Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Thơ Trần Nhuận Minh
457
375
129
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
bóc đi một lớp áo đất đá đày đặc bao phủ hàng triệu năm, làm phát lộ một màu
vàng đen óng ánh phơi giữa nắng trời. Trước thành quả lao động, người thợ trào
dâng một cảm xúc vừa nghẹn ngào, vừa tự hào, lâng lâng:
Cơn mƣa này mở rộng niềm vui
Than hiện trên những tầng vỉa dày nục nạc
Nhìn vỉa than mừng rơi nƣớc mắt
Tổ quốc mình giàu có thế này ƣ?
(Trên tầng cao 380)
Cảm xúc đó xuất phát từ tình yêu lao động và tâm huyết của người công
nhân thợ mỏ trước tiếng gọi làm giầu cho tổ quốc:
Tổ quốc mình bát ngát cánh đồng xƣa
Đang nuôi lớn những vùng công nghiệp
Làm thật nhiều than, đấy là điều tâm huyết
Đang gọi trong tim tôi hôm nay
(Trên tầng cao 380)
Trang thơ Trần Nhuận Minh luôn có sự kết hợp, đan xen giữa chất hiện
thực với chất lãng mạn. Từ hiện thực cuộc sống của người thợ, Trần Nhuận
Minh đã tìm thấy, đã phát hiện ra những vẻ đẹp đầy chất lãng mạn. Trên cái nền
của công trường bụi bặm đầy nắng gió, ở độ cao của khung nhà cao tầng, hình
ảnh người nữ công nhân được ví “nhƣ chiếc lá xanh”, mỏng mảnh “nẩy trên cây
sắt thép” và đang rực rỡ phát tỏa trước “muôn ngàn sao sa” bởi “từ tay em
những tia lửa bay ra”:
Em đứng trên khung nhà cao tầng
Nhƣ chiếc lá xanh, nẩy trên cây sắt thép
Từ tay em những tia lửa bay ra
Em thành trung tâm muôn ngàn sao
(Cô thợ hàn trên khung nhà cao tầng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
Hay vẻ đẹp lãng mạn của người thợ lái xe được lồng trong công việc ở
trên độ cao của lưng đèo, của đỉnh núi mà tưởng như đang chạm tới mây trời:
Chính anh nào phải ai nào
Lái xe giữa một tầng cao chín tầng
Nhìn qua óng ánh mây trời
Vùng than điện sáng cũng dầy nhƣ sao
(Thư cho em gái)
Trước yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong đà xây dựng và tiến lên chủ
nghĩa xã hội, người thợ đã nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình là đem
sức lực, lòng hăng say và trí tuệ để đánh thức những “mỏ vàng đen” còn đang
nằm ngủ trong lòng đất. Người thợ mỏ trăn trở, lo toan với những con số tưởng
như trần trụi và khô khan – con số sản lượng pháp lệnh than của mỏ: 4.000.000
tấn nhưng chứa đựng bao tình cảm lãng mạn bay bổng của trái tim và tấm lòng
người thợ:
Hôm nay anh đi
Suốt vùng than
Trong tiếng ồn ào con số
Trong mỗi lo toan đời thợ
…Em ơi
Có vƣợt qua những ngày gian khổ
Mới hiểu đƣợc vì sao
Vì sao con số
Trần trụi
Khô khan
Con số
Lại vỗ vào đời anh nhƣ sóng vỗ
Lại đập vào ngực anh nhƣ trận gió rừng
(4.000.000 – Âm điệu một vùng đất)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
Nhưng sau những bộn bề lo toan và trải qua bao nỗi vất vả, nhọc nhằn
trong lao động, người thợ lại có một khoảng bình yên để cởi lòng mình trong nỗi
rung động tình yêu, và trải hồn mình vào không gian lãng mạn đầy chất thơ giữa
màu nước xanh trong, của biển, của gió trời để tận hưởng cái cảm giác mát mẻ,
thanh tân:
Anh muốn ngồi bên em trên bờ Hạ Long
Tâm hồn ta nhƣ hòa vào xanh trong
Hƣơng biển mát đến tận cùng tim phổi.
(Âm điệu một vùng đất)
Tình yêu của người thợ sẽ được lên hƣơng, dậy sắc trên mảnh đất lành.
Họ đến với nhau từ những cảm xúc đầy lãng mạn của tâm hồn tuổi trẻ, và từ
chính tình yêu về vùng đất đang cần sức trẻ gieo mầm sự sống này. Cuộc hành
trình kiến tạo vùng đất mỏ cũng chính là cuộc hành trình đi từ tình yêu “lặng
thầm và cháy bỏng” đến cái đích của niềm tin và hạnh phúc:
Và rồi em sẽ quen anh
Tay gạt núi, mở chân trời thơ mộng
Anh yêu em lặng thầm và cháy bỏng
Đến tận cùng năm tháng cuộc đời anh…
(Em về vùng mỏ)
Và rồi hạnh phúc tươi hồng cũng đã đến với người thợ. Đó là hạnh phúc
của anh “lái bò” có tiếng còi rất điệu, cất giọng nam cao ngang tàng trong ngày
cưới của mình với cô vẫy đầu đường hàng ngày để cho xe anh đổ đá:
Anh lái bò cất giọng nam cao
Giọng rắn khỏe vút từ lồng ngực
Tay quen lái những cung đƣờng gấp khúc
Lời ca quen những âm điệu ngang tàng.
“có bỏ chúng anh không ơi hỡi cô nàng…”
(Đám cưới cô vẫy đầu đường và anh chàng lái xe bò tót)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
“Có bỏ chúng anh” tức là “có bỏ nghề không” cũng có nghĩa là “có lấy
anh không”. Đứng vẫy đầu đường ở mỏ lộ thiên, nghề đơn giản mà nắng sương
vất vả nên đã có bao nhiêu cô gái, hễ lấy chồng là phải chuyển nghề.
Chính mảnh đất “phố mỏ Hòn Gai quanh năm rừng rực nắng trời” này đã
xe duyên, kết mối cho bao đôi lứa người thợ khi họ gặp nhau trên một công
trường. Đây là lời anh thợ gõ nồi hơi đưa “cô bạn” thợ hàn về quê ra mắt mẹ:
Bạn con đấy, rất hiền mẹ ạ
Biết têm trầu và biết khâu vá
Biết nấu canh cua đồng với rau mồng tơi
(Thưa mẹ)
Cứ như thế, thật dí dỏm, vui tươi, nồng thắm tình người, hình tượng người
thợ mỏ trong thơ Trần Nhuận Minh ngày càng rõ nét, như là kết quả của sự khảo
sát, tìm hiểu, thâm nhập vào các mảnh đời, kết quả của tình cảm được thử thách
của tác giả sau bao nhiêu năm ông sống với vùng mỏ, với những người công
nhân mỏ nơi này.
Nhưng khi viết về người công nhân, Trần Nhuận Minh không chỉ mãi
dừng lại ở cảm hứng ngợi ca mà nhà thơ còn hướng ngòi bút sang cảm hứng thế
sự, để bám sát hiện tượng, sự vật, sự việc đang ngày đêm diễn ra ở cái vùng mỏ
đầy ắp than và cũng đầy ắp mồ hôi nước mắt này – nhất là khi lịch sử dân tộc
đang bước sang một hoàn cảnh mới: sau chiến tranh, tái thiết cuộc sống trong
muôn vàn gian khó, thiếu thốn, vất vả. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào
mảng hiện thực khuất lấp phía sau để phản ánh hình ảnh người công nhân trong
những ngày cực kì khó khăn của đất nước, với cái nhìn đầy sự xẻ chia, thông
cảm, đầy xót xa, đắng đót:
Anh thợ lò mang tín phiếu ra chợ
Tôi có ba mƣơi ngàn, ai trả bao nhiêu?
Gạo nhà nƣớc, bốn tháng liền nợ sổ
Lũ trẻ trƣa nay lại phải treo niêu…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
(Bên đường)
Lời rao bán tín phiếu của “anh thợ lò” cứ găm vào lòng người đọc một
nỗi thương cảm đến quặn thắt. Hình ảnh người công nhân đứng giữa chợ đông
kẻ qua, người lại, với “cơn ớn lạnh, chạy qua tim” và sự“rùng mình” khi nghĩ
đến những đứa con còn chưa “no lòng” và đành hạ giá: “hãy trả tôi dƣới mƣời
ngàn cũng đƣợc”, nhưng rồi lại thất vọng khi “họ mỉm cƣời, và càng bƣớc thêm
nhanh” khiến cho người đọc không khỏi nao lòng.
Bên cạnh hình ảnh người thợ đứng ngơ ngác ở “bên đƣờng” mỏi mắt chờ
mong bán tín phiếu (được trả thay lương) để lấy tiền mua gạo nuôi con là một
hình ảnh, một cảnh ngộ khác, khiến ta càng xót xa hơn, đó là cảnh ngộ: một
người bạn có vợ được chọn đi làm Ô sin ở Đài Loan chớp lấy cơ hội gia đình
mình thuộc diện chính sách, anh công nhân nọ đã động viên vợ đi làm thuê ở xứ
người, tạm thời xa chồng con và gia đình với hy vọng sẽ chèo lái con thuyền
cuộc sống vượt qua “cái tao đoạn” của cuộc khủng hoảng kinh tế trong ngành
than:
Ƣu tiên gia đình liệt sĩ
Mình mới đƣợc làm Ô sin
Ngành than hiện đang giãn thợ
Biết đâu có việc mà tìm
Anh động viên vợ bằng lời lẽ vừa chân tình, vừa chua xót, vừa dí dỏm
mà đớn đau dưới dáng vẻ rất vô tư:
Thôi vui mà đi, mình nhé
Dùng dằng ngƣời khác sẽ thay
Lƣơng tám trăm đô, mỗi tháng
Ơn giời còn một cơ may…
Nhưng ẩn bên trong những lời lẽ tưởng như vô tư và lạc quan đó là một
tâm trạng buồn đến trĩu lòng, bởi đằng sau nụ “cƣời ngơ ngác” là “giọt lệ” của
nỗi niềm đắng chát, tái tê:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
Bạn nói rồi cƣời ngơ ngác
Bâng khuâng gƣơng mặt hao gày
Giọt lệ của ngƣời đứng tuổi
Biết rơi vào cõi nào đây…
Có thể thấy, ngay từ trước thời kì Đổi mới, trong thơ Trần Nhuận Minh
đã có một sự chuyển đổi nhận thức và phương pháp phản ánh hiện thực. Từ chỗ
trong thơ ông chỉ một mầu tươi sáng, lạc quan khi viết về hình tượng người công
nhân vùng mỏ, đến chỗ thơ ông đã khắc họa những bức tranh hiện thực có một
màu sắc trầm và buồn cùng nỗi xót xa, lo lắng về số phận của những người công
nhân quen sống trong cơ chế bao cấp, nay phải đối diện với cơ chế thị trường.
Đó là một cách phản ánh hiện thực đa chiều hơn, phức tạp hơn. Chính vì vậy,
ông đã từng đúc kết về hình tượng người công nhân trong thơ của mình một
cách chân thực và đầy tính nhân văn như sau:
Họ lặn vào thơ tôi…thành câu
Với những hi sinh
Bền bỉ lặng thầm
Để vít đầu xuống
những cơn bão đang sinh thành
bùng phát cuối chân trời
Để đất nƣớc này rạng rỡ tên tuổi
Để đất nƣớc này, vƣợt lên…trong bình yên
(Đá cháy)
Quan niệm viết về người thợ là viết về cái xu thế phát triển của giai cấp
công nhân, Trần Nhuận Minh không nề hà tách ngòi bút thơ vào tất cả những
mẫu người vùng mỏ. Ông đã miêu tả những tình cảm, suy nghĩ khát vọng của
người công nhân trong mối quan hệ với đất nước, với dân tộc. Những suy nghĩ,
tình cảm, khát vọng đó không phải là những khái niệm chung chung. Nó có màu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
sắc cụ thể. Nó được cắm rễ lâu bền từ trên mảnh đất cụ thể mà người thợ đã
sống, đã làm việc với ý thức của giai cấp mình.
Thơ Trần Nhuận Minh viết về người công nhân phong phú chất liệu hiện
thực, có khi dồn ép đến quá tải những bộn bề thực tế sản xuất vào thơ. Khi ông
chú ý khai thác cái phần sâu tâm tình người thợ, hồn thơ ông tỏ ra nhạy cảm với
những khía cạnh tinh tế của cuộc đời. Chỗ mạnh của Trần Nhuận Minh khi viết
về thực tế sản xuất chính là sự phong phú tươi mới của đời sống, của chất liệu
hiện thực cùng với trí tưởng tượng và sự tài hoa của nhà thơ. Tuy nhiên thơ Trần
Nhuận Minh cũng không ít những nhược điểm dễ nhận. Một mặt mô phạm trong
cấu tứ, song mặt khác, lại thường lạm dụng ngôn ngữ lời nói của người thợ trong
diễn đạt. Đã thấy thấp thoáng ở thơ ông đôi ý, đôi câu mòn sáo. Phải chăng Trần
Nhuận Minh cần mở thêm những mũi khoan thăm dò trên chính vùng đề tài
quen thuộc để phát hiện những vỉa mới, những mẫu quặng còn đang tiềm ẩn và
để tìm thêm cách khai thác và xử lí mới những chất liệu ấy.
Gắn bó và viết trên đất mỏ, Trần Nhuận Minh đã góp cho thơ Việt Nam
những câu thơ hay, những bài thơ hay, đặc sắc về người thợ. Nhiều bài thơ giúp
cho người đọc thêm yêu vùng mỏ, yêu những người thợ mỏ trong bất cứ thử
thách gian khổ nào.
2.1.2. Hình tượng người nông dân – những mảnh đời phức hợp
Thơ chân dung là một mảng thơ rất độc đáo của Trần Nhuận Minh,
trong đó, chân dung người nông dân được phác họa rất rõ nét. Họ là những con
người cụ thể, đơn lẻ nhưng lại có chung những nét đặc trưng.
Trần Nhuận Minh viết về nông thôn, về đồng quê với một thứ tình cảm
hết sức chân thật, gan ruột. Ông đã đề cập tới những sự thật không thể coi
thường hay chối bỏ ở chốn này. Thơ ông như đã phát huy tối đa những thế mạnh
của chủ nghĩa hiện thực trữ tình trong ca dao, dân ca đồng bằng Bắc Bộ. Đáng
mừng thay, sau Nguyễn Bính, hồn quê Việt Nam như được tái sinh thăm thẳm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
46
tình người, bâng khuâng, thao thức, cồn cào, trong các bài thơ của Trần Nhuận
Minh khi viết về nông thôn và những chủ nhân của nó ngày hôm nay.
Ngòi bút của Trần Nhuận Minh đã điểm xuyết tới tất cả những gương mặt
người nông dân lao động với những phát hiện hết sức tinh vi, sâu sắc cả bằng
trực quan và cả bằng trực cảm của mình. Họ xuất hiện với những cái tên cụ thể:
thím Hai Vui, bá Kim, ông Vọng, Dì Nga, …ngay cái tên đã báo hiệu một định
mệnh trái ngược với nó. Họ là một tập hợp cảnh ngộ éo le, không ai giống ai,
song họ đều phải gánh chịu những khó khăn, vất vả của cuộc sống thời hậu
chiến và chới với, lo lắng, bất hạnh trước ngưỡng cửa của thời buổi kinh tế thị
trường.
Trong thơ Trần Nhuận Minh, hình như mỗi người phụ nữ nông thôn đều
có một số phận như những con nước trong mùa hạn hán. Mỗi con nước có một
nguồn riêng, nhưng phần lớn đều là cạn kiệt trước khi hòa mình vào dòng lớn.
Hình ảnh một thím Hai Vui hết sức chăm chỉ, đảm đang, nay phải đón
nhận một nghịch cảnh đau xót trong cuộc đời với những bất hạnh không thể nào
biết trước. Trước đây, khi đất nước xẩy ra chiến tranh, thím là hậu phương vững
chắc: “Nuôi hai con ăn học/Cày cấy đến quắt ngƣời” để chồng yên tâm xông
pha nơi tiền tuyến. Lúc ấy thím lại cảm thấy rất vui vẻ và hạnh phúc: “Thím bảo
những năm ấy/Là những năm hòa bình”. Nhưng đến khi đất nước hòa bình, thím
tưởng sẽ được tận hưởng niềm vui, niềm hạnh phúc trọn vẹn trong khúc khải
hoàn ca chung của dân tộc như bao người vợ khác khi có chồng chiến thắng trở
về, nhưng nào ngờ bi kịch gia đình bây giờ mới thực sự ập xuống đầu thím như
một cuộc chiến tranh mới vậy: “Chỉ thƣơng thím Hai Vui/Mặt mũi luôn thâm
tím/Đến bây giờ chiến tranh/Mới đến thật với thím”. Cả cuộc đời có hai lần thím
cười, cả hai lần hòa cùng nước mắt. Đó là lúc thím gặp lại chồng: “Thím cƣời
mà nhƣ mếu”, và lúc thím li hôn chồng: “Miệng mếu lại thành cƣời”, trong nụ
cười ấy tồn tại những đối cực cảm xúc đầy mâu thuẫn. Từ một người phụ nữ có
gia đình, thím lại bị đẩy vào tình cảnh không gia đình: “Nghe đâu thím lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
tỉnh/Rửa bát cho ngƣời ta”, bao nhiêu nỗi gian truân, vất vả, thím có đủ bản
lĩnh
vượt qua, nhưng vết thương tinh thần đã làm thím quỵ ngã, thím mặc cảm trước
sự thương hại của người đời: “Thấy ai quen cũng lánh/Những mặt phấn quần
hoa…”. Trần Nhuận Minh đã thấu hiểu một nghịch cảnh thật nghiệt ngã. Trong
chiến tranh tuy xa cách thiếu thốn vất vả nhưng con người vẫn thấy bình an hạnh
phúc bởi có sự hòa hợp, thấu hiểu và yêu thương sẻ chia. Nhưng nay trước cơn
bão của kinh tế thị trường, lối sống thực dụng xâm nhập và sự ích kỉ các nhân
lên ngôi, con người bỗng thấy trơ trọi và không đủ sức chống đỡ. Đối với người
phụ nữ, chiến tranh đã đem lại bao hi sinh, gian khổ, nhưng hậu chiến tranh, với
những mất mát trong cuộc sống gia đình mới chính là nỗi bất hạnh lớn nhất
không thể vượt qua.
Khác với hoàn cảnh của thím Hai Vui, người phụ nữ ở làng biển tuy có
một gia đình hạnh phúc, nhưng trong lòng chị lúc nào cũng phấp phỏng, lo âu
một tai họa của thiên nhiên có thể giáng xuống. Hạnh phúc của chị cũng rất
mong manh khi người chồng thường xuyên phải đối mặt với những cơn thịch lộ
của biển. Mặc dù cơn bão biển đang tan nhưng cơn bão lòng trong chị vẫn đang
tồn tại:
Không phải sáng nào cũng đứng cân tôm
Chẳng phải chiều nào cũng ngồi vá lƣới
Có điều gì chị còn chƣa kịp nói
Khi anh bồng bềnh đi về phía bão đang tan
Có vẻ gì phấp phỏng lo toan
Trong vời vợi gian nhà ngƣời đánh cá
(Ở nhà người đánh cá biển)
Để có một hạnh phúc bền lâu, có một gia đình yên ấm, không bất trắc,
đối với người phụ nữ vùng biển này thật khó lắm thay! Đó là một sự thật không
thể nào khác được, cho dù ở bất cứ thời kì xã hội nào cũng vậy – vì thiên nhiên
cũng khắc nghiệt chẳng kém gì lòng người!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
48
Ngòi bút của Trần Nhuận Minh còn đụng đến cả những số phận của
những người phụ nữ nông thôn có những hoàn cảnh ngang trái, trớ trêu và họ có
những sự “nổi loạn” một cách mạnh mẽ trong việc tìm đến hạnh phúc đích thực
của mình. Hình ảnh cuộc đời của dì Nga là một cảnh đời như vậy. Với dì Nga,
nửa đời mình an phận trước sự sắp đặt để vừa lòng cha mẹ: “Lấy chồng theo ý
mẹ/Dạy con vâng lời cha”. Dì có một cuộc sống sung túc: “Chuỗi bạc trong
ngực áo/Vòng vàng ngoài cổ tay”, tưởng là dì hạnh phúc, nhưng cuộc sống vật
chất chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài che đậy trái tim băng giá của dì hằng đêm chưa
tìm được nhịp đập đồng điệu. Không chấp nhận một cuộc hôn nhân không tình
yêu và nhận thức được giá trị của hạnh phúc, dì Nga trút bỏ tất cả để đến với
chốn neo đậu đích thực cho mình:
Dì theo một anh chàng
Chuyên nghề câu cá vƣợc
Bên nhau trong khoang thuyền
Giữa bốn bề mây nƣớc
(Dì Nga)
Hạnh phúc phải chăng luôn là một ẩn số trong bài toán cuộc đời mà con
người phải nhọc công tìm kiếm. Và dì Nga phải mất gần nửa cuộc đời còn lại
mới tìm ra đáp số.
Dưới ngòi bút của mình, Trần Nhuận Minh đã đặt ra những vấn đề bức
xúc, nhức nhối trong tình yêu và hôn nhân trước cuộc sống đầy biến động hôm
nay. Đó là vấn đề bạo hành trong gia đình, là sự đồng cảm trong quan hệ vợ
chồng, là sự chạy chốn trong tình yêu hay cố gắng để có được tình yêu…, dù là
vấn đề nào thì nạn nhân cũng là người phụ nữ. Họ vừa là nạn nhân của người
khác, vừa là nạn nhân của chính mình. Trong số họ, có người đã may mắn tìm
cho mình một lối thoát nhưng vết thương lòng thì không thể nào hàn gắn được.
Cảnh đời của những người phụ nữ không chỉ mang nặng vết thương do
tổn thất về tình cảm gia đình, mà họ còn là nạn nhân bị đẩy tới phân cực giàu