Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn " Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 "
3,385
16
117
hồn người cha từ đời sống tâm linh như thế cũng là một cách đi vào chiều
sâu
tâm hồn nhân vật.
ở Những bông bần li (Dương Thu Hương) thì sự kết hợp của hai yếu
tố thực và ảo cũng góp phần soi sáng chiều sâu tâm thức nhân vật. Nếu cuộc
sống hiện tại với người chồng hờ hững vô tâm chỉ đem lại cho Ngân những
bực bội, đau khổ thì hình ảnh và sự hi sinh của Nghiêm (người yêu trong
quá
khứ của Ngân) lại đem đến cho chị những sự nâng đỡ. Dù rằng những tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
102
cảm ấy chỉ như một tiếng sấm vọng về từ cuối trời xa khi cơn giông đã qua
đi
lâu lắm thì nó vẫn làm cho người đàn bà ba mươi lăm tuổi ấy lần đầu tiên
biết nghĩ đến đời mình một cách thấu đáo. Cũng là lần đầu tiên chị tìm thấy
nguồn sáng riêng biệt cho đường đi của mình[67/157]. Sự soi rọi từ bóng
hình của người chiến sĩ đã hi sinh có tác động thăng bằng và thanh lọc tâm
hồn Ngân. Nó như một luồng ánh sáng thoạt đầu còn mỏng manh như sợi
khói trong cõi vô thức xa xôi nhưng dần dần nó rõ nét hơn, lớn hơn choán
hết
tâm trí chị.
Như vậy, trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 phương diện đời sống
tâm linh con người được khám phá ở một chiều sâu mà giai đoạn trước đó
chưa đạt đến. Nó góp phần làm phong phú trong quan niệm nghệ thuật về
con
người và tạo ra những biến đổi quan trọng trong phương thức biểu hiện
nhân
vật. Nhìn chung, việc khám phá sâu vào lĩnh vực tâm linh, mở ra những
miền
phong phú, bí ẩn không cùng của con người chính là xuất phát từ một quan
niệm không đơn giản, xuôi chiều về con người, từ ý muốn khám phá con
người ở nhiều thang bậc giá trị, ở những tọa độ ứng xử khác nhau, ở nhiều
chiều kích[21/288].
2.2.2. Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong những chiều thời gian khác
nhau
Bên cạnh việc phân tích tâm lí, nhân vật còn được đặt trong dòng thời
gian và lịch sử, trong các khả năng lựa chọn và thích ứng, trong những
nghịch
lí của tồn tại, trong sự khác biệt của những người hôm qua và những người
hôm nay. Nguyễn Văn Long cho rằng giải pháp nghệ thuật mà một số truyện
ngắn đã tìm đến là đặt nhân vật vào trong những chiều thời gian khác nhau,
đan cài giữa hiện tại và quá khứ để làm nổi bật nghệ thuật này trong đời
sống
tinh thần và số phận mỗi con người khác nhau[39/218]. Việc sử dụng thời
gian đồng hiện thường đi liền với những đối thoại bên trong của nhân vật
như
là những thủ pháp giúp nhà văn đi sâu hơn vào thế giới bên trong, vào
những
diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp của con người. Có thể kể đến những
truyện
ngắn đã thành công trong việc sử dụng giải pháp nghệ thuật này như : Sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
103
trong thời gian hai chiều (Vũ Tú Nam), Có một đêm như thế (Phạm Thị
Minh Thư), Gió từ miền cát (Xuân Thiều), Người không đi cùng chuyến
tàu
(Nguyễn Quang Thân)…
ở những truyện ngắn này việc đan xen giữa hiện tại và quá khứ
thể hiện sự phân thân trong đời sống tinh thần của con người. Giữa những
lo
toan đời thường sau chiến tranh, con người vẫn dành một phần tâm tưởng
cho
quá khứ. Nhiều lần hiện tại mờ đi hoặc đi soi sáng nhờ quá khứ. ở Những
bông bần li, quá khứ đã trở thành nỗi ám ảnh trong nhân vật Ngân. Quá
khứ
với một người yêu đã hi sinh nhưng đôi mắt nâu dài, khi cười như có nắng
của anh vẫn luôn theo chị. Đặc biệt là những lời nói cuối cùng của anh
trước
khi ra đi trong cuộc chiến đấu lâu dài này, tụi mình hi sinh phải lí hơn, tụi
mình già rồi. Các cậu còn trẻ các cậu phải ở lại để đánh giặc cho tới lúc
chiến thắng [67/153]như một sự thức tỉnh tâm hồn chị, giúp chị một lựa
chọn
đúng đắn trong cuộc sống hiện tại: Những bài học lịch sử…đó chính là
luồng
sáng lung linh nâng đỡ cuộc đời chị. Chị sẽ giáo dục các con chị, những học
sinh nhỏ bé của chị, những thế hệ sau này biết rung động sâu xa trong đời
sống chung, với những cội nguồn đem đến cuộc sống cho chúng[67/157].
Đúng như tên gọi của nó Sống trong thời gian hai chiều của Vũ
Tú Nam lại như một bản kiểm điểm chân thành của nhân vật trước dòng
chảy
của thời cuộc. Tác giả đặt nhân vật ở thời điểm ngoái nhìn lại quá khứ sau
khi
đã từng kinh qua hai cuộc kháng chiến. Chỉ mấy ngày trở lại quê hương
nhưng ông An đã sống trong hai chiều thời gian của mấy chục năm. Thời
gian đã cật vấn ông, nhào nặn ông, phán xét và thúc đẩy ông[67/866]. Nếu
thời trẻ khi đi vào cách mạng lòng ông luôn phơi phới, tưởng như cái gì
cũng
đơn giản, dễ dàng thì khi cuộc sống trở về hoàn cảnh bình thường lại đặt
ông
trước bao mối quan hệ mới mẻ buộc phải lựa chọn.Trước dòng đời, trước
dòng thời gian, ông đã phải dừng lại để suy ngẫm: chúng nó (con cháu
mình)
đi xuôi thời gian, các cụ ngược về dĩ vãng, còn mình thì đứng giữa ư? Hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
104
theo hướng nào ?[67/850] Sự đồng hiện về thời gian ở truyện ngắn này gúp
nhà văn đi sâu hơn vào những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.
Cái quá khứ trong veo, thoảng hương hoa loa kèn và âm hưởng của
giọng nói vừa giễu cợt vừa trìu mến lại như một luồng gió tươi mát ùa vào
tâm hồn mệt mỏi Miên (Có một đêm như thế- Phạm Thị Minh Thư). ở
truyện
ngắn này, cái ánh sáng rạng rỡ của ngày hôm qua vẫn tiếp tục chiếu rọi vào
cuộc sống hàng ngày hôm nay như nâng bước cho con người trong cuộc
sống
hiện tại. Trong Khách ở quê ra (Nguyễn Minh Châu) thời gian hiện tại và
quá
khứ đan cài vào nhau theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật Khúng. Nhiều
truyện ngắn khác lại có cuộc hành trình ngược về quá khứ như tìm đến một
nguồn sức mạnh tinh thần để đi tiếp hành trình đến tương lai (Tuổi thơ im
lặng, Gió từ miền cát) .
Có thể nói, trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975, vấn đề
thời gian chưa có nhiều ý nghĩa trong đời sống nội tâm con người như giai
đoạn sau 1975. Đây không phải là thời gian của những sự kiện lớn lao hay
thời gian vĩnh hằng trong dòng chảy của nó mà là thời gian trong ý thức của
cá nhân, ý thức về từng khoảnh khắc đang sống. Đó là thời gian của những
tâm trạng, gắn với những biến động trong đời sống mỗi con người cá
nhân.Vì
thế việc đặt nhân vật vào những chiều thời gian khác cũng là một cách để
miêu tả sâu sắc hơn đời sống nội tâm của con người .
3.Nghệ thuật trần thuật
Theo từ điển thuật ngữ văn học trần thuật là phương diện cơ bản của
thể loại tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân
vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của chủ thể trần thuật. Nghệ
thuật trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động
lời
nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc lĩnh hội theo ý định tác giả.
Trong trần thuật có nhiều phương diện: điểm nhìn trần thuật, giọng điệu
trần
thuật, ngôn ngữ trần thuật…ở luận văn này chúng tôi chỉ khái quát những
dấu
hiệu đổi mới của nghệ thuật trần thuật trên các phương diện chính.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
105
3.1. Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật
Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù
hợp trong cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của các tác giả. Khái niệm điểm
nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ
thể
đối với thế giới. Nó là vị trí dùng để quan sát, cảm nhận, đánh giá bao gồm
cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lý, tâm lý văn
hoá[78].
Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 cho thấy, điểm nhìn trần
thuật được tổ chức chủ yếu từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Trần thuật ở
ngôi
thứ nhất, là hình thức mới xuất hiện trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ
XX. Đây cũng là hình thức nghệ thuật được truyện ngắn nói riêng và văn
xuôi
nói chung sử dụng chủ yếu ở hai dạng cụ thể: Trần thuật từ ngôi thứ nhất
với
vai trò người dẫn truyện hoặc trao cho nhân vật chức năng trần thuật từ
ngôi
thứ nhất (về hình thức nhân vật có thể xưng tôi nhưng không phải là tác
giả).
Trần thuật ở ngôi thứ nhất trong vai trò người dẫn truyện thực chất chủ
thể trần thuật được nhân vật hoá để thực hiện vai trò dẫn truyện. Trước năm
1975, tuy chủ thể trần thuật cũng được nhân vật hoá nhưng thực chất vẫn là
cái tôi hướng ngoại đại diện cho cộng đồng. Còn sau 1975, đó là cái tôi
hướng
nội, là sự trần thuật theo quan điểm cá nhân. Đó là nhân vật nghệ sĩ nhiếp
ảnh
trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật tôi (Mặt trời
bé con của tôi- Thùy Linh), nhân vật tôi (Hạnh Nhơn - Nguyễn Thành
Long)...Với kiểu trần thuật này, người kể truyện thường xưng tôi đóng vai
trò
trung tâm, giữ quyền kể truyện từ đầu đến cuối chuyện. ở một số truyện hầu
như tôi là nhân vật duy nhất, còn những nhân vật khác chỉ được miêu tả từ
điểm nhìn của người kể truyện (Hạnh Nhơn). Qua hình thức kể truyện này,
người kể truyện - tác giả - đã thể hiện tư tưởng tình cảm của mình một cách
tự
nhiên. ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trong khi kể lại cảnh người
chồng đánh vợ một cách tàn bạo, người kể truyện đã bộc lộ ngay thái độ của
mình: Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
106
đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi, chẳng biết từ bao giờ, tôi đã
vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới[11/336]. Còn ở truyện Hạnh
Nhơn, trong tình huống nhận lầm cha của cô bé Hạnh Nhơn người kể
chuỵện
đã rất dễ dàng bộc lộ những băn khoăn suy nghĩ của mình: Cuộc đời của em
như thế nào mà em phó thác giọt máu đó của em cho anh? Tôi rất bối rối
trong tình huống khó xử đó…Vậy thì tôi giải quyết như thế nào ý muốn của
người đã khuất[8/309]. Như vậy, qua hình thức trần thuật này, thường là
những nhân vật hướng nội, có đời sống nội tâm phong phú, có quá trình
diễn
biến tâm lí phức tạp. Người trần thuật cũng là người tham gia vào câu
chuyện
và nhiều khi in đậm dấu ấn của chính tác giả với những trạng thái tâm hồn,
cảm xúc hoặc cuộc đời, số phận riêng không phẳng lặng.
ở dạng thứ hai trong cách trần thuật từ ngôi thứ nhất thường là các
nhân vật được tác giả trao cho chức năng trần thuật. Đó là Quỳ (Người đà
bà
trên chuyến tàu tốc hành), là Miên (Có một đêm như thế) là Ngân (Những
bông bần li)…Trao cho nhân vật nhiệm vụ trần thuật hoặc người kể truyện
đứng đằng sau nhân vật, nhà văn không tham gia vào quá trình diễn biến
câu
chuyện mà để cho các nhân vật tự kể lại cuộc đời, số phận của mình. Cách
trần thuật này giúp cho nhà văn có thể soi vào phần khuất lấp trong ý nghĩ
của
nhân vật vì người trần thuật vừa là nhân chứng vừa là nhân vật chính của
câu
chuyện.
Với cách trần thuật từ ngôi thứ ba, chủ thể trần thuật là người biết hết
mọi người, mọi việc và giữ vai trò duy nhất trong miêu tả, kể chuyện, dẫn
chuyện. Trong truyện ngắn giai đoạn trước 1975, điểm nhìn trần thuật từ
ngôi
thứ ba thường tạo ra khoảng cách giữa người kể chuyện và đối tượng kể.
Thời
kỳ sau 1975, các nhà văn thường trần thuật từ ngôi thứ ba nhưng có sự hoà
nhập song trùng chủ thể khiến cho khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật
được thu hẹp dần. Từ điểm nhìn bên ngoài để khẳng định cho một tư tưởng
có
sẵn, điểm nhìn trần thuật dịch chuyển vào bên trong ở lối trần thuật này, tác
giả không chỉ kể mà còn đi sâu miêu tả tâm trạng bên trong nhân vật trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
107
những lời độc thoại, những hồi tưởng, nhận thức, suy tư, chiêm nghiệm.
Những truyện ngắn về đề tài thế sự của Nguyễn Minh Châu thường được
trần
thuật từ điểm nhìn này (Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ
trẻ ở dãy K…) Trần thuật theo cách này, lúc đầu nhà văn trọn một điểm
nhìn
tương đối khách quan bên ngoài sau đó di chuyển điểm nhìn vào bên trong
nhân vật. ở đó cái nhìn như xuyên qua nội tâm nhân vật trong một tính chất
hoà nhập đậm nét đến mức tạo cho người đọc có cảm giác tác giả đã hoá
thân
vào nhân vật của mình, nhìn thế giới theo con mắt của nhân vật thâm nhập
vào suy nghĩ và ấn tượng của nhân vật. Truyện Sống mãi trong cây xanh
của
ông tiêu biểu cho cách trần thuật này. Lúc đầu, khi miêu tả công việc của
bác
Thông tác giả tỏ ra khách quan như người đứng ngoài chứng kiến vừa miêu
tả, vừa kể lại. Nhưng khi kể đến việc chặt cây sấu, người kể chuyện như
nhập
hẳn vào nội tâm nhân vật, sống trong những tâm trạng đau đớn xót xa như
sắp
phải đứng để cho người ta cưa tay cưa chân mình. Sự hoà nhập, thậm chí
hoá
thân đó đã giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức
tạp, những diễn biến tâm lí tinh vi của nhân vật trong mối quan hệ với thế
giới
đa dạng, đa chiều .
Truyện ngắn giai đoạn chiến tranh thường có một giọng, một điểm nhìn
trần thuật. Nhưng trong các truyện ngắn sau 1975, xu hướng chung là có sự
phối hợp các điểm nhìn trần thuật. Có điểm nhìn người dẫn truyện, điểm
nhìn
nhân vật, điểm nhìn bên trong, bên ngoài, điểm nhìn không gian thời gian,
điểm nhìn đánh giá tư tưởng cảm xúc ...Tác giả để cho các điểm nhìn này
đan
cài vào nhau vì thế nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ, được khắc hoạ
toàn vẹn hơn về chân dung, tính cách, số phận để từ đó khái quát lên những
vấn đề có tính triết lí. Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) là một
trong những truyện ngắn tiêu biểu cho việc phối hợp các điểm nhìn. Số phận
đầy bi kịch của người đàn bà làng chài được Nguyễn Minh Châu soi chiếu
từ
nhiều điểm nhìn khác nhau của các nhân vật. Mỗi nhân vật một cách nhìn.
Với cái nhìn của trẻ con vô tư, yêu ghét rạch ròi thì thái độ của thằng Phác
là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
108
giận giữ nhảy xổ vào người bố để chống trả lại những trận đòn bảo vệ mẹ
nó.
Còn chị nó đã đủ lớn khôn hơn để ngăn giữ nó lại. Vị chánh án thì một mực
đưa ra giải pháp li hôn và cho đó là cách giải quyết duy nhất để giải thoát
cho
người đàn bà kia khỏi sự vũ phu của người chồng. Nhà nhiếp ảnh thì vô
cùng
phẫn nộ trước cảnh tượng hết sức vô lí. Nhưng người đàn bà, nạn nhân của
tấn bi kịch, lại khiến người khác giật mình: lòng các chú tốt nhưng các chú
đâu có phải người là làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc
của
người làm ăn lam lũ khó nhọc[11/343]. Một người đàn bà với lũ trẻ đâu có
sống dễ dàng gì giữa mênh mông sông nước nếu thiếu đi bàn tay chèo chống
của người đàn ông. Người đàn bà ấy không sống cho mình mà sống vì
những
đứa con kia. Với sự đa dạng về điểm nhìn như thế, truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu là sự phát hiện ra những vấn đề nhức nhối của đời sống con
người, buộc người đọc phải trăn trở trong những câu hỏi không dễ tìm lời
giải
đáp .
Như vậy sự đa dạng và sự chuyển dịch liên tục các điểm nhìn trần thuật
đã tạo ra cho các tác giả nhiều cách thức khác nhau khi tiếp cận hiện thực
và
thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình. Đồng thời sự phong phú về điểm
nhìn
cũng là điều kiện quan trọng để hình thành giọng điệu .
3.2. Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật
Từ giọng điệu chủ âm là ngợi ca trong văn xuôi giai đoạn chiến tranh,
văn xuôi sau năm 1975 có sự đa dạng, phong phú hơn trong giọng điệu trần
thuật. Mỗi nhà văn bộc lộ cá tính sáng tạo của mình ở một giọng điệu riêng
khó trộn lẫn. Họ đã chú ý hơn trong việc miêu tả tâm lí con người, vì thế
nhân
vật thường bộc lộ những nét tính cách, phẩm chất qua sự chiêm ngưỡng, suy
nghĩ đấu tranh trong chính bản thân mình. Điều này được thể hiện qua
nhiều
truỵên ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Vũ Tú Nam, Xuân
Thiều, Dương Thu Hương…
Trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng từ sau năm 1975,
người đọc nhận thấy sự đan xen của nhiều giọng điệu. Ngay ở một tác giả
một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
109
tác phẩm tính chất đa dạng cũng ngày càng bộc lộ rõ. Nguyễn Minh Châu là
trường hợp tiêu biểu về sự đa dạng trong giọng điệu trần thuật. Có thể coi
Bức tranh là truyện ngắn thể hiện những thay đổi sớm nhất và rõ nhất về
giọng điệu trong các sáng tác sau chiến tranh của ông. ở truyện ngắn này,
giọng điệu tác giả và giọng điệu của nhân vật nhiều lúc khó mà phân biệt.
Sự
hoà quyện giọng điệu ấy vang lên trong cuộc đấu tranh nội tâm của nhân
vật
qua đó ghi lại những diễn biến tâm trạng một cách chân thực. Cuộc đối
thoại
khi thì mang giọng điệu mỉa mai giễu cợt thói đạo đức giả của chính nhân
vật:
A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi
đi
hả…Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi[11/127]; khi thì
mang giọng tư biện: Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ
truyền thần…Anh chỉ là một cá nhân, với cái chuyện riêng của anh, anh hãy
chịu khó để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn[11/127];
khi
lại đanh thép kết tội mình là đồ dối trá. Những giọng này vừa đan xen, vừa
luân chuyển theo những biến đổi tâm trạng của nhân vật. Nhưng nổi bật và
xuyên suốt trong tác phẩm vẫn là một giọng điệu thâm trầm của một tâm
hồn
đang diễn ra những biến cố dữ dội.
Tính chất đa giọng điệu ấy tiếp tục được sử dụng triệt để hơn trong
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. ở thiên truyện này luôn vang lên
nhiều tiếng nói khác nhau, nhiều cuộc đối thoại đan cài, xen kẽ vào nhau.
Tiêu biểu là những đối thoại nội tâm của Quỳ trong những giằng xé trăn trở
trong cơn mộng du để tìm đến trong chân lí của cuộc sống. Đó còn là cuộc
đối
thoại giữa nhân vật người dẫn chuyện với Quỳ, giữa Quỳ và anh ấy, rồi giữa
Quỳ với vong linh những người lính đã từng yêu thương cô. Chính tính chất
đa giọng điệu đã tạo ra sức gợi mở và tính tranh luận để kiếm tìm chân lí.
Đó
cũng chính là một trong những biểu hiện của xu hướng dân chủ hoá trong
văn
xuôi của Nguyễn Minh Châu đầu những năm 80.
Khi đi vào cuộc sống của những con người đời thường, tuỳ theo từng
kiểu người mà giọng điệu của nhà văn biến đổi linh hoạt cho phù hợp. ở
Sắm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
110
vai, miêu tả sự lố bịch kệch cỡm trong hành động của nhà văn T, Nguyễn
Minh Châu chủ yếu sử dụng giọng điệu hài hước. ở Mẹ con chị Hằng, Đứa
ăn cắp là giọng nghiêm nghị, xót xa khi nói đến những sự vô tâm của con
người trong cuộc sống. Còn ở Bức tranh và Dấu vết nghề nghiệp lại là
giọng
điệu trầm tĩnh, day dứt đầy triết lí. Với nhân vật Khúng trong Khách ở quê
ra, nhà văn sử dụng giọng điệu suồng sã, đời thường .
Sự thay đổi từ một giọng sang đa giọng trong truyện ngắn sau 75 có
căn nguyên từ những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người.
Cuộc
sống trong chiến tranh ồn ào náo động nhưng có cái đơn giản của nó còn
cuộc
sống trong hoà bình lại chất chứa nhiều sóng ngầm gió xoáy (Nguyễn Khải)
bên trong. Đứng trước những vấn đề xã hội nhân sinh mới mẻ đòi hỏi nhà
văn
phải có những cách tiếp cận mới, những cách giải quyết mới khác với thời
chiến. Trở về với đời thường để dẫn người đọc thâm nhập vào cái bên trong
đầy bí ẩn, chứa đựng cái bản ngã của mỗi người trong những mặt đối lập,
phức hợp trong tính cách của nó, các tác giả hầu hết đã thay đổi giọng điệu
trần thuật và có bước tiến mới trong tổ chức giọng điệu trần thuật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
111
PHẦN KẾT LUẬN
1. Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh
kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng
nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng
nhanh
và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn
học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn
Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu.
Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc
sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên
nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt
phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện
thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến
tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 (nhất là từ giữa những năm 80 trở đi) với
chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các
nước
trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng, sâu
sắc
nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn.
Sự cách tân thể loại này bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật về hiện thực
và con người đến phương thức thể hiện, từ chức năng của văn học đến tư
cách
người nghệ sĩ, từ phương diện tư tưởng đến phương diện thi pháp. Tuy
nhiên,