Luận văn Thạc sĩ Khoa học quản lý: Đào tạo theo vị trí việc làm nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã (nghiên cứu tại huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa)
4,098
844
115
27
khác; không tuyển chọn và khuyến khích được người có năng lực, thực tài,
nhất là nguồn nhân lực trẻ… Việc tuyển dụng thông qua hình thức cạnh tranh
thi tuyển chỉ được áp dụng đối với những công chức bậc thấp mà không áp
dụng cho những công chức bậc cao do việc thăng tiến hay bổ nhiệm chỉ diễn
ra bên trong nền công vụ mà không có cạnh tranh với bên ngoài.
Theo khoản 3, Điều 7, Luật cán bộ, công chức 2008 thì vị trí việc
làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để
xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đây là
quy phạm giải thích về thuật ngữ
Khác với mô hình chức nghiệp, mô hình vị trí việc làm không xếp theo
ngạch bậc; người lao động được bố trí theo từng vị trí công việc/việc làm mà
trước đó đã được thiết kế theo những yêu cầu, tiêu chuẩn cụ thể và rõ ràng.
(Thiết kế, cấu trúc của mỗi vị trí việc làm trong cơ quan, tổ chức bao gồm
việc xác định danh mục và phân loại các vị trí việc làm cần có để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị, bản mô tả danh mục công
việc và khung năng lực phù hợp để hoàn thành công việc). Mỗi vị trí việc làm
do một hoặc một vài người đảm nhận tuỳ theo khối lượng, cường độ công
việc. Các vị trí công việc khác nhau được xếp vào các mức khác nhau căn cứ
vào mức độ phức tạp, quy mô công việc, đối tượng phục vụ, quản lý và một
số căn cứ khác…; trên cơ sở đó để thiết lập một hệ thống tiền lương. Mỗi
người chỉ làm một công việc cụ thể với một mức lương nhất định; không có
chế độ làm việc suốt đời; việc tuyển chọn người vào làm việc hoàn toàn
không căn cứ vào văn bằng, chứng chỉ mà chủ yếu là căn cứ vào năng lực
thực tế của nhân sự;
Mô hình công vụ việc làm dựa trên khái niệm . Hay nói
cách khác, mỗi công chức được coi là một chuyên gia, bởi mỗi một vị trí công
việc nhất định đòi hỏi một công chức cụ thể với những tiêu chuẩn phù hợp để
đáp ứng yêu cầu công việc. Việc bố trí công chức theo quan điểm
28
t coi trọng công việc hơn là đặc điểm cá
nhân của người nắm giữ công việc.
Mô hình công vụ việc làm, còn gọi là Với những ưu
điểm nổi trội như nói trên, nó còn cho phép lượng hóa các tiêu chí của quy
trình công vụ như: tuyển dụng, đào tạo, đánh giá thành tích công tác, trả
lương... của công chức trong thực thi công vụ vì tất cả xuất phát từ việc phân
tích, mô tả các vị trí công việc trong nền công vụ. Một người chỉ có thể trở
thành công chức hay được bổ nhiệm vào một chức vụ sau khi thi tuyển công
khai. Nhờ đó, tính năng động, hiệu suất làm việc và tính thích ứng cao hơn do
tận dụng được khả năng của người công chức thông qua môi trường “cạnh
tranh” trong và ngoài công vụ, kể cả thu hút các tài năng bên ngoài công vụ.
Mặt khác, trong mô hình công vụ việc làm có thể chuyển đổi công việc từ khu
vực tư sang khu vực công và ngược lại theo yêu cầu công việc và theo năng
lực thực tế của bản thân công chức.
Tuy nhiên, để xây dựng và áp dụng mô hình việc làm là một quá trình
với rất nhiều khó khăn, phức tạp, nhất là trong việc thiết kế mô hình tổ chức,
mô tả công việc, xác định tiêu chuẩn, khung năng lực rõ ràng và cụ thể cho
từng vị trí. Mặt khác, ở mô hình này, công việc của người lao động khó ổn
định, có thể dễ dàng bị mất việc nếu không đáp ứng đúng yêu cầu, tiêu chuẩn
của từng vị trí; khó linh hoạt trong việc chuyển đổi nhân sự giữa các vị trí
việc làm. Công tác thi tuyển, nội dung thi, môn thi, hình thức thi để chọn
người phù hợp, cũng như tiêu chí đánh giá, các cơ chế giám sát, các biện pháp
chế tài đối với hoạt động của công chức trong từng lĩnh vực cụ thể… là những
vấn đề thực tế đặt ra cần nghiên cứu giải quyết.
Theo Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của
Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: “
29
Theo khoản 3 điều 7 Luật Cán bộ, công chức thì vị trí việc làm là:
Tại Khoản 1, điều 7 của Luật Viên chức có ghi:
.
Theo đó, vị trí việc làm có liên quan mật thiết đến đội ngũ cán bộ,
công chức như:
+ Vị trí việc làm là căn cứ đầu tiên để xác định biên chế cán bộ, công chức.
+ Tuyển dụng và bố trí sử dụng cán bộ, công chức theo vị trí việc làm.
+ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo vị trí việc làm.
Nhƣ vậy, đào tạo theo vị trí việc làm được hiểu là việc xác định rõ mục
tiêu đào tạo, lên kế hoạch học tập để bổ sung những kiến thức cần thiết mà
công việc ở vị trí người lao động đang đảm nhiệm yêu cầu. Theo đó, mỗi một
vị trí sẽ có những yêu cầu khác nhau, do đó, người lao động cần phải xác định
rõ công việc ở vị trí mà mình đã, đang và sẽ đảm nhận. Sau khi đã xác định
được yêu cầu mà công việc đề ra, người lao động cần phải đáng giá một cách
khách quan nhất về năng lực thực tế của bản thân đối với công việc đang
được đảm nhận hoặc sẽ được đảm nhận. Từ đó để xây dựng kế hoạch đào tạo
cho bản thân. Việc đào tạo vừa là nghĩa vụ vừa là trách nhiệm của người lao
động đối với chính bản thân người lao động và đối với tổ chức.
1.2. Một số vấn đề liên quan đến vị trí việc làm của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã
1.2.1. Cán bộ, công chức cấp xã
Công chức là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Đây là khái niệm phản ánh đặc sắc riêng của nền công vụ và tổ chức bộ
máy nhà nước ở mỗi quốc gia. Ở các quốc gia tồn tại nhiều đảng phái chính trị,
30
công chức chỉ được hiểu là những người giữ công vụ thường xuyên trong các cơ
quan nhà nước, được xếp vào ngạch, bậc công chức, hưởng lương từ ngân sách
nhà nước. Còn ở những nước chỉ có duy nhất một đảng lãnh đạo nhà nước và xã
hội thì quan niệm công chức được mở rộng hơn, ngoài những chủ thể trên mà
còn gồm cả những đối tượng có dấu hiệu tương tự, nhưng làm việc trong các tổ
chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội.
Ở Úc và Niu Dilân, quan niệm công chức chỉ gồm những người làm việc
trong các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở, trong đó có các cơ quan
hành chính và đơn vị sự nghiệp của nhà nước mà không gồm những người làm
việc trong các cơ quan của đảng hoặc tổ chức chính trị - xã hội. Ở Pháp lại
quan niệm về công chức rất rộng, gồm hai loại: những công chức làm việc
thường xuyên trong bộ máy nhà nước, bị chi phối bởi Luật Công chức; những
công chức bị chi phối bởi Luật Lao động, hợp đồng lao động và luật tư.
Theo Từ điển Tiếng Việt:
- Cán bộ là
;
- Công chức là
(Nguồn: Viện Ngôn ngữ học (2006),
, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng, trang.67).
Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực chính
thức từ ngày 01/01/2010 quy định:
-
31
-
-
Hiện nay, theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và theo Quy định tại
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh,
số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường,
thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thị trấn thì
cán bộ, công chức cấp xã, thị trấn bao gồm:
- Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:
+ Bí thư, phó bí thư Đảng ủy;
+ Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân;
+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
+ Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam);
+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
+ Trưởng công an;
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
32
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc Địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội.
Số lượng cán bộ, công chức cấp xã được bố trí theo loại đơn vị hành
chính cấp xã: cấp xã loại 1 không quá 25 người, cấp xã loại 2 không quá 23
người, cấp xã loại 3 không quá 21 người. Việc xếp loại đơn vị hành chính cấp
xã thực hiện theo quy định tại Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005 của Chính phủ về việc phân loại đơn vị hành chính xã, phường,
thị trấn.
Tóm lại, ta có thể hiểu như sau:
-
1.2.2. Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức xã
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta
luôn xác định, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Trong đó,
(Nguồn: Đảng Cộng sản Việt
Nam (1997),
VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 34).
Ở nước ta, cấp xã có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ trong
cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng dân cư và toàn thể
người dân trong xã; là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là mắt xích
33
quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhân dân. Mọi chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải thực hiện ở cấp xã. Với vị trí
là “”, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã được thể hiện qua các mối
quan hệ: với đường lối, chính sách và pháp luật; với bộ máy chính quyền; với
công việc và với quần chúng nhân dân, cụ thể ở các điểm cơ bản sau:
- Quan hệ giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với cán bộ, công chức cấp
xã là mối quan hệ nhân - quả. Cán bộ, công chức cấp xã có phẩm chất và năng
lực tốt mới có thể cụ thể hóa, bổ sung hoàn chỉnh đường lối và tổ chức thực hiện
tốt đường lối. Nếu cán bộ, công chức cấp xã không vững mạnh thì cho dù
đường lối, nhiệm vụ chính trị có đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực. Như
vậy, cán bộ, công chức cấp xã góp phần quyết định sự thành bại của đường lối
và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
- Cán bộ, công chức cấp xã là những người trực tiếp đem chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời nắm bắt tình hình triển khai thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước phản
ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và
phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã là
cầu
nối giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng nhân dân.
- Cán bộ, công chức cấp xã là nhân tố chủ yếu, hàng đầu và là nhân tố
“g” nhất ở cơ sở, tuy nhiên cán bộ, công chức cấp xã lại chịu sự chi phối,
ràng buộc của tổ chức. Tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã buộc người cán
bộ, công chức cấp xã phải hoạt động theo những nguyên tắc và khuôn khổ
nhất định. Tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã khoa học và hợp lý sẽ nhân
sức mạnh của cán bộ, công chức cấp xã lên gấp nhiều lần. Cán bộ, công chức
cấp xã chỉ có sức mạnh khi gắn với tổ chức chính quyền và nhân dân, nếu
tách rời thì cán bộ, công chức cấp xã mất sức mạnh quyền lực và hiệu lực do
nhân dân tạo nên.
34
- Cán bộ, công chức cấp xã là lực lượng “” trong quản lý và tổ
chức công việc ở cấp xã. Mỗi cán bộ, công chức cấp xã được giao thực hiện
một khối lượng công việc rộng, nhiều và có tác động ảnh hưởng lớn trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Chính
họ cũng có khả năng đóng góp một khối lượng lớn ý kiến đề xuất với các cơ
quan nhà nước cấp trên để xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp
hướng tới Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
- Cán bộ, công chức cấp xã là những người gần dân nhất, có vai trò trực
tiếp bảo đảm kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ,
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã
hội, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Họ là những người đóng vai trò
tiên phong, đi đầu trong đấu tranh chống các hiện tượng quan liêu, tham
nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác, làm cho tổ chức Đảng, bộ máy chính
quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thông
qua hoạt động của cán bộ, công chức cấp xã, nhân dân thể hiện được quyền
làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình.
Tóm lại, cán bộ, công chức cấp xã có vị trí, vai trò hết sức to lớn. Cán bộ,
công chức cấp xã là lực lượng gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc với nhân dân,
làm cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; là lực lượng đông nhưng
trình độ lại thấp trong đội ngũ cán bộ, công chức của cả nước nói chung.
Cán bộ, công chức cấp xã đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và là lực lượng
chiếm số lượng hết sức đông đảo trong tổng số biên chế hiện nay. Chính vì
vậy, việc xác định rõ đặc điểm, vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã là
vấn đề cần thiết để có chủ trương, chính sách phù hợp.
1.2.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng của cán bộ, công chức cấp xã
, cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm.
Cán bộ chủ chốt cấp xã đều được thực hiện theo cơ chế: Đảng cử, dân
bầu. Do vậy, nếu không làm tốt công tác nhân sự hoặc do ảnh hưởng của yếu
35
tố họ tộc trong nông thôn Việt Nam dễ dẫn đến tình trạng chức
vụ mà không chú trọng đến trình độ, năng lực của người được đề cử.
Việc tuyển dụng, bổ nhiệm chưa gắn với việc thi tuyển, lựa chọn về
trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuyển dụng nhiều khi mang tính hính
thức, để có chức danh mà không quan tâm đến trình độ chuyên
môn nghiệp vụ. Như vậy, khó tránh khỏi tuyển dụng những người yếu kém
về năng lực, phẩm chất làm ảnh hưởng đến chất lượng của cán bộ, công
chức cấp xã.
Hai là, chế độ chính sách.
Các chế độ, chính sách về cán bộ của các địa phương trong toàn quốc
hầu hết đều chú trọng thu hút nhân lực làm ở các cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện
hoặc các đơn vị sản xuất kinh doanh mà ít chú trọng đến cán bộ, công chức ở
cấp xã, tất yếu tạo nên đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vừa yếu lại vừa
thiếu. Trừ một số cán bộ, công chức được tăng cường từ quận, huyện. Uỷ ban
nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Quyết định số 798/2010/QĐ-UBND
ngày 11/3/2010 về việc chính sách thu hút người có trình độ đại học trở lên về
công tác tại xã, phường, thị trấn. Huyện Yên Định là một trong những huyện
đi đầu trong việc thực hiện chính sách của Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, bước đầu triển khai thực hiện
chính sách của huyện còn bộc lộ một số hạn chế. Thứ nhất: do đặc thù địa bàn
của huyện phân bố các xã, thị trấn phát triển kinh tế, xã hội và hình thái canh
tác, kinh doanh sản xuất không đồng đều, nên việc phân bổ và thu hút các đối
tượng về đảm nhiệm các chức danh công chức vẫn còn gặp không ít khó
khăn. Thứ hai: các đơn vị xã, thị trấn do đã sắp xếp cán bộ, công chức cũ có
công việc từ trước đó hiện đang đảm nhiệm các chức danh chuyên môn chính
nên khi bố trí công việc cho công chức mới còn vướng phải một số bất cập.
Thứ ba: công chức các xã, thị trấn thường được các đơn vị quy hoạch và là
nguồn chủ yếu để đảm nhiệm các chức danh chuyên trách và các vị trí lãnh
đạo chủ chuốt của địa phương, nên khi có công chức mới ở nhiều địa
36
phương khác đến công tác nên các đơn vị cũng lúng túng khi tiếp cấn, sử
dụng. Do vậy chưa làm thay đổi được nhiều về cơ cấu trình độ và năng lực
của cán bộ, công chức cấp xã.
Chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công
chức cấp xã nói riêng vẫn chưa đồng bộ từ quy hoạch đến đào tạo, bồi dưỡng,
bố trí, sử dụng đến cơ chế kiểm tra, giám sát. Do đó dẫn đến thiếu tính nhất
quán trong đào tạo, bồi dưỡng lẫn bố trí, sử dụng, làm ảnh hưởng đến chất
lượng cán bộ, công chức cấp xã là điều khó tránh khỏi.
Ba là, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng.
Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã được hình thành và chịu ảnh
hưởng chủ yếu là thông qua đào tạo, bồi dưỡng. Có thể nói, qua đào tạo, bồi
dưỡng mà mỗi người tiếp thu được tri thức, kinh nghiệm, các quy luật vận
động của tự nhiên, xã hội và tư duy để vận dụng vào thực tiễn, nhận thức
được cái đúng, cái sai để từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu trong hành
động, tự hoàn thiện bản thân và để phấn đấu vươn lên.
Tuy vậy, hiện nay cán bộ, công chức cấp xã nhìn chung là yếu kém về
năng lực, trình độ, có sự sa sút về phẩm đạo đức, phẩm chất, chưa thực sự
đảm đương được nhiệm vụ trong tình hình mới. Đánh giá về nguyên nhân của
những hạn chế, yếu kém đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX chỉ rõ: “…
(Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam (2002),
, Nhà xuất ban
Chính trị quốc gia, Hà Nội).
Công tác đào tạo, bồi dưỡng hiện nay thực tế chưa thực sự đáp ứng về
truyền thụ kiến thức, nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ, công chức cấp
xã để hoàn thành nhiệm vụ trong thời kỳ mới, ảnh hưởng không nhỏ tới chất
lượng cán bộ, công chức cấp xã, thể hiện qua một số bất cập sau: