định quan trọng, phong cách, quan điểm của cựu lãnh đạo. Chúng
được
thể hiện thông qua những phong tục, tập quán và quan niệm mà mỗi thành viên đều
coi trọng, cũng như thông qua những quyết định chiến lược của một tổ chức
(Eldridge và Crombie, 1972).
Văn hóa tổ chức là sự đồng thuận về nhận thức của tất cả thành viên trong
nhóm. Những ý nghĩa này được mọi thành viên của một nhóm ngầm thừa nhận,
nhưng rất rõ ràng và phân biệt với các nhóm khác. Những ý nghĩa này sẽ được tiếp
tục truyền cho những người mới (Louis, 1980).
Văn hóa tổ chức là một tập hợp các biểu tượng, nghi lễ và huyền thoại cho
phép truyền đạt đến toàn thể nhân viên các giá trị cơ bản và niềm tin của tổ
chức
8
(Ouchi, 1981). Văn hoá tổ chức là một tập hợp các giả định cơ bản và giá trị của
tổ
chức (Peters & Waterman, 1982).
Văn hóa thể hiện trình độ nhận thức đặc biệt của một tổ chức – có nghĩa là
chúng chứa đựng những phẩm chất đặc trưng có thể dùng để phân biệt với các tổ
chức khác ở một phương diện nào đó (Gold, 1982).
Văn hóa là một hệ thống lập trình trong tiềm thức con người để phân định các
thành viên trong một nhóm với nhóm khác (Hofstede, 1991).
Văn hóa tổ chức là hệ thống các giá trị niềm tin được hiểu và chia sẻ bởi các
thành viên trong một tổ chức (Recardo và Jolly, 1997).
Văn hóa tổ chức là một hệ thống ý nghĩa chung, hàm giữ bởi các thành viên
của tổ chức, qua đó có thể phân biệt được tổ chức này với tổ chức khác (Robbin,
2000).
Văn hoá tổ chức là tập hợp của các giá trị, quy tắc, niềm tin, thái độ và giả
định chi phối cách thức mà mọi người trong tổ chức hành xử và mọi việc được thực
hiện (Deal và Kennedy, 2000).
Văn hóa tổ chức là một dạng của những giả định cơ bản, được sáng tạo, khám
phá, phát triển và tích lũy thông qua giải quyết các vấn đề mà tổ chức gặp phải
trong quá trình thích nghi với môi trường bên ngoài và tích hợp với môi trường
bên
trong. Các giả định cơ bản này đã được thừa nhận qua thời gian và được truyền
đạt
cho những thành viên mới như là một cách thức đúng đắn để nhận thức, suy nghĩ và
định hướng giải quyết mọi vấn đề (Schein, 2004).
Theo Needle (2004) văn hóa tổ chức là tập hợp đại diện cho các giá trị, niềm
tin và nguyên tắc từ các thành viên trong một tổ chức và chịu sự ảnh hưởng của
những yếu tố lịch sử, thị trường, công nghệ, chiến lược, kiểu nhân viên, phong
cách
quản trị của tổ chức và văn hóa quốc gia.
Như vậy, theo tác giả, có thể hiểu văn hóa tổ chức là toàn bộ các yếu tố văn
hóa được tổ chức chọn lọc, xây dựng và phát triển trong suốt quá trình hoạt động
9
của một tổ chức, trở thành những chuẩn mực hành vi, hệ thống giá trị, niềm tin
chi
phối các thành viên trong tổ chức, kiểm soát cách thức các thành viên tương tác
lẫn
nhau và với các tổ chức bên ngoài, đồng thời là đặc trưng để phân biệt tổ chức
này
với tổ chức khác.
1.1.1.3. Văn hóa doanh nghiệp
Thuật ngữ “văn hóa tổ chức” xuất hiện lần đầu tiên trên báo chí của Mỹ vào
những năm đầu thập niên 1960. Thuật ngữ tương đương “văn hóa doanh nghiệp”
xuất hiện khoảng thập niên 1970, và càng trở nên phổ biến sau khi tác phẩm Văn
hóa doanh nghiệp của Terrence Deal và Atlan Kennedy được xuất bản tại Mỹ năm
1982.
Văn hóa doanh nghiệp là một hệ thống những ý tưởng chung được xây dựng
bởi thành viên của một doanh nghiệp nhằm phân biệt doanh nghiệp này với doanh
nghiệp khác. Văn hóa doanh nghiệp liên quan đến cách nhân viên nhận thức được
đặc tính của văn hóa doanh nghiệp, chứ không phải cách họ thích nó hay không –
có
nghĩa là đây là một thuật ngữ mang tính chất mô tả.
Bảy đặc điểm cơ bản cho thấy cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp:
Đổi mới và mạo hiểm: Mức độ nhân viên được khuyến khích phải đổi mới
và mạo hiểm.
Chú ý tới từng tiểu tiết: Mức độ nhân viên được kỳ vọng chính xác trong
phân tích và chú ý tới từng chi tiết.
Định hướng kết quả: Mức độ mà nhà quản lý tập trung vào kết quả hơn là
kỹ thuật và quy trình áp dụng để đạt được kết quả đó.
Định hướng con người: Mức độ mà các quyết định quản lý được ưa chuộng
trong nổ lực cân nhắc về hiệu quả công việc đối với người lao động trong
doanh nghiệp.
Định hướng nhóm: Mức độ mà các hoạt động công việc được tổ chức theo
nhóm thay vì cá nhân.
10
Tính quyết đoán: Mức độ quyết đoán và ganh đua của mọi người thay vì sự
dễ dãi.
Sự ổn định: Mức độ các hoạt động của doanh nghiệp nhấn mạnh tập trung
duy trì vị thế bên trong, thay vì sự phát triển.
Đại đa số các doanh nghiệp lớn đều có văn hóa chủ đạo và rất nhiều nhóm văn
hóa nhỏ. Một văn hóa chủ đạo thể hiện những giá trị cốt lõi chung của phần lớn
các
thành viên trong doanh nghiệp. Các nhóm văn hóa nhỏ có xu hướng phát triển ở
những doanh nghiệp lớn để phản ánh những vấn đề chung, những tình huống hay
những kinh nghiệm mà các nhóm thành viên trong cùng một phòng ban hay một vị
trí làm việc gặp phải.
1.1.2. Vai trò của văn hóa tổ chức
Văn hóa tổ chức được xem là yếu tố chủ đạo quyết định sự thành công của
doanh nghiệp trong việc quản lý các nguồn lực tri thức. Các giá trị văn hóa cốt
lõi
thể hiện hình ảnh tốt đẹp của tổ chức cũng như môi trường làm việc hấp dẫn, có
khả
năng thu hút nhân tài, duy trì và phát triển tài sản tri thức của tổ chức. Một
nền văn
hóa tổ chức mạnh mẽ sẽ tăng cường sự gắn kết và hợp tác của đội ngũ nhân viên,
kết quả là hiệu quả hoạt động của tổ chức được nâng cao, sự nhất trí và mức độ
quan tâm cao đến các định hướng chiến lược, năng suất lao động tăng, việc ra
quyết
định tốt hơn, sự gắn bó cao ở mọi cấp bậc nhân viên (Thompson và Luthans, 1990)
và tạo ra lợi thế cạnh tranh của tổ chức (Saeed và Hassan, 2000).
Theo McNamara (1999) một nền văn hóa tổ chức có hiệu quả cao và các kỹ
năng giao tiếp của nhân viên tốt sẽ giúp mọi tình huống được giải quyết tốt, và
đảm
bảo sự thành công vì mục tiêu chung của tổ chức. Vì những niềm tin chung ở mức
độ cao như vậy sẽ dễ dàng tạo nên sự nhất trí, đồng lòng trong nhân viên.
Shinichi Hirota và các đồng sự (2007) đã nhận định rằng văn hóa và các giá trị
của nó giúp đẩy mạnh mức độ thành công của các công ty Nhật và họ đã đạt được
lợi thế cạnh tranh nhờ phát triển văn hóa. Cũng theo một cuộc điều tra nghiên
cứu
về công cụ và xu hướng quản trị năm 2007 của Bain & Company – một công ty của
11
Mỹ hoạt động trong lĩnh vực tư vấn doanh nghiệp toàn cầu – thì có trên 90% trong
tổng số hơn 1,200 các nhà quản trị quốc tế đến từ các quốc gia Nam Mỹ, Châu Á –
Thái Bình Dương, Châu Âu, Mỹ và Canada đã đồng ý rằng văn hóa là chiến lược
quan trọng cho sự thành công của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu của Denison
(1984) cũng cho thấy, văn hóa tổ chức ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng doanh thu,
lợi nhuận ròng trên tài sản, chất lượng, lợi nhuận, mức độ hài lòng của nhân
viên và
hiệu quả chung. Các khái niệm này đều khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa văn
hoá tổ chức và hiệu quả hoạt động của công ty. Một nền văn hoá tổ chức vững
chắc,
chính là yếu tố mang lại động lực cũng như sự tận tâm thực sự từ nhân viên.
Văn hóa tổ chức phát triển theo thời gian cùng với quá trình hoạt động của tổ
chức, do đó nó trở thành nguồn lực có giá trị với những đặc tính phức tạp nên
không
dễ mua được và khó có thể bắt chước (Gold và cộng sự, 2001; Chuang, 2004). Khái
niệm này cho thấy với một nền văn hoá tổ chức vững mạnh, những giá trị cốt lõi
của tổ chức sẽ được lưu giữ một cách bền vững và luôn được chia sẻ một cách rộng
rãi.
Barney (1986) đã khẳng định doanh nghiệp nào không xây dựng được văn hóa
tổ chức phù hợp sẽ không thể đạt được hiệu quả cao và bền vững trong hoạt động
kinh doanh. Kandula (2006) cũng cho rằng văn hóa tổ chức là chìa khóa làm tăng
hiệu quả công việc. Như vậy, một nền văn hoá vững chắc sẽ có một lực hấp dẫn độc
nhất vô nhị để tập hợp mọi người. Chúng ta không cần phải thúc ép nhân viên làm
việc mà họ sẽ tự xem mình là một phần của tổ chức, một phần của gia đình, cộng
đồng và tự nguyện cống hiến hết mình vì mục tiêu chung của tổ chức.
Tóm lại, văn hóa tổ chức có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
bền vững của một tổ chức. Văn hóa tổ chức sẽ xác định ranh giới, tạo ra sự khác
biệt giữa các tổ chức, tạo nên một cam kết chung vì mục tiêu và giá trị của tổ
chức,
đưa ra những chuẩn mực thích hợp về những gì nhân viên nên nói và làm, kiểm soát
định hướng và hình thành nên thái độ và hành vi của người lao động, khuyến khích
12
sự sáng tạo của các cá nhân trong tổ chức, góp phần làm giảm mâu thuẫn, tạo sự
kết
dính giúp các thành viên đoàn kết với nhau, từ đó làm tăng sự ổn định của tổ
chức.
1.1.3. Đặc tính cơ bản của văn hóa tổ chức
Tổng hợp dựa trên các quan điểm của Deal và Kennedy (2000), Peters và
Waterman (1982) và Geert Hofstede (1991), có thể xác định được năm đặc tính cơ
bản của văn hóa tổ chức:
Tính tổng thể: văn hóa của toàn bộ tổ chức nhìn từ góc độ tổng thể, không
phải là một phép cộng đơn thuần các yếu tố rời rạc, đơn lẻ.
Tính lịch sử: văn hóa tổ chức hình thành và phát triển trong suốt quá trình
phát triển của tổ chức.
Tính nghi thức: mỗi tổ chức thường có các nghi thức, biểu tượng đặc trưng
mang dấu ấn riêng. Chẳng hạn như trong các công ty Hàn Quốc hay Nhật
Bản, các nhân viên thường hô to các khẩu hiệu của công ty khi cuộc họp kết
thúc.
Tính xã hội: văn hóa tổ chức do chính tổ chức sáng tạo, duy trì và có thể
thay đổi. Nói cách khác, văn hóa tổ chức, không giống như văn hóa dân tộc,
là một kiến lập xã hội.
Tính bảo thủ: văn hóa tổ chức một khi đã được xác lập thì sẽ khó thay đổi
theo thời gian, giống như văn hóa dân tộc.
Mỗi một đặc tính trên tồn tại trong sự biến thiên từ thấp đến cao. Các đặc tính
này có thể kết hợp với nhau theo những cách khác nhau hình thành nên nhiều loại
hình tổ chức khác nhau. Bất kỳ một tổ chức nào trong quá trình hoạt động cũng
hình
thành nên văn hóa của mình một cách tự nhiên. Một nền văn hóa thích hợp, mang
đặc trưng riêng sẽ đưa tổ chức đi đến thành công và ngược lại có thể là nguyên
nhân
dẫn đến thất bại. Đó được xem là đặc tính “mạnh” của văn hóa tổ chức. Theo quan
điểm của Peters và Waterman (1982), một công ty cần phải xây dựng một mô hình
văn hóa mạnh để có thể định vị sâu trong thị trường, văn hóa mạnh là gây ấn
tượng