Luận văn Thạc sĩ Kiểm soát và Bảo vệ môi trường: Đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng quỹ đất công ích tại thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định
6,734
603
113
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Những lý luận về quỹ đất công ích
1.1.1.1. Cơ sở lý luận chung
* Khái niệm về đất
Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như sau: "đất đai là
một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi
trường
sinh thái ngay trên vỏ dưới bề mặt đó bao gồm: khí hậu, bề mặt, thổ nhưỡng, dáng
địa
hình, mặt nước (hồ, sông, suối, đầm lầy,...). Các lớp trầm tích sát bề mặt cùng
với
nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng
thái
định cư của con người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để
lại
(san nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa,...)".
Như vậy, "đất đai" là khoảng không gian có giới hạn, theo chiều thẳng đứng
(gồm khí hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm thực vật, động vật,
diện tích
nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất), theo chiều nằm ngang
trên
mặt đất (là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, thảm thực vật cùng
các
thành phần khác) giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động
sản
xuất cũng như cuộc sống của xã hội loài người.
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình lịch
sử
phát triển kinh tế-xã hội, đất đai là điều kiện lao động. Đất đai đóng vai trò
quyết định
cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu không có đất đai thì rõ
ràng
không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, cũng như không thể có sự tồn tại của
loài
người. Đất đai là một trong những tài nguyên vô cùng quý giá của con người, điều
kiện sống cho động vật, thực vật và con người trên trái đất.
Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội. Đất đai
là
địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc, các công trình công nghiệp, giao
thông, thuỷ lợi và các công trình thuỷ lợi khác. Đất đai cung cấp nguyên liệu
cho
ngành công nghiệp, xây dựng,...
Đất đai là nguồn của cải, là một tài sản cố định hoặc đầu tư cố định, là thước
đo
sự giàu có của một quốc gia. Đất đai còn là sự bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm
về
tài chính, như là sự chuyển nhượng của cải qua các thế hệ và như là một nguồn
lực cho
các mục đích tiêu dùng.
Luật đất đai năm 1993 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi:
“Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành
phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng
các
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove
the watermark
4
cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân
dân ta
đã tốn bao nhiêu công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như
ngày
nay" [14].
Thực vậy, trong các điều kiện vật chất cần thiết, đất đai giữ vị trí và ý nghĩa
đặc
biệt quan trọng, là điều kiện đầu tiên, là cơ sở thiên nhiên của mọi quá trình
sản xuất,
là công cụ lao động và nơi sinh tồn của xã hội loài người.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai
Đất đai là một vật thể tự nhiên nhưng cũng là một vật thể mang tính lịch sử luôn
tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Do vậy, quá trình sử dụng đất bao gồm phạm
vi
sử dụng đất, cơ cấu và phương thức sử dụng luôn luôn chịu sự chi phối bởi các
điều
kiện và quy luật sinh thái tự nhiên cũng như chịu ảnh hưởng của các điều kiện,
quy
luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Những điều kiện và nhân tố ảnh
hưởng đến
việc sử dụng đất bao gồm:
- Nhân tố điều kiện tự nhiên: Việc sử dụng đất đai luôn chịu sự ảnh hưởng của
nhân tố tự nhiên, do vậy khi sử dụng đất đai ngoài bề mặt không gian cần chú ý
đến
việc thích ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất
cũng như
các yếu tố bao quanh mặt đất như nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, không khí và các
khoáng sản trong lòng đất... Trong điều kiện tự nhiên, khí hậu là nhân tố hạn
chế hàng
đầu của việc sử dụng đất đai, sau đó là điều kiện đất đai (chủ yếu là địa hình,
thổ
nhưỡng) và các nhân tố khác.
- Nhân tố kinh tế - xã hội: Nhân tố kinh tế xã hội bao gồm các yếu tố như chế độ
xã hội, dân số và lao động, mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ
quản lý,
sử dụng lao động, khả năng áp dụng các tiến bộ khoa học trong sản xuất. Nhân tố
kinh
tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với việc sử dụng đất đai.
Thực
vậy, phương hướng sử dụng đất được quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu
kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Điều kiện tự nhiên của đất cho phép xác
định khả
năng thích ứng về phương thức sử dụng đất. Còn sử dụng đất như thế nào, được
quyết
định bởi sự năng động của con người và các điều kiện kinh tế xã hội, kỹ thuật
hiện có.
- Nhân tố không gian: Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất hay phi vật
chất đều cần đến đất đai như điều kiện không gian (bao gồm cả vị trí và mặt
bằng) để
hoạt động. Đặc tính cung cấp không gian của đất đai là yếu tố vĩnh hằng của tự
nhiên
ban phát cho loài người. Vì vậy, không gian trở thành một trong những nhân tố
hạn
chế cơ bản nhất của việc sử dụng đất.
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove
the watermark
5
* Vấn đề quản lý đất đai:
Quản lý đất đai bao gồm những chức năng, nhiệm vụ liên quan đến việc xác lập
và thực thi các quy tắc cho việc quản lý, sử dụng và phát triển đất đai cùng với
những
lợi nhuận thu được từ đất (thông qua việc bán, cho thuê hoặc thu thuế) và giải
quyết
những tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử dụng đất.
Quản lý đất đai là quá trình điều tra mô tả những tài liệu chi tiết về thửa đất,
xác
định hoặc điều chỉnh các quyền và các thuộc tính khác của đất, lưu giữ, cập nhật
và
cung cấp những thông tin liên quan về sở hữu, giá trị, sử dụng đất và các nguồn
thông
tin khác liên quan đến thị trường bất động sản. Quản lý đất đai liên quan đến cả
hai đối
tượng đất công và đất tư bao gồm các hoạt động đo đạc, đăng ký đất đai, định giá
đất,
giám sát và quản lý sử dụng đất đai, cơ sở hạ tầng cho công tác quản lý.
Nhà nước phải đóng vai trò chính trong việc hình thành chính sách đất đai và các
nguyên tắc của hệ thống quản lý đất đai, bao gồm pháp Luật đất đai và pháp luật
liên
quan đến đất đai. Đối với công tác quản lý đất đai, Nhà nước xác định một số nội
dung
chủ yếu như: Sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước; tập trung và phân cấp quản
lý;
vị trí của cơ quan đăng ký đất đai; quản lý các tài liệu địa chính; quản lý các
tổ chức
địa chính, quản lý nguồn nhân lực,...
1.1.1.2. Khái niệm đất công ích
Việc để lại một quỹ đất không quá 5% đất nông nghiệp để sử dụng cho nhu cầu
công ích của các địa phương là quy định lần đầu tiên được đề cập tại Điều 45,
Luật đất
đai năm 1993 [14]. Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn thực hiện từ Luật đất đai
năm
1993 (sửa đổi năm 1998 và 2001), Luật đất đai năm 2003 và hiện nay đang thực
hiện
Luật đất đai năm 2013 vẫn chưa có khái niệm hoàn chỉnh cho đất công ích.
Điều 45, Luật đất đai năm 1993 quy định: “Căn cứ vào quỹ đất đai, đặc điểm và
nhu cầu của địa phương, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
quyết định mỗi xã được để lại một quỹ đất không quá 5% đất nông nghiệp để phục
vụ
cho các nhu cầu công ích của địa phương”. Đất nông nghiệp theo Luật đất đai năm
1993 là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp.
Như
vậy, theo quy định của Luật đất đai 1993 thì mức để lại là do Hội đồng nhân dân
tỉnh
quyết định, đồng thời các phường và thị trấn không được để lại quỹ đất công ích.
Khoản 1, Điều 72, Luật đất đai năm 2003 quy định: “Căn cứ vào quỹ đất, đặc
điểm và nhu cầu của địa phương, mỗi xã, phường, thị trấn được lập quỹ đất nông
nghiệp sử dụng vào mục đích công ích không quá 5% tổng diện tích đất trồng cây
hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thuỷ sản để phục vụ cho các nhu
cầu
công ích của địa phương” [17]. Có thể thấy rằng, do cách phân loại đất có sự
khác biệt
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove
the watermark
6
hoàn toàn so với Luật đất đai năm 1993 nên Luật đất đai 2003 quy định cụ thể tỷ
lệ để
lại không quá 5% tổng diện tích ba loại đất (đất trồng cây hàng năm, đất trồng
cây lâu
năm, đất nuôi trồng thủy sản). Điểm khác biệt của Luật đất đai năm 2003 so với
Luật
đất đai năm 1993 là ngoài xã thì phường và thị trấn cũng được lập quỹ đất công
ích,
đồng thời mức tỷ lệ để lại là do địa phương (cấp xã) quyết định nhưng không quá
5%.
Khoản 1, Điều 132, Luật đất đai 2013 quy định: “Căn cứ vào quỹ đất, đặc điểm
và nhu cầu của địa phương, mỗi xã, phường, thị trấn được lập quỹ đất nông nghiệp
sử
dụng vào mục đích công ích không quá 5% tổng diện tích đất trồng cây hàng năm,
đất
trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản để phục vụ cho các nhu cầu công ích
của
địa phương; Đất nông nghiệp do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trả lại hoặc tặng
cho
quyền sử dụng cho Nhà nước, đất khai hoang, đất nông nghiệp thu hồi là nguồn để
hình thành hoặc bổ sung cho quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích
của
xã, phường, thị trấn” [18]. Như vậy, quy định về trích lập quỹ đất công ích giữa
Luật
đất đai 2013 và 2003 không có sự khác biệt, nhưng đối với luật đất đai 2013 có
quy
định nguồn để bổ sung thường xuyên cho quỹ đất công ích.
Từ các quy định trên có thể hiểu rằng, đất công ích là loại đất thuộc nhóm đất
nông nghiệp, được trích ra nhằm sử dụng vào mục đích công ích và chỉ được giữ
lại
trong giới hạn pháp luật cho phép là không quá 5% so với tổng diện tích đất
trồng cây
hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản có trong phạm vi địa
bàn của
mỗi địa phương cấp xã.
1.1.1.3. Mục đích của đất công ích
Đất đai được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, mục đích của từng thửa đất
do Nhà nước quy định và người sử dụng đất phải sử dụng đúng theo các mục đích đã
quy định đó. Với loại đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích theo quy
định
của Luật Đất đai thì đất công ích chủ yếu nhằm phục vụ vào các mục đích công
cộng
của các xã, phường, thị trấn; là loại đất được để lại nhằm đáp ứng nhu cầu xây
dựng
các công trình văn hóa, y tế, thể dục thể thao, vui chơi giải trí công cộng,
nghĩa trang,
nghĩa địa và các công trình khác theo quyết định sử dụng của UBND tỉnh, thành
phố
trực thuộc trung ương. Bên cạnh đó, loại đất này còn còn được sử dụng vào việc
xây
dựng nhà tình thương, nhà tình nghĩa cho những gia đình nghèo, neo đơn hoặc gia
đình có công với cách mạng, bồi thường khi sử dụng đất để xây dựng các công
trình
nói trên.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 132, Luật đất đai năm 2013 quy định: “Quỹ đất
nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn để sử dụng
vào
các mục đích sau đây: xây dựng các công trình công cộng của xã, phường, thị trấn
bao
gồm công trình văn hóa, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí công cộng, y tế,
giáo dục,
chợ, nghĩa trang, nghĩa địa và các công trình công cộng khác theo quy định của
Ủy ban
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove
the watermark
7
nhân dân cấp tỉnh; bồi thường cho người có đất được sử dụng để xây dựng các công
trình công cộng; xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương [18].
Để xử lý đối với trường hợp những địa phương đã để lại quỹ đất nông nghiệp sử
dụng vào mục đích công ích vượt quá 5%, Luật đất đai năm 2013 cũng quy định:
diện
tích ngoài mức 5% được sử dụng để xây dựng hoặc bồi thường khi sử dụng đất khác
để xây dựng các công trình công cộng của địa phương; giao cho hộ gia đình, cá
nhân
trực tiếp sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản tại địa phương chưa được
giao đất
hoặc thiếu đất sản xuất [18].
Ngoài ra, đất công ích còn được sử dụng để tạo nguồn làm cơ sở cho phát triển
cơ sở hạ tầng, phục vụ cho Nhà nước trong việc chỉnh trang, phát triển các khu
dân cư
nông thôn, khu dân cư đô thị và các mục đích khác phát sinh trực tiếp trong nhu
cầu sử
dụng tại địa phương như trường hợp giao đất làm nhà ở theo dạng cấp đất giãn
dân.
1.1.1.4. Hiệu quả sử dụng đất, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất công ích
* Hiệu quả sử dụng đất
Có nhiều quan điểm về hiệu quả rất khác nhau. Lúc đầu, người ta thường quan
niệm kết quả chính là hiệu quả. Sau này, khi nhận thức của con người phát triển
cao
hơn, người ta thấy rõ sự khác nhau giữa hiệu quả và kết quả.
Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi,
hướng tới. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong lao động nói
chung, hiệu quả lao động là năng suất lao động cần để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm hoặc số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Kết quả hữu ích (gọi chung là kết quả) là một đại lượng vật chất tạo ra do mục
đích của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Con
người
luôn xem xét, nghiên cứu kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra bao
nhiêu?
Có đưa lại kết quả hữu ích hay không? [8].
Trong lĩnh vực sử dụng đất, hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử
dụng đất trong hoạt động kinh tế. Thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu
được
bằng tiền, đồng thời về mặt xã hội là thể hiện hiệu quả của lực lượng lao động
được
sử dụng trong cả quá trình hoạt động kinh tế cũng như hàng năm để khai thác đất.
Đối với ngành nông nghiệp, trong nhiều trường hợp phải coi trọng hiệu quả về mặt
hiện vật là sản lượng nông sản thu hoạch được, nhất là các loại nông sản cơ bản
có ý
nghĩa chiến lược (lương thực, sản phẩm xuất khẩu,… để đảm bảo sự ổn định về kinh
tế -
xã hội đất nước).
Như vậy, hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện pháp tổ
chức sản xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi thế, khắc
phục
các khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên. Trong những điều kiện cụ thể,
đánh
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove
the watermark
8
giá hiệu quả sản xuất nông nghiệp cần gắn với các ngành khác của nền kinh tế
quốc
dân, gắn sản xuất trong nước với thị trường quốc tế. Hiện nay, sử dụng đất nông
nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây trồng vật nuôi không
những là
vấn đề quan tâm của hầu hết các nước trên thế giới, các nhà khoa học, các nhà
hoạch
định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà nó còn là mong muốn của nông
dân, những người trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp [7].
Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng: Vấn đề hiệu quả sử dụng đất không chỉ
xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó mà phải xem xét trên tổng
thể
các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất
Để đánh giá hiệu quả sử dụng đất của một loại hình nào đó người dân đánh giá
chúng trên ba khía cạnh: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi
trường.
- Đánh giá về hiệu quả kinh tế:
Hiệu quả kinh tế: Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu mô tả mối quan hệ giữa lợi ích mà
người sử dụng đất nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích đó. Trong một
nền
sản xuất thì hiệu quả kinh tế là một động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Để đánh giá được hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất canh tác của các nông hộ
được điều tra, tôi sử dụng một số chỉ tiêu đó là:
+ Năng suất cây trồng: Năng suất cây trồng là lượng sản phẩm của cây trồng đó
tính trên một ha trong một vụ hay một năm. Chỉ tiêu này phản ánh trình độ sản
xuất
của địa phương hay toàn ngành.
Năng suất cây trồng i =
Tổng sản lượng cây trồng i
Tổng diện tích gieo trồng cây trồng i
+ Giá trị sản xuất (GO): Là toàn bộ giá trị của cải vật chất và dịch vụ được tạo
ra
trong nông nghiệp qua 1 thời gian nhất định, thường là một năm.
GO = ∑ QiPi
Trong đó: Qi: Khối lượng sản phẩm loại i
Pi: Đơn vị giá sản phẩm loại i
+ Chi phí trung gian (IC): Bao gồm chi phí vật chất và dịch vụ phục vụ cho sản
xuất:
IC = Chi phí vật chất trực tiếp + Chi phí dịch vụ thuê ngoài
+ Giá trị gia tăng (VA): Là phần giá trị sản xuất còn lại sau khi trừ đi chi phí
trung gian. Đó là một phần do lao động sản xuất tạo ra và khấu hao tài sản cố
định
trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove
the watermark
9
VA = GO - IC
+ Tỷ suất VA/IC: Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí bỏ ra sẽ thu được bao
nhiêu đồng chi phí tăng thêm.
+ Tỷ suất GO/IC: Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí trung gian bỏ ra sẽ thu
được bao nhiêu đồng chi phí sản xuất.
+ Tỷ suất VA/LĐ: chỉ tiêu này cho biết một ngày công lao động tạo ra bao nhiêu
đồng giá trị tăng thêm..
+ Hệ số sử dụng ruộng đất: Hệ số sử dụng ruộng đất là tỷ số giữa diện tích gieo
trồng với diện tích canh tác hàng năm ở đơn vị nghiên cứu. Chỉ tiêu này phản ánh
trình
độ sử dụng đất canh tác, hay cho biết mức quay vòng đất canh tác trong một năm
được
tính như sau:
Hệ số SDĐ (%) =
Tổng diện tích gieo trồng trong năm
Tổng diện tích canh tác
+ Tỷ lệ sử dụng đất: Tỷ lệ sử dụng đất là tỷ số giữa diện tích đất đã được sử
dụng
với tổng diện tích đất đai ở vùng nghiên cứu. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sử
dụng
đất và được tính bằng công thức sau:
Tỷ lệ SDĐ (%) =
Tổng diện tích đất tự nhiên - Diện tích đất chưa sử dụng
x 100
Tổng diện tích đất đai
- Đánh giá về hiệu quả xã hội:
Để đánh giá hiệu quả xã hội cho một loại hình sử dụng đất nào đó người dân
thường xét đến chỉ tiêu là loại hình đó giải quyết được bao nhiêu lao
động/ha/năm, khả
năng bố trí lao động, mức độ đáp ứng vấn đề an sinh xã hội, khả năng thu hút và
sử
dụng nguồn vật chất tại chỗ.
- Đánh giá hiệu quả môi trường:
Hiện nay, tác động của môi trường sinh thái diễn ra rất phức tạp và theo nhiều
chiều hướng khác nhau. Cây trồng được phát triển tốt khi phát triển phù hợp với
đặc
tính, tính chất của đất. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất dưới tác động của
các hoạt
động sản xuất, quản lý của con người hệ thống cây trồng sẽ tạo nên những ảnh
hưởng
rất khác nhau đến môi trường.
Để đánh giá chính xác về mặt môi trường người dân thường sử dụng công thức
tính như sau:
Độ che phủ (%) =
Diện tích đất lâm nghiệp có rừng + Diện tích cây lâu năm
x 100
Tổng diện tích đất đai
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove
the watermark
10
1.1.2. Những luận điểm về quản lý đất đai và quản lý đất công ích
1.1.2.1. Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước về đất đai
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đặt ra những yêu cầu to lớn đối với công
tác quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó quản lý
Nhà
nước về đất đai là một trong những lĩnh vực hết sức quan trọng. Để phù hợp với
quá
trình đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề đất đai và đã
ban
hành nhiều văn bản pháp luật để quản lý đất đai, điều chỉnh các mối quan hệ đất
đai
theo kịp với tình hình thực tế.
Đất đai, khi tham gia vào nền kinh tế thị trường thì có sự thay đổi căn bản về
bản
chất kinh tế - xã hội: Từ chỗ là tư liệu sản xuất, điều kiện sống chuyển sang là
tư liệu
sản xuất chứa đựng yếu tố sản xuất hàng hoá, phương diện kinh tế của đất trở
thành
yếu tố chủ đạo quy định sự vận động của đất đai theo hướng ngày càng nâng cao
hiệu
quả. Chính vì vậy, việc quản lý Nhà nước về đất đai là hết sức cần thiết, nhằm
phát
huy những ưu thế của cơ chế thị trường và hạn chế những khuyết điểm của thị
trường
khi sử dụng đất đai, ngoài ra cũng làm tăng tính pháp lý của đất đai.
Từ những lý luận trên phải yêu cầu thực hiện công tác quản lý Nhà nước về đất
đai nhằm các mục đích: Sử dụng đất có hiệu quả và công bằng; đảm bảo nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước.
1.1.2.2. Cơ sở pháp lý về quản lý sử dụng đất đai
Ở Việt Nam, công tác quản lý tài nguyên đất đã được quan tâm từ rất sớm.
Những năm đầu của thập kỷ 80, Nhà nước đã xây dựng một hệ thống chính sách về
đất
đai phù hợp với tình hình đất nước thể hiện ở chính sách thống nhất quản lý
ruộng đất
và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước, đồng thời thực hiện công
tác
đo đạc phân hạng đất và đăng ký thống kê đất đai trong cả nước. Đặc biệt ngày
18/12/1980 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến
pháp sửa đổi quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên
nhiên
trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa,… đều thuộc sở hữu toàn dân và Nhà
nước
thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung”. Đây là cơ sở pháp lý vô cùng
quan
trọng để thực thi công tác quản lý đất đai trên phạm vi cả nước [6].
Ngày 29/12/1987, Quốc hội khoá VIII chính thức thông qua Luật đất đai 1987 và
có hiệu lực từ ngày 08/01/1988. Sau Luật đất đai, Nghị quyết số 10/NQ-TW ngày
05/04/1988 của Bộ Chính trị về giao đất cho hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài
là dấu
mốc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của công tác quản lý sử
dụng
đất đai trong giai đoạn xây dựng đổi mới đất nước.
Cùng với những bước phát triển của cơ chế thị trường, Nhà nước thực hiện chính
sách hội nhập trên nhiều lĩnh vực với thế giới. Hiến pháp năm 1992 ra đời đánh
dấu
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove
the watermark
11
điểm khởi đầu của công cuộc đổi mới chính trị. Tại Điều 17, Hiến pháp năm 1992
quy
định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất
đai
theo quy hoạch và pháp luật”.
Luật đất đai 1987 không còn phù hợp và bộc lộ nhiều điểm bất cập. Chính vì vậy,
ngày 01/07/1993 Luật đất đai 1993 được thông qua, chính thức có hiệu lực từ ngày
15/10/1993. Tiếp đó, Luật đất đai năm 1993 được bổ sung một số điều vào năm 1998
và năm 2001. Hệ thống pháp luật về đất đai thời kỳ này đã đánh dấu một mốc quan
trọng về sự đổi mới chính sách đất đai của Nhà nước ta với những thay đổi quan
trọng
như: Đất đai được khẳng định là có giá trị; ruộng đất nông lâm nghiệp được giao
ổn
định lâu dài cho các hộ gia đình, cá nhân; người sử dụng đất được hưởng các
quyền:
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp quyền sử dụng đất….và quy
định 7 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai. Nghị định 64/CP ngày 27/09/1993 quy
định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài
vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994 của Chính phủ
quy định về quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp.
Qua 10 năm thực hiện Luật đất đai năm 1993 đã bộc lộ nhiều vấn đề không phù
hợp với thực tế và thực trạng phát triển của đất nước. Chính vì vậy, ngày
26/11/2003
tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật đất đai năm 2003, có hiệu
lực thi
hành từ ngày 01/07/2004. Luật đất đai 2003 và hệ thống pháp luật về đất đai sau
này
đã vận dụng, kế thừa những chính sách mang tính đổi mới, tiến bộ của hệ thống
pháp
Luật đất đai trước đây, đồng thời tiếp thu, đón đầu những chính sách pháp Luật
đất đai
tiên tiến, hiện đại, phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội, chính trị của đất
nước.
Cùng với Luật đất đai năm 2003, Nhà nước đã ban hành các Nghị định, Thông
tư, Chỉ thị … đã tạo ra một hành lang pháp lý cho công tác quản lý đất đai. Hệ
thống
văn bản pháp Luật đất đai được đánh giá là tương đối hoàn chỉnh với những nội
dung
quy định cụ thể: về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; về phương
pháp
xác định giá đất và khung giá các loại đất; về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà
nước thu hồi đất; về thu tiền sử dụng đất; về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất;
hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử
dụng
đất; hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính; hướng dẫn lập, điều chỉnh
và
thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung
về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử
dụng
đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
và giải
quyết khiếu nại về đất đai. Đây được coi là Nghị định mang tính đột phá, giải
quyết
được nhiều tồn tại, bất cập trong quá trình quản lý sử dụng đất.
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove
the watermark
12
Luật Đất đai năm 2003 là công cụ pháp lý quan trọng để Nhà nước quản lý, điều
tiết các mối quan hệ về đất đai. Qua gần 10 năm thi hành, Luật Đất đai năm 2003
đã
phát huy khá tốt vai trò ổn định các mối quan hệ về đất đai. Tuy nhiên, nó cũng
đã bộc
lộ những hạn chế nhất định, dẫn đến việc thực thi pháp luật về đất đai còn nhiều
bất
cập, ảnh hưởng không tốt đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội. Do
vậy, 29 tháng 11 năm 2013 tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật
đất
đai năm 2013 (có hiệu lực thi hành ngày 1/7/2014). Luật Đất đai năm 2013 được
Quốc
hội thông qua là sự kiện quan trọng đánh dấu những đổi mới về chính sách đất
đai,
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ
nghĩa, hội nhập quốc tế và bảo đảm giữ vững ổn định chính trị-xã hội của đất
nước, thể
hiện được ý chí, nguyện vọng của đại đa số người dân. Để thực hiện công tác quản
lý,
Điều 22, Luật đất đai 2013 quy định 15 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai gồm:
1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức
thực hiện văn bản đó.
2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập
bản
đồ hành chính.
3. Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản
đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra xây dựng
giá đất.
4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng
đất.
6. Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất.
7. Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
8. Thống kê, kiểm kê đất đai.
9. Xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
10. Quản lý tài chính về đất đai và giá đất.
11. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
12. Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy định
của
pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
13. Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai.
14. Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý
và
sử dụng đất đai.
15. Quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai.
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove
the watermark