Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển kinh tế du lịch Ninh Bình
9,843
608
124
36
quốc tế đa dạng, đa phương để tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế, khai thác khách,
nguồn vốn, kinh nghiệm, công nghệ cho sự phát triển và gắn với thị trường
khu vực và thế giới.
3. Quản lý nhà nước về du lịch cần tăng cường trên tất cả các lĩnh vực:
cơ chế chính sách ưu tiên phát triển, phù hợp với điều kiện địa phương, đất
nước, hợp thông lệ quốc tế và xu thế phát triển du lịch thế giới; phải đầu tư
ban đầu bằng ngân sách Nhà nước và huy động nhiều nguồn vốn khác; quan
tâm đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch và giáo dục du lịch toàn dân.
Phối hợp liên ngành, địa phương ở tất cả hoạt động liên quan đến du lịch địa
phương và ngoài tỉnh.
4. Du lịch chỉ phát triển nhanh, bền vững khi có một chiến lược mang
tính quốc gia về phát triển du lịch và được cụ thể hoá bằng chương trình hành
động. Cần có một sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, đúng hướng và nhanh
nhậy từ cấp cao nhất trong bộ máy quản lý đến các cấp thừa hành ở địa
phương, tạo môi trường thuận lợi cho du lịch phát triển đúng hướng và hiệu
quả.
37
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở
TỈNH NINH BÌNH
2.1 Tiềm năng phát triển du lịch Ninh Bình
2.1.1 Những nhân tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến sự
phát triển ngành Du lịch Ninh Bình
Ninh Bình chính thức có tên từ năm 1822 ( năm Minh Mạng thứ 3). Đến
năm Minh mạng thứ 12 (1831) chính thức được chuyển thành tỉnh Ninh Bình.
Năm 1975 Ninh Bình được hợp nhất với tỉnh Hà Nam Ninh. Đến năm 1992
Ninh Bình lại được tách ra từ tỉnh Hà Nam Ninh để trở về nguyên địa giới
hành chính của nó như trước năm 1975. Sở dĩ có việc chia tách đó chính là vì
tỉnh Ninh Bình có nét riêng và thế mạnh của mình về điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội để phát triển kinh tế.
* Đặc điểm điều kiện tự nhiên:
+ Vị trí địa lý:
Tỉnh Ninh Bình có vị trí nằm ở phía Nam của đồng bằng Bắc Bộ (đồng
bằng Sông Hồng), nơi tiếp giáp và ngăn cách miền Bắc với miền Trung bởi
dãy núi đá vôi Tam Điệp hùng vĩ. Ninh Bình có địa hình trải dài theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam.
Ninh Bình có vị trí địa lý từ 19
0
57
'
( cửa sông Đáy xã Cồn Thoi huyện
Kim Sơn) đến 20
0
28
'
( Xóm Lạc Hồng xã Xích Thổ huyện Nho Quan) vĩ độ
38
bắc và từ 105
0
32
'
30" (núi Điện, rừng Cúc Phương huyện Nho Quan) đến
105
0
53
'
20' (bến đò Mười xã Xuân Thiện huyện Kim Sơn) kinh độ Đông.
Phía Bắc tỉnh giáp huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam, phía Tây Bắc giáp 2
huyện Yên Thuỷ và Lạc Thuỷ tỉnh Hoà Bình, phía Tây và Tây Nam giáp các
huyện Thạch Thành, Hà Trung, Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá, phía Nam là vịnh
Bắc Bộ, phía Đông và Đông Bắc giáp 2 huyện Ý Yên và Nghĩa Hưng tỉnh
Nam Định và gianh giới giữa 2 tỉnh là sông Đáy.
Với vị trí đó Ninh Bình có điều kiện thuận lợi để kết nối thị trường du
lịch giữa Ninh Bình với các điểm du lịch hấp dẫn của các tỉnh lân cận và các
vùng miền trong cả nước và quốc tế. Hà Nội là điểm xuất phát của khách du
lịch quốc tế đến Việt Nam chỉ cách Ninh Bình hơn 90km. Khách du lịch thập
phương phía Bắc đất nước đến Ninh Bình có thể liên kết đi tiếp tour: Như
thăm Ninh Bình rồi tắm biển Sầm Sơn, thăm quan du lịch văn hoá thành Nhà
Hồ, Thanh Hoá và đi tiếp vào các tỉnh miền Trung…Khách du lịch miền
Trung, miền Nam đi lên các tỉnh phía Bắc, dừng chân tại Ninh Bình rồi đi tiếp
các tỉnh lân cận cũng rất thuận lợi.
Nếu nhìn trên bản đồ Việt Nam, tỉnh Ninh Bình nằm trong khu vực đồng
bằng Sông Hồng rộng lớn, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, dân
cư đông đúc, nguồn nhân lực dồi dào, là những tiền đề quan trọng để phát
triển kinh tế du lịch.
Bên cạnh đó, Ninh Bình còn nằm trên trục giao thông huyết mạch Bắc -
Nam, nối vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (tam giác kinh tế Hà Nội – Hải
Phòng – Quảng Ninh) với duyên hải Miền Trung và Tây Nguyên, nhất là
thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng Nam Bộ.
39
Ngoài ra, Ninh Bình còn là cửa ngõ giao lưu giữa các tỉnh Phía Nam và
vùng Tây Bắc có nhiều tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng phát triển
du lịch phong phú đa dạng.
+ Địa hình:
Ninh Bình có diện tích tự nhiên là 1.384,2km
2
, địa hình thấp dần từ Tây
bắc xuống đông Nam. Nhìn từ trên cao xuống Ninh Bình hiện lên với một địa
hình rất đa dạng. Đan xen giữa đồi núi, nửa đồi núi là đồng bằng, vùng trũng
và giải đồng bằng ven biển. Vùng đồi núi chủ yếu tập trung ở huyện Nho
Quan, thị xã Tam Điệp, một phần huyện Gia Viễn và Hoa Lư. Vùng nửa đồi
núi tập trung một phần huyện Gia Viễn, Hoa Lư, thị xã Tam Điệp và Yên Mô.
Vùng đồng bằng tập trung một phần huyện Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô, còn
lại chủ yếu ở thị xã Ninh Bình, huyện Yên Khánh và huyện Kim Sơn.
Tỉnh Ninh Bình có diện tích núi đá vôi chiếm tỷ lệ lớn so với tổng diện
tích tự nhiên. Nó trải dài thành dãy núi theo hướng tây bắc - đông nam, từ
Cúc Phương Nho Quan xuống tới thị xã Tam Điệp. Cũng từ diện tích núi đá
vôi, tự nhiên đã ban tặng cho Ninh Bình nhiều hang động đẹp, suối nước nóng
Kênh Gà, nguồn nước khoáng Cúc Phương, Tam Cốc Bích Động, những
thung lũng, những hình thù sinh động làm cho người ta dễ linh cảm nhận ra từ
các quả núi như: con cá, con voi, cỗ xe, ông Bụt, ông thần...Đặc biệt trên địa
bàn huyện Hoa Lư bao gồm các xã Ninh Hải, Ninh Xuân, Trường Yên, Ninh
Hoà...núi xen giữa cánh đồng làm cho người ta cảm nhận như một Vịnh Hạ
Long trên cạn. Đồng thời trong vùng núi đá vôi đã hình thành những điểm di
tích lịch sử nổi tiếng trên thế giới, ghi dấu ấn đậm nét những danh nhân,
những sự kiện đấu tranh của các triều đại lịch sử dựng nước và giữ nước.
Với tiềm năng đó đã tạo cho Ninh Bình một tiền đề vững chắc để phát
triển các loại hình du lịch: du lịch lịch sử, du lịch thăm quan, du lịch leo núi
40
mạo hiểm, du lịch khám phá hang động kỳ thú, nghỉ dưỡng, du lịch nghiên
cứu, học tập ở các vùng đồi núi, rừng huyện Nho Quan….kết hợp với hình
thức du lịch tìm hiểu văn hoá lịch sử, du lịch lễ hội ở đồng bằng.
+ Khí hậu và thuỷ văn:
Ninh Bình thuộc vùng tiểu khí hậu của đồng bằng Sông Hồng, Ninh
Bình mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới, chịu ảnh hưởng sâu sắc của
gió mùa Đông Bắc, Đông Nam, của khí hậu ven biển, khí hậu rừng núi và nửa
rừng núi. Thời tiết trong năm chia thành 2 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình
hàng năm là 23,4
0
C. Tổng số giờ nắng trung bình năm trên 1.100 giờ. Tổng
nhiệt độ năm đạt tới trị số trên 8.500
0
C. Độ ẩm trung bình hàng năm là 86%.
Tổng lượng mưa rơi trên diện tích toàn tỉnh trung bình đạt từ 1860 – 1950
mm. Trung bình một năm có 125 – 127 ngày mưa. Lượng mưa trung bình mỗi
tháng là 238,8mm.
Trên địa bàn tỉnh có nhiều sông lớn như: sông Hoàng Long, sông Đáy và
nhiều con sông khác, cùng một số hồ đầm với cảnh quan rất đẹp như Đầm
Cút, hồ Đồng Thái, hồ Đồng Chương... Đặc biệt là 2 điểm suối khoáng Kênh
Gà và Kỳ Phú với nhiệt độ trung bình 53
0
C, chứa nhiều khoáng chất có giá trị
chữa bệnh. Hàng năm, hệ thống sông ngòi ở Ninh Bình được nuôi dưỡng
bằng nguồn nước mưa dồi dào, tạo nên lượng dòng chảy tương đối phong phú
(khoảng 30 lít/s/km
2
). Mật độ mạng lưới sông ngòi khoảng 0,6 – 0,9 km/km
2
.
Với khí hậu trên, tạo cho Ninh Bình có những thuận lợi trong việc phát
triển kinh tế du lịch, thuận lợi trong việc thu hút khách du lịch trong và ngoài
nước. Song có những vấn đề đặc biệt quan tâm đối với khách đến từ các nước
Châu Âu và Châu Mỹ. Họ vốn không quen với mưa gió bão lũ, thời tiết oi
bức nắng nóng của mùa hè và độ ẩm không khí cao vào mùa mưa. Vì vậy mà
41
mùa hè du khách đến từ Châu Âu đến Ninh Bình bị hạn chế, họ thường lựa
chọn đi biển nhiều hơn.
+ Tài nguyên sinh vật: Ninh Bình có thảm thực vật rừng phong phú tập
trung ở vườn Quốc Gia Cúc Phương, rừng nguyên sinh Cúc Phương – loại
rừng nhiệt đới điển hình với cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng (5 tầng) và
2000 loài. Động vật ở Cúc Phương cũng rất phong phú. Hiện đã phát hiện
được 233 loài động vật có xương sống nhiều loài chim và 24 bộ côn trùng
trong số 30 bộ côn trùng thường gặp ở nước ta. Tất cả tạo nên lợi thế về du
lịch rừng cho ngành du lịch tỉnh Ninh Bình.
+ Hệ thống giao thông:
Ninh Bình cũng có hệ thống giao thông khá thuận lợi bao gồm đường bộ,
đường sắt, đường thuỷ nội địa và đường phà sông biển. Trong những năm qua
nhờ có sự quan tâm của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, các ngành các cấp từ trung
ương tới địa phương Ninh Bình đã xây dựng được hệ thống giao thông khá
hoàn chỉnh từ quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ và hệ thống đường liên thôn, liên xã
rất thuận tiện cho việc giao lưu buôn bán hai miền Nam – Bắc giữa Ninh Bình
với các tỉnh khác trong cả nước và giữa các địa phương trong tỉnh. Ninh Bình
nằm trên tuyến giao thông huyết mạch: quốc lộ 1A Bắc – Nam và đầu mút
của đại lộ phía Tây. Đồng hành với tuyến đường bộ là tuyến đường sắt Bắc –
Nam chạy qua với chiều dài khoảng 20km, có 4 ga trong đó gồm 1 ga trung
chuyển hành khách và 3 ga trung chuyển hàng hoá.
Bên cạnh đó Ninh Bình còn có 1 hệ thống sông ngòi khá phong phú với
tổng chiều dài hơn 400km nổi tiếng với con sông Đáy và sông Hoàng Long.
Hệ thống sông nội địa của tỉnh không những thuận lợi cho ngành nông
nghiệp, giao thông vận tải mà còn rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch
sông nước.
42
Với vị trí địa lý thuận lợi và hệ thống giao thông trên Ninh Bình có thể
trở thành điểm dừng chân hấp dẫn cho du khách trên chặng đường du lịch
miền Bắc, là ngành kinh tế mũi nhọn trong khu vực đồng bằng Bắc Bộ.
* Đặc điểm kinh tế - xã hội:
+ Dân số:
Dân số Ninh Bình đang dần ổn định về qui mô, và có xu hướng tăng lên
về số lượng. Việc thành lập thành phố Ninh Bình cùng với việc phát triển
công nghiệp, các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao ở tầm quốc
gia và quốc tế sẽ làm cho dân số Ninh Bình tăng nhanh cả về cơ học. Thời
gian qua dân cư Ninh Bình tăng tương đối nhanh: năm 2004 số dân toàn tỉnh
là 911.572 người, đến năm 2006 toàn tỉnh đã có 922.582 người. Như vậy,
năm 2006 tăng so với năm 2004 là 1,17%.
Mật độ dân số cũng có sự thay đổi theo hướng gia tăng, đến nay mật độ
dân số toàn tỉnh là 662 người/km
2
, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2000 là
10,42%o đến năm 2005 giảm xuống còn 9,9%o và đến năm 2006 tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên đã giảm xuống chỉ còn 8,7%o. Cộng đồng các dân tộc đang
sinh sống trong tỉnh gồm 23 dân tộc: đa số là dân tộc kinh chiếm trên 98,2%;
đứng thứ 2 là dân tộc Mường chiếm gần 1,7%, các dân tộc Tày, Nùng, Thái,
Hoa, Dao….chiếm tỷ lệ rất ít chỉ có từ trên một chục đến 100 người. Do kết
cấu dân số trẻ nên bản thân Ninh Bình có một nguồn lao động tương đối dồi
dào. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 56% dân số toàn tỉnh; tính đến
31/12/2006 có 473.214 nghìn lao động đang hoạt động trong các ngành của
nền kinh tế quốc dân trong tỉnh: trong đó có 10 tiến sĩ, 7014 cán bộ có trình
độ cao đẳng và đại học.
Như vậy, nguồn lao động trong tỉnh còn rất dồi dào. Ngành du lịch của
tỉnh phát triển sẽ tạo nên một bước trong việc bố trí, thu hút sắp xếp cơ cấu
43
lao động hợp lý hơn, từ đó giải quyết một phần việc làm cho xã hội mà trực
tiếp là những cư dân địa phương.
+ Đặc điểm kinh tế:
Trong những năm vừa qua nhất là giai đoạn 2001-2005 kinh tế của tỉnh
đã có sự chuyển biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2005
đạt 20,5% tăng 8,5% so với năm 2004. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp
tăng 52,8%, trong đó thành phần kinh tế công nghiệp của trung ương tăng gấp
2,3 lần, công nghiệp địa phương tăng 17,2%. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ
tăng 14,9%. Thu ngân sách đạt 544,6 tỷ đồng.[6]. Cơ cấu kinh tế đang chuyển
dịch theo hướng tích cực làm thay đổi bộ mặt của tỉnh trên nhiều lĩnh vực:
kinh tế, đời sống, văn hoá, xã hội. Tỷ trọng ngành nông- lâm- thuỷ sản trong
cơ cấu kinh tế giảm dần, tỷ trọng các ngành công nghiệp tăng lên. Năm 2006
tỷ trọng nông- lâm -thuỷ sản chiếm 27.7%, Công nghiệp -xây dựng cơ bản là
39%, khu vực dịch vụ chiếm 33,3%.
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp về cơ cấu kinh tế của tỉnh trong những năm qua:
Năm
Tổng
GTSX (Tr.đồng)
Cơ cấu đƣợc tính theo lĩnh vực ( % )
Nông, lâm, TS
CN & XDCB
Dịch vụ
1995
1377,8
55,4%
18,2%
26,4%
2002
2808,5
44,2%
23,4%
32,4%
2003
3136
40,5%
27,4%
32,1%
2004
3818,3
36,7%
30%
33,3%
2005
4814,7
30,9%
35,7%
33,4%
2006
5901,2
27.7 %
39%
33,3%
Nguồn: Niên giám thống kê Ninh Bình năm 2006
44
Từ bảng thống kê trên cho thấy ngành dịch vụ ở Ninh Bình (bao gồm
dịch vụ thương mại và du lịch ) đã có bước phát triển mạnh mẽ, đã khẳng
định vị trí của mình góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Nếu
năm 1995 tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế là 26,4% thì sau 10 năm
(2005) tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế đã tăng lên là 33,4%. Đây là
hướng phát triển theo đúng chủ trương đường lối kinh tế theo nghị quyết IX
và nghị quyết X đại hội Đảng toàn quốc. Hiện nay cơ cấu kinh tế của tỉnh là
công nghiệp – Xây dựng cơ bản rồi đến dịch vụ và cuối cùng mới là nông
nghiệp, khu vực dịch vụ chiếm gần 40% trong cơ cấu. Với đà phát triển này,
trong những năm tới, cùng với các ngành kinh tế khác, hoạt động kinh tế du
lịch Ninh Bình chắc chắn sẽ liên tục phát triển đi lên. Ngành kinh tế du lịch
Ninh Bình sẽ tạo được điểm nhấn ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Khách du
lịch đến Ninh Bình ngoài việc đi thăm quan các danh lam thắng cảnh, tìm
hiểu phong tục tập quán, truyền thống của điạ phương, chiêm ngưỡng các di
tích lịch sử, du lịch sinh thái, nghỉ ngơi điều dưỡng còn có nhiều nhu cầu khác
như ăn ở, mua sắm quà lưu niệm… do đó nếu du lịch phát triển sẽ kéo theo sự
phát triển cuả một số ngành kinh tế khác có liên quan đến du lịch.
+ Đặc điểm về lĩnh vực văn hóa - xã hội khác:
- Giáo dục và đào tạo: Ninh Bình là một tỉnh nghèo, hàng năm luôn cần
sự hỗ trợ của Trung ương, nhưng ngay từ ngày đầu tỉnh mới được tái lập do
xác định được vai trò, vị trí của giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp phát triển
của địa phương nên đã ưu tiên tập trung đầu tư cho lĩnh vực giáo dục. Tổng
nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong năm 2006 đầu tư xây dựng cơ bản cho
ngành giáo dục đạt hơn 98 tỷ đồng chiếm khoảng 3 % tổng vốn đầu tư XDCB
thuộc ngân sách Nhà nước.
Phong trào xã hội hóa giáo dục, đào tạo có bước phát triển tích cực, góp
phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện để "dạy tốt, học tốt".
45
Hiện nay có 100% số xã phường, thị trấn đã có trường kiên cố và thành lập
hội khuyến học, đã huy động đóng góp hàng trăm triệu đồng lập quĩ khuyến
học nhằm hỗ trỡ học sinh nghèo vượt khó và kịp thời động viên khen thưởng
các em học sinh giỏi. Tỉnh đã công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS từ
tháng 12/2002. Điều đó cho thấy trong những năm qua cùng với sự phát triển
kinh tế, lĩnh vực giáo dục đào tạo cũng được quan tâm đầu tư, tạo đà phát
triển kinh tế, tạo đà thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
- Dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe:
Trong những năm qua tỉnh đã tập trung đầu tư củng cố hệ thống mạng
lưới y tế, phát triển đồng bộ phủ kín 100% các xã, phường, thị trấn. Hiện nay,
toàn tỉnh có 10 bệnh viện đa khoa, 12 phòng khám đa khoa khu vực, 1 trạm
điều dưỡng và 145 trạm y tế xã, phường. Tổng số giường bệnh là 2.045
giường. Đến hết năm 2005, tổng số cán bộ y tế là 1.987 người, trong đó có
562 bác sỹ đại học và trên đại học, 42 dược sỹ cao cấp; tỷ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng giảm từ 36,5% (năm2000) xuống 25% (năm 2005). Bằng nhiều nguồn
vốn đầu tư các cơ sở y tế đã từng bước trang bị những thiết bị, phương tiện kỹ
thuật hiện đại phục vụ cho việc khám, chữa bệnh. Tất cả đều phản ánh năng
lực của ngành trên đà phát triển và đã đóng góp phần tích cực vào việc chăm
sóc bảo vệ sức khỏe cộng đồng dân cư.
2.1.2 Nguồn tài nguyên phát triển du lịch Ninh Bình
* Tài nguyên du lịch sinh thái
Ninh Bình được thiên nhiên ban tặng cho một nguồn tài nguyên vô cùng
đa dạng phong phú. Rừng nguyên sinh Quốc gia Cúc Phương, dãy núi đá vôi
Tam Điệp hùng vĩ đầy huyền thoại lịch sử. Xen trong dãy núi đá vôi là những
danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, tạo nên một cảnh quan môi trường thơ
mộng. Có thể kể đến một trong những thương hiệu du lịch nổi tiếng là Tam