Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Thơ Trần Nhuận Minh

517
375
129
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
cũng như bao nhà văn, nhà thơ khác đã ào lên như những “chiến nghệ sĩ”
thực hiện chủ trương đúng đắn, kịp thời một cách tích cực, hết mình.
Đại hội VI của Đảng (1986) như một luồng sinh khí mới dẫn lưu cho
dòng chảy của thơ ông từ sông ra biển lớn”. Thơ ông đã chuyển hẳn sang
khuynh hướng thơ thế sự, đời tư. Trong khi đó, nhiều nhà thơ vẫn còn dừng lại ở
cảm hứng ngợi ca, hoặc là còn rụt rè hay né tránh để khỏi chạm đến những vấn
đề nhạy cảm nhất của xã hội. Nhận thức được vận hội mới, Trần Nhuận Minh đã
tìm được lối rẽ riêng, dám nhấn vào những nghịch cảnh trái ngang, những
nghịch lí nhức nhối của đất nước, những bi kịch về số phận con người trong các
sáng tác của mình. Đặc biệt nhà thơ chuyên chú vào việc nhìn nhận con người ở
phương diện đời thường để phát hiện và tỏa sáng tình thương, tạo nên một chiều
sâu văn chương thế sự, đời tư trong thời kì hiện đại.
Bài thơ Nhà thơ áp tải mốc đầu tiên của lần lột xác này. Với tập
Nhà thơ hoa cỏ, Trần Nhuận Minh đã làm nên vệt thơ chân dung
Nguyễn Bùi Vợi cho rằng thơ ông đã đổi mới, đã thật sự lật cánh để bay ở một
tầm bay mới”. Thơ chân dung đã đưa Trần Nhuận Minh trở thành nhà thơ thế sự
có một vị trí đặc biệt trong lòng độc giả. Và, ông đã bộc lộ quan điểm khi hướng
ngòi bút của mình sang dòng thơ thế sự: “thực ra, tôi nghĩ viết về trời đất bao
la, viết về con ngƣời, cũng tức viết về mình đấy. nhƣ thế, mình mặt
khắp mọi nơi, tự tan ra trong nỗi vui buồn của rất nhiều ngƣời. Vậy thì cái đƣợc
lại càng nhân lên, còn sung sƣớng hơn nữa. Viết về ngƣời, vẫn cần hoa mĩ,
trữ tình, nếu bài thơ yêu cầu cần phải nhƣ thế để bộc lộ một vấn đề, một cốt
cách hay một nhân cách. Thông thƣờng thơ thế sự cần mộc hơn, nhƣng cũng
phải tinh hơn, không mộc thì mất cái chân xác, không tinh thì mất cái hàm súc,
dƣ ba…thơ sẽ không sống đƣợc”[21.254].
Thế nhưng không chỉ cứ mãi dừng lại vệt thơ chân dungnày, Tôi
nghĩ là mình phải bật lên một kênh khác thì mới nên viết tiếp”[11.373]. Một lần
nữa nhà thơ lại rơi vào cảm giác trống vắngvì không biết viết như thế nào để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 29 cũng như bao nhà văn, nhà thơ khác đã ào lên như những “chiến sĩ – nghệ sĩ” thực hiện chủ trương đúng đắn, kịp thời một cách tích cực, hết mình. Đại hội VI của Đảng (1986) như một luồng sinh khí mới dẫn lưu cho dòng chảy của thơ ông từ “sông ra biển lớn”. Thơ ông đã chuyển hẳn sang khuynh hướng thơ thế sự, đời tư. Trong khi đó, nhiều nhà thơ vẫn còn dừng lại ở cảm hứng ngợi ca, hoặc là còn rụt rè hay né tránh để khỏi chạm đến những vấn đề nhạy cảm nhất của xã hội. Nhận thức được vận hội mới, Trần Nhuận Minh đã tìm được lối rẽ riêng, dám nhấn vào những nghịch cảnh trái ngang, những nghịch lí nhức nhối của đất nước, những bi kịch về số phận con người trong các sáng tác của mình. Đặc biệt nhà thơ chuyên chú vào việc nhìn nhận con người ở phương diện đời thường để phát hiện và tỏa sáng tình thương, tạo nên một chiều sâu văn chương thế sự, đời tư trong thời kì hiện đại. Bài thơ Nhà thơ áp tải là mốc đầu tiên của lần “lột xác” này. Với tập Nhà thơ và hoa cỏ, Trần Nhuận Minh đã làm nên “vệt thơ chân dung” mà Nguyễn Bùi Vợi cho rằng thơ ông đã đổi mới, đã thật sự “lật cánh để bay ở một tầm bay mới”. Thơ chân dung đã đưa Trần Nhuận Minh trở thành nhà thơ thế sự có một vị trí đặc biệt trong lòng độc giả. Và, ông đã bộc lộ quan điểm khi hướng ngòi bút của mình sang dòng thơ thế sự: “thực ra, tôi nghĩ viết về trời đất bao la, viết về con ngƣời, cũng tức là viết về mình đấy. Và nhƣ thế, mình có mặt ở khắp mọi nơi, tự tan ra trong nỗi vui buồn của rất nhiều ngƣời. Vậy thì cái đƣợc lại càng nhân lên, còn gì sung sƣớng hơn nữa. Viết về ngƣời, vẫn cần hoa mĩ, trữ tình, nếu bài thơ yêu cầu cần phải nhƣ thế để bộc lộ một vấn đề, một cốt cách hay một nhân cách. Thông thƣờng thơ thế sự cần mộc hơn, nhƣng cũng phải tinh hơn, không mộc thì mất cái chân xác, không tinh thì mất cái hàm súc, dƣ ba…thơ sẽ không sống đƣợc”[21.254]. Thế nhưng không chỉ cứ mãi dừng lại ở “vệt thơ chân dung” này, “Tôi nghĩ là mình phải bật lên một kênh khác thì mới nên viết tiếp”[11.373]. Một lần nữa nhà thơ lại rơi vào “cảm giác trống vắng” vì không biết viết như thế nào để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
làm mới mình. Trong một đêm dự biểu diễn văn nghệ, trước thể nát du
dương, trầm bổng vừa như còn hồ vừa như đã định hình, ông vô cùng xúc
động”, tâm hồn nhà thơ như được tràn đầy thi hứng, với quyết tâm làm mới
mình - Bản Xô nát hoang dã ra đời. Có ý kiến cho rằng, sau Bản Xô nát hoang
dã, Trần Nhuận Minh sẽ kiệt sức. Đáp lại ý kiến đó, ông trả lời: Không chỉ có
trong sáng tác cả ngay trong công việc,… bao giờ tôi ng hết lòng,…làm
việc hay viết, đều cố gắng đi đến tận cùng cái có thể trong cái không thể. Và trở
lại, nhƣ phù sa của một dòng sông, cái kiệt cùng đó sẽ bồi đắp lại cho mình, để
sẽ có một mùa thu hoạch sau”[15.374].
Người xưa nói “bất bình tắc minh”, không có tâm sự khốc liệt thì không
bật ra thành tiếng kêu, không thành văn chương được. Hoàn cảnh nhân nhà
thơ, hoàn cảnh hội (qua các thời khác nhau của đất nước), hoàn cảnh của
bao thân phận, bao số kiếp của con người trong vòng xoáy của cuộc đời đã
chất liệu, cảm hứng nghệ thuật để Trần Nhuận Minh sáng tạo nên những bài
thơ, tập thơ đầy tâm huyết, chất chứa gan ruột của mình! Ông đã làm nên một
“vệt thơ” riêng cho mình – hay nói cách khác: ông đã dày công lao động và sáng
tạo làm nên những tác phẩm nghệ thuật có “nhan sắc” riêng biệt! Nhấn vào bản
chất sáng tạo của nhà thơ, Trần Nhuận Minh cũng đề cập đến một yêu cầu
liên quan trách nhiệm của người cầm bút. Nhà thơ là người hướng dẫn độc giả
về nhân sinh quan, về đạo đức và có khả năng chinh phục công chúng bằng nghệ
thuật ngôn từ. thế mà thơ ông làm xúc động người đọc ngay cả khi ông đưa
ra những triết (có vẻ căng cứng) về sự vô trách nhiệm của thái độ “im lặng”,
thái độ thờ ơ, lạnh lùng…của bao kẻ đối với sự bất công luôn gắn chặt với số
phận của bao người nhỏ bé bất hạnh trong xã hội:
Mọi đặc quyền đều xúc phạm nhân dân
Và bất công nhƣ quả bóng lăn tròn
Từ chân ngƣời này sang chân ngƣời khác
Im lặnh là vàng ƣ?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 30 làm mới mình. Trong một đêm dự biểu diễn văn nghệ, trước thể Xô nát du dương, trầm bổng vừa như còn mơ hồ vừa như đã định hình, ông “vô cùng xúc động”, tâm hồn nhà thơ như được tràn đầy thi hứng, với quyết tâm làm mới mình - Bản Xô nát hoang dã ra đời. Có ý kiến cho rằng, sau Bản Xô nát hoang dã, Trần Nhuận Minh sẽ kiệt sức. Đáp lại ý kiến đó, ông trả lời: “Không chỉ có trong sáng tác mà cả ngay trong công việc,… bao giờ tôi cũng hết lòng,…làm việc hay viết, đều cố gắng đi đến tận cùng cái có thể trong cái không thể. Và trở lại, nhƣ phù sa của một dòng sông, cái kiệt cùng đó sẽ bồi đắp lại cho mình, để sẽ có một mùa thu hoạch sau”[15.374]. Người xưa nói “bất bình tắc minh”, không có tâm sự khốc liệt thì không bật ra thành tiếng kêu, không thành văn chương được. Hoàn cảnh cá nhân nhà thơ, hoàn cảnh xã hội (qua các thời kì khác nhau của đất nước), hoàn cảnh của bao thân phận, bao số kiếp của con người trong vòng xoáy của cuộc đời đã là chất liệu, là cảm hứng nghệ thuật để Trần Nhuận Minh sáng tạo nên những bài thơ, tập thơ đầy tâm huyết, chất chứa gan ruột của mình! Ông đã làm nên một “vệt thơ” riêng cho mình – hay nói cách khác: ông đã dày công lao động và sáng tạo làm nên những tác phẩm nghệ thuật có “nhan sắc” riêng biệt! Nhấn vào bản chất sáng tạo của nhà thơ, Trần Nhuận Minh cũng đề cập đến một yêu cầu có liên quan trách nhiệm của người cầm bút. Nhà thơ là người hướng dẫn độc giả về nhân sinh quan, về đạo đức và có khả năng chinh phục công chúng bằng nghệ thuật ngôn từ. Vì thế mà thơ ông làm xúc động người đọc ngay cả khi ông đưa ra những triết lí (có vẻ căng cứng) về sự vô trách nhiệm của thái độ “im lặng”, thái độ thờ ơ, lạnh lùng…của bao kẻ đối với sự bất công luôn gắn chặt với số phận của bao người nhỏ bé bất hạnh trong xã hội: Mọi đặc quyền đều xúc phạm nhân dân Và bất công nhƣ quả bóng lăn tròn Từ chân ngƣời này sang chân ngƣời khác Im lặnh là vàng ƣ?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
Im lặng là tội ác
(Bản Xô nát hoang dã)
Bởi đằng sau những câu thơ này, người ta nhận thấy thái độ bất bình,
lòng xót xa vô hạn của nhà thơ trước hiện thực phũ phàng. Chính vì thế, với
cách, trách nhiệm của một nhà thơ chân chính, ông nguyện đem theo cây bút
suốt đời bên mình để phụng sự nhân dân, phụng sự cuộc sống:
Bạn ơi!
Ta yêu Nhân Dân
Yêu Cuộc Đời này
Và chính bạn
Ngay cả sau khi Ta chết
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Với ông, cây bút, câu thơ cũng là một thứ vũ khí – như thanh kiếm của vị
anh hùng, vì chúng cùng một mục đích: đấu tranh vì sự công bằng và hạnh phúc
của con người, mặc dù đây là một cuộc đấu tranh rất lâu dài, đầy khó khăn:
Vị anh hùng ơi!
Đi đêm
Nhớ mang theo thanh kiếm
Còn Ta
Ta mang theo câu thơ
Và:
Viết đƣợc một câu thơ trung thực với Nhân Dân
Tôi đã đi qua bốn mƣơi năm bão táp
Cả xã hội diệt trừ cái ác
Cái ác vẫn ngang nhiên cƣời nói giữa đời
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Ý thức trách nhiệm của một nhà thơ trái tim tràn đầy nhiệt huyết, với
cảm hứng thế sự, đời đầy tâm trạng đã đem đến cho sự nghiệp thơ Trần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 31 Im lặng là tội ác (Bản Xô nát hoang dã) Bởi đằng sau những câu thơ này, người ta nhận thấy thái độ bất bình, lòng xót xa vô hạn của nhà thơ trước hiện thực phũ phàng. Chính vì thế, với tư cách, trách nhiệm của một nhà thơ chân chính, ông nguyện đem theo cây bút suốt đời bên mình để phụng sự nhân dân, phụng sự cuộc sống: Bạn ơi! Ta yêu Nhân Dân Yêu Cuộc Đời này Và chính bạn Ngay cả sau khi Ta chết (45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh) Với ông, cây bút, câu thơ cũng là một thứ vũ khí – như thanh kiếm của vị anh hùng, vì chúng cùng một mục đích: đấu tranh vì sự công bằng và hạnh phúc của con người, mặc dù đây là một cuộc đấu tranh rất lâu dài, đầy khó khăn: Vị anh hùng ơi! Đi đêm Nhớ mang theo thanh kiếm Còn Ta Ta mang theo câu thơ Và: Viết đƣợc một câu thơ trung thực với Nhân Dân Tôi đã đi qua bốn mƣơi năm bão táp Cả xã hội diệt trừ cái ác Cái ác vẫn ngang nhiên cƣời nói giữa đời (45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh) Ý thức trách nhiệm của một nhà thơ có trái tim tràn đầy nhiệt huyết, với cảm hứng thế sự, đời tư đầy tâm trạng đã đem đến cho sự nghiệp thơ Trần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
32
Nhuận Minh những giá trị nhân văn sâu sắc: “góp thêm một tiếng nói hiệu
lực vào thức tỉnh lƣơng tri của con ngƣời, mong muốn con ngƣời lƣơng thiện
hơn, yêu thƣơng trân trọng nhau hơn…Không ít câu thơ của tôi thấm đẫm
nƣớc mắt…Tôi yêu cuộc đời này, sống, chết cho nó, viết vì nó, và không bao giờ
mất niềm tin vào nó, khi chính nó đã tự thay đổi nhiều bậc thang giá trị”[8.271].
Lời phát biểu trên của Trần Nhuận Minh cùng với những tập thơ mang
đậm chất hiện thực tính nhân văn của ông đã một bằng chứng cho những
quan niệm hết sức đúng đắn của tác giả về vai trò, trách nhiệm của nhà thơ đối
với cuộc đời, với xã hội, với dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 32 Nhuận Minh những giá trị nhân văn sâu sắc: “góp thêm một tiếng nói có hiệu lực vào thức tỉnh lƣơng tri của con ngƣời, mong muốn con ngƣời lƣơng thiện hơn, yêu thƣơng và trân trọng nhau hơn…Không ít câu thơ của tôi thấm đẫm nƣớc mắt…Tôi yêu cuộc đời này, sống, chết cho nó, viết vì nó, và không bao giờ mất niềm tin vào nó, khi chính nó đã tự thay đổi nhiều bậc thang giá trị”[8.271]. Lời phát biểu trên của Trần Nhuận Minh cùng với những tập thơ mang đậm chất hiện thực và tính nhân văn của ông đã là một bằng chứng cho những quan niệm hết sức đúng đắn của tác giả về vai trò, trách nhiệm của nhà thơ đối với cuộc đời, với xã hội, với dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
Chƣơng 2
HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI – MỘT HÌNH TƢỢNG TRUNG TÂM
TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH
2.1. Hình tƣợng ngƣời lao động – một hình tƣợng nổi bật, đặc sắc trong thơ
Trần Nhuận Minh
Đọc toàn bộ các tập thơ của Trần Nhuận Minh, người ta nhận ra rất
một điều: hầu như tất cả thế giới hình tượng con người trong thơ ông đều
những người lao động. Họ là những người công nhân vùng mỏ than, họ là những
người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, họ những người lao động trí óc,
những nhà thơ, nhà văn lao động cật lực trên trang giấy, trong trường học…
Trong từng thời kì lịch sử của đất nước, họ luôn là những hình tượng trung
tâm trong thơ của Trần Nhuận Minh. Chỉ riêng điều đó thôi cũng đủ thấy nhà
thơ Trần Nhuận Minh đã gắn bó, đã hòa đồng với họ, đã giành hết tình cảm của:
yêu thương, kính trọng, xót xa, đắng đót…trước những số phận, những cảnh ngộ
của những người lao động.
Khi viết về hình tượng người lao động trong các tác phẩm của mình ở hai
giai đoạn lịch sử: trước và sau Đổi mới, Trần Nhuận Minh có cách nhìn nhận và
thể hiện khác nhau (tuy nhiên không đối lập nhau, chỉ là sự mở rộng và bổ sung
cho nhau). Nếu như trước 1986, chủ yếu hình tượng người lao động được
phản ánh dưới góc nhìn của cộng đồng, họ hiện lên trong tư thế của cái Ta nhiều
hơn thế của cái Tôi. Tuy nhiên, ngay sau 1975 thì chân dung cái Tôi đã bắt
đầu hiện rõ hơn, cụ thể hơn. Còn sau 1986 đến nay thì chân dung người lao động
trong thơ ông đã hoàn toàn mang tư cách cái Tôi, đầy tính cá thể: mỗi con người
một số phận, mỗi mảnh đời một màu sắc, cụ thể sinh động trong sự phong
phú, phức tạp của hội thời hiện đại với chế thị trường đầy biến ảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 33 Chƣơng 2 HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI – MỘT HÌNH TƢỢNG TRUNG TÂM TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH 2.1. Hình tƣợng ngƣời lao động – một hình tƣợng nổi bật, đặc sắc trong thơ Trần Nhuận Minh Đọc toàn bộ các tập thơ của Trần Nhuận Minh, người ta nhận ra rất rõ một điều: hầu như tất cả thế giới hình tượng con người trong thơ ông đều là những người lao động. Họ là những người công nhân vùng mỏ than, họ là những người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, họ là những người lao động trí óc, là những nhà thơ, nhà văn lao động cật lực trên trang giấy, trong trường học… Trong từng thời kì lịch sử của đất nước, họ luôn là những hình tượng trung tâm trong thơ của Trần Nhuận Minh. Chỉ riêng điều đó thôi cũng đủ thấy nhà thơ Trần Nhuận Minh đã gắn bó, đã hòa đồng với họ, đã giành hết tình cảm của: yêu thương, kính trọng, xót xa, đắng đót…trước những số phận, những cảnh ngộ của những người lao động. Khi viết về hình tượng người lao động trong các tác phẩm của mình ở hai giai đoạn lịch sử: trước và sau Đổi mới, Trần Nhuận Minh có cách nhìn nhận và thể hiện khác nhau (tuy nhiên không đối lập nhau, chỉ là sự mở rộng và bổ sung cho nhau). Nếu như trước 1986, chủ yếu là hình tượng người lao động được phản ánh dưới góc nhìn của cộng đồng, họ hiện lên trong tư thế của cái Ta nhiều hơn tư thế của cái Tôi. Tuy nhiên, ngay sau 1975 thì chân dung cái Tôi đã bắt đầu hiện rõ hơn, cụ thể hơn. Còn sau 1986 đến nay thì chân dung người lao động trong thơ ông đã hoàn toàn mang tư cách cái Tôi, đầy tính cá thể: mỗi con người một số phận, mỗi mảnh đời một màu sắc, cụ thể và sinh động trong sự phong phú, phức tạp của xã hội thời kì hiện đại với cơ chế thị trường đầy biến ảo và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
đầy hiểm họa, bên cạnh bao điều tốt đẹp đã được khẳng định sau hơn 20 năm
đổi mới của xã hội Việt Nam.
2.1.1. Hình tượng người công nhân vùng “mỏ vàng đen” của tổ quốc
Từ một anh thanh niên vùng quê nông thôn ra thành phố gắn với
vùng vàng đen Đông Bắc từ những năm 60 của thế kỉ trước, thơ Trần Nhuận
Minh mang nặng một tình yêu đất mỏ, cái lấp lánh của than đen, của giọt mồ hôi
thợ mỏ đã làm nên chất thơ, và phần nào tạo nên vẻ riêng cho thơ Trần Nhuận
Minh. Những tảng than đen nguyên khối xì” đã trở thành tiêu chí của
nguyên tắc sáng tác mà Trần Nhuận Minh kí thác và đó như một thông điệp:
Mỗi câu thơ anh viết
Nhƣ tảng kíp lê đen
Không hoa lá cầu kì
Không yếu hèn dôi trá
(4.000.000 Âm điệu một vùng đất)
Cuộc sống của Trần Nhuận Minh trong những ngày đó là sự cộng hưởng
giữa vị ngọt êm dịu của khúc hát ru nơi đồng quê với vùng sinh quyển ồn ào,
náo nhiệt của miền đất “vàng đen”:
Nơi khúc dân ca nuôi chúng tôi tuổi thơ
Là nóng bỏng tiếng xe gào ủi đất
Núm ruột chúng tôi mẹ vùi sâu trong than
Day dứt chúng tôi là tình yêu đất than.
(Lên tầng)
Những bài thơ viết về đất mỏ của Trần Nhuận Minh luôn được viết với
một tình yêu như thế. Như người thợ mỏ mở lò, khai vỉa, khơi những suối than,
Trần Nhuận Minh cũng cố gắng khai thác chất liệu thơ đặc thù của vùng đất
công nghiệp, trong sinh hoạt lao động của người thợ mỏ. Khả năng quan sát,
nắm bắt chi tiết, sống trực tiếp với lao động sản xuất, đã làm cho thơ ông giầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 34 đầy hiểm họa, bên cạnh bao điều tốt đẹp đã được khẳng định sau hơn 20 năm đổi mới của xã hội Việt Nam. 2.1.1. Hình tượng người công nhân vùng “mỏ vàng đen” của tổ quốc Từ một anh thanh niên vùng quê nông thôn ra thành phố và gắn bó với vùng vàng đen Đông Bắc từ những năm 60 của thế kỉ trước, thơ Trần Nhuận Minh mang nặng một tình yêu đất mỏ, cái lấp lánh của than đen, của giọt mồ hôi thợ mỏ đã làm nên chất thơ, và phần nào tạo nên vẻ riêng cho thơ Trần Nhuận Minh. Những tảng than đen “nguyên khối xù xì” đã trở thành tiêu chí của nguyên tắc sáng tác mà Trần Nhuận Minh kí thác và đó như một thông điệp: Mỗi câu thơ anh viết Nhƣ tảng kíp lê đen Không hoa lá cầu kì Không yếu hèn dôi trá (4.000.000 – Âm điệu một vùng đất) Cuộc sống của Trần Nhuận Minh trong những ngày đó là sự cộng hưởng giữa vị ngọt êm dịu của khúc hát ru nơi đồng quê với vùng sinh quyển ồn ào, náo nhiệt của miền đất “vàng đen”: Nơi khúc dân ca nuôi chúng tôi tuổi thơ Là nóng bỏng tiếng xe gào ủi đất Núm ruột chúng tôi mẹ vùi sâu trong than Day dứt chúng tôi là tình yêu đất than. (Lên tầng) Những bài thơ viết về đất mỏ của Trần Nhuận Minh luôn được viết với một tình yêu như thế. Như người thợ mỏ mở lò, khai vỉa, khơi những suối than, Trần Nhuận Minh cũng cố gắng khai thác chất liệu thơ đặc thù của vùng đất công nghiệp, trong sinh hoạt lao động của người thợ mỏ. Khả năng quan sát, nắm bắt chi tiết, sống trực tiếp với lao động sản xuất, đã làm cho thơ ông giầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
về chất liệu đủ sức xây dựng lên hình tượng người công nhân trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 60 của thế kỉ XX.
thể thấy, Trần Nhuận Minh viết về hình tượng người công nhân thợ
mỏ bằng một niềm rung cảm được gạn chắt từ mồ hôi, than bụi. Điều đáng quý
là ngòi bút của ông không tìm chỗ dựa ở sự thi vị hóa hoặc những lời ca ngợi từ
sự nhìn ngắm bên ngoài. Ngòi bút của Trần Nhuận Minh chắt chiu những vẻ đẹp
ngay trong lao động nặng nhọc, lam lũ, trong đời sống thường ngày của người
thợ còn nghèo nàn, vất vả.
Người công nhân thợ mỏ ở vùng đất đầy nắng vàng, gió biển và bụi bặm
của than mang trong mình một “tình yêu kì lạ”. Không phải là tình yêu sâu nặng
với nơi chôn rau, cắt rốn, cũng không phải là tình yêu tha thiết đầu đờinh cho
một người thiếu nữ, tình yêu ấm nóng của người thợ gói trọn vào than,
một tình cảm máu thịt của sức trẻ đã thấm đẫm vào than:
Thế đấy, anh thợ lò bạn tôi
Anh chỉ sống hết mình với tình yêu kì lạ
Là khi anh vào than
Nhất là khi vào than.
(Anh thợ lò – bạn tôi)
Tình yêu hòa trộn vào than là thế. Ở vùng đất này, bao niềm vui, nỗi buồn
của người thợ đều như vết than lặn vào da thịt”. cũng chính nơi đây mái
nhà còn lợp dầu, bữa ăn ca đêm còn thiếu cá, thiếu rau nhưng vẫn thắp lên
trong trái tim người thợ một niềm tin mãnh liệt từ bàn tay lao động của mình.
Thành công của Trần Nhuận Minh chỗ ông đã nhập thân được vào
cuộc đời người thợ, khám phá được chiều sâu tâm cùng những tâm tình của
họ. Trần Nhuận Minh đã lựa chọn và sử dụng các chi tiết giàu chất thơ, giàu tính
khái quát để phản ánh hiện thực. Trong trường ca Đá cháy, hình tượng người
công nhân được phác họa một cách khá sinh động chân thực. Đó cmột
tập thể công nhân, tuy công việc khác nhau, có vị trí công tác khác nhau, nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 35 có về chất liệu đủ sức xây dựng lên hình tượng người công nhân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 60 của thế kỉ XX. Có thể thấy, Trần Nhuận Minh viết về hình tượng người công nhân thợ mỏ bằng một niềm rung cảm được gạn chắt từ mồ hôi, than bụi. Điều đáng quý là ngòi bút của ông không tìm chỗ dựa ở sự thi vị hóa hoặc những lời ca ngợi từ sự nhìn ngắm bên ngoài. Ngòi bút của Trần Nhuận Minh chắt chiu những vẻ đẹp ngay trong lao động nặng nhọc, lam lũ, trong đời sống thường ngày của người thợ còn nghèo nàn, vất vả. Người công nhân thợ mỏ ở vùng đất đầy nắng vàng, gió biển và bụi bặm của than mang trong mình một “tình yêu kì lạ”. Không phải là tình yêu sâu nặng với nơi chôn rau, cắt rốn, cũng không phải là tình yêu tha thiết đầu đời dành cho một người thiếu nữ, mà là tình yêu ấm nóng của người thợ gói trọn vào than, một tình cảm máu thịt của sức trẻ đã thấm đẫm vào than: Thế đấy, anh thợ lò bạn tôi Anh chỉ sống hết mình với tình yêu kì lạ Là khi anh vào than Nhất là khi vào than. (Anh thợ lò – bạn tôi) Tình yêu hòa trộn vào than là thế. Ở vùng đất này, bao niềm vui, nỗi buồn của người thợ đều như “vết than lặn vào da thịt”. Và cũng chính nơi đây “mái nhà còn lợp dầu, bữa ăn ca đêm còn thiếu cá, thiếu rau” nhưng vẫn thắp lên trong trái tim người thợ một niềm tin mãnh liệt từ bàn tay lao động của mình. Thành công của Trần Nhuận Minh ở chỗ ông đã nhập thân được vào cuộc đời người thợ, khám phá được chiều sâu tâm lí cùng những tâm tình của họ. Trần Nhuận Minh đã lựa chọn và sử dụng các chi tiết giàu chất thơ, giàu tính khái quát để phản ánh hiện thực. Trong trường ca Đá cháy, hình tượng người công nhân được phác họa một cách khá sinh động và chân thực. Đó là cả một tập thể công nhân, tuy công việc khác nhau, có vị trí công tác khác nhau, nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
họ lại chung một niềm say mê trong lao động, chung một niềm tin vào
tương lai của đất nước.
Có biết bao gương mặt những người công nhân, gương mặt người lao động
đã được Trần Nhuận Minh khắc họa trong tác phẩm của mình. Một công
nhân quét giác hót phân”; một anh công nhân đi đá nhanh” trong thế
chân xoạc tay giƣơng bình khí ép”, vật lộn với vòm đá oang oang trong
những âm thanh ầm ĩ, inh tai, nhức óc của tiếng máy rú khê nồng”, tất cả trí tuệ
sức mạnh thân thể của anh dồn vào công việc: Mắt phồng căng ngực
cuộn rung”; một anh chống xén” ngày đêm sống trong bụi hoang dại hai
phổi/Mỗi ca đào một thìu lò…”; một chú ghét va gông” tới tấp vung
búa/Mắt bời bời nhòe nắng hoa bay”; một cháu gái lao động hợp đồng trong
hoàn cảnh không gạo, chậm lƣơngvới một công việc nặng nhọc gánh nƣớc
ngày ngày leo từng bậc núi”, nhưng luôn có tinh thần kỉ luật cao, có trách nhiệm
vì công việc: “cháu thì khát mà nƣớc dành để dội/Xuống lỗ khoan sâu chảy khét
đất gan gà…”; một anh kĩ trắc địa, người đã “hốc hác mệt phờ” mà vẫn kiên
trì dõi mắt nheo nheo tìm mạch vỉa than qua ống ngắm... Ngay cả những
người lãnh đạo ở vùng than này kể cả là ông Tổng giám đốc Công ty tuy đã lớn
tuổi nhưng vẫn rất trẻ trung, rất hăng say công tác: “Tuổi sáu mƣơi áo thun quần
soóc” và cũng rất gần gũi, ân tình với cấp dưới: “Tặng bác thợ tiện về hƣu/Chiếc
đồng hồ nhỏ mạ vàng”. Rồi một thợ sơn như một nữ tài hoa: tập múa
quay trònvới dáng điệu uyển chuyển, mềm mại, chân co lên nhƣ cái com pa
êm dịu (Đá cháy).
Đọc thơ Trần Nhuận Minh, chúng ta được tiếp xúc với những con người
cụ thể: thợ mài dƣới vòng tay tung tóe vòng hoa lửa”(Gặp thợ mài
người quên ); thợ hàn cầm que dây điện đài, hễ bấm nhẹ lửa tung ra
bẩy sắc”(Thưa mẹ); anh thợ hầm hát ru con vào chân cột nhƣ khi anh
đánh thìu”(Anh thợ bạn tôi); rồi ngƣời nổ mìn mỏ lộ thiên” với những
dây chuyền tiếng nổ “làm chúng tan những cái phải tan”; anh lái ben la, bánh xe
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 36 họ lại có chung một niềm say mê trong lao động, có chung một niềm tin vào tương lai của đất nước. Có biết bao gương mặt những người công nhân, gương mặt người lao động đã được Trần Nhuận Minh khắc họa trong tác phẩm của mình. Một cô công nhân “quét giác hót phân”; một anh công nhân “đi lò đá nhanh” trong tư thế “chân xoạc tay giƣơng bình khí ép”, vật lộn với “vòm đá oang oang” trong những âm thanh ầm ĩ, inh tai, nhức óc của “tiếng máy rú khê nồng”, tất cả trí tuệ và sức mạnh thân thể của anh dồn vào công việc: “Mắt phồng căng và ngực cuộn rung”; một anh “chống xén” ngày đêm sống trong “bụi hoang dại hai lá phổi/Mỗi ca đào một thìu lò…”; một chú “gõ ghét va gông” “tới tấp vung búa/Mắt bời bời nhòe nắng hoa bay”; một cháu gái lao động hợp đồng trong hoàn cảnh “không gạo, chậm lƣơng” với một công việc nặng nhọc “gánh nƣớc ngày ngày leo từng bậc núi”, nhưng luôn có tinh thần kỉ luật cao, có trách nhiệm vì công việc: “cháu thì khát mà nƣớc dành để dội/Xuống lỗ khoan sâu chảy khét đất gan gà…”; một anh kĩ sư trắc địa, người đã “hốc hác mệt phờ” mà vẫn kiên trì dõi “mắt nheo nheo tìm mạch vỉa than qua ống ngắm”... Ngay cả những người lãnh đạo ở vùng than này kể cả là ông Tổng giám đốc Công ty tuy đã lớn tuổi nhưng vẫn rất trẻ trung, rất hăng say công tác: “Tuổi sáu mƣơi áo thun quần soóc” và cũng rất gần gũi, ân tình với cấp dưới: “Tặng bác thợ tiện về hƣu/Chiếc đồng hồ nhỏ mạ vàng”. Rồi một cô thợ sơn như một vũ nữ tài hoa: “tập múa quay tròn” với dáng điệu uyển chuyển, mềm mại, “chân co lên nhƣ cái com pa êm dịu” (Đá cháy). Đọc thơ Trần Nhuận Minh, chúng ta được tiếp xúc với những con người cụ thể: Cô thợ mài “dƣới vòng tay tung tóe vòng hoa lửa”(Gặp cô thợ mài là người quên cũ); cô thợ hàn “cầm que có dây điện đài, hễ bấm nhẹ lửa tung ra bẩy sắc”(Thưa mẹ); anh thợ hầm lò hát ru con “gõ vào chân cột nhƣ khi anh đánh thìu”(Anh thợ lò – bạn tôi); rồi “ngƣời nổ mìn ở mỏ lộ thiên” với những dây chuyền tiếng nổ “làm chúng tan những cái phải tan”; anh lái ben la, bánh xe
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
37
cao hơn đầu ngƣời, đổ ra đất đá phi nhƣ ngựa cổ tích, sau tràng vỗ tay của trẻ
con, biến vào trong mây đặc quánh bầu trời của vùng mỏ (Trên tầng cao 380);
rồi anh thợ gõ nồi hơi, thợ chống lò, thợ làm đường, mở vỉa…
Có những người thợ có tên, có tuổi như Anh hùng Vũ Xuân Thủy:
Năm năm liền không nghỉ một ngày công
Anh vẫn khỏe nhƣ một chiếc máy xúc
Từ ngƣời thợ, anh trở thành quản đốc
Gót chân anh in khắp nẻo công trƣờng
Hay anh công nhân Nguyễn Văn Vỡi có chiếc chìa khóa mầu nhiệm luôn
luôn gài vào hốc cột trƣớc hiên nhànhư cánh tay nhô ra đón mọi người đến
chơi, đến ở:
Ở tổ lao động xã hội chủ nghĩa của anh
Ngƣời ta thấy có nhiều ngƣời trƣớc đây hƣ hỏng.
Có ngƣời, mấy lần bị thi hành kỉ luật
Nặng hơn, có ngƣời mỏ định tống đi
Anh nhận về tổ anh
Và sau một thời kì
Họ thành thợ giỏi
(Chiếc chìa khóa của anh Vóc)
Từ anh hùng lao động Xuân Thủy đến anh công nhân Nguyễn Văn
Vóc, hai con người, hai danh vị khác nhau, nhưng họ lại lấp lánh vẻ đẹp của
tình người, tình đời, tình giai cấp mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Có người thợ trọn cuộc đời dấn thân trong hầm lò. Những thành quả hôm
nay, từ sản lượng đạt 4.000.000 tấn đến những vỉa than óng ánh đang được phát
lộ đã in hằn dấu ấn trên đôi bàn tay chai sạn, chằng chịt những vết sẹo của người
thợ già trước phút lâm chung:
Bàn tay ngƣời mở ra nhƣ cái lắc lê
Hằn vết sẹo từ thời nƣớc mất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 37 cao hơn đầu ngƣời, đổ ra đất đá phi nhƣ ngựa cổ tích, sau tràng vỗ tay của trẻ con, biến vào trong mây đặc quánh bầu trời của vùng mỏ (Trên tầng cao 380); rồi anh thợ gõ nồi hơi, thợ chống lò, thợ làm đường, mở vỉa… Có những người thợ có tên, có tuổi như Anh hùng Vũ Xuân Thủy: Năm năm liền không nghỉ một ngày công Anh vẫn khỏe nhƣ một chiếc máy xúc Từ ngƣời thợ, anh trở thành quản đốc Gót chân anh in khắp nẻo công trƣờng Hay anh công nhân Nguyễn Văn Vỡi có chiếc chìa khóa mầu nhiệm luôn luôn “gài vào hốc cột trƣớc hiên nhà” như cánh tay nhô ra đón mọi người đến chơi, đến ở: Ở tổ lao động xã hội chủ nghĩa của anh Ngƣời ta thấy có nhiều ngƣời trƣớc đây hƣ hỏng. Có ngƣời, mấy lần bị thi hành kỉ luật Nặng hơn, có ngƣời mỏ định tống đi Anh nhận về tổ anh Và sau một thời kì Họ thành thợ giỏi (Chiếc chìa khóa của anh Vóc) Từ anh hùng lao động Vũ Xuân Thủy đến anh công nhân Nguyễn Văn Vóc, hai con người, hai danh vị khác nhau, nhưng ở họ lại lấp lánh vẻ đẹp của tình người, tình đời, tình giai cấp mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Có người thợ trọn cuộc đời dấn thân trong hầm lò. Những thành quả hôm nay, từ sản lượng đạt 4.000.000 tấn đến những vỉa than óng ánh đang được phát lộ đã in hằn dấu ấn trên đôi bàn tay chai sạn, chằng chịt những vết sẹo của người thợ già trước phút lâm chung: Bàn tay ngƣời mở ra nhƣ cái lắc lê Hằn vết sẹo từ thời nƣớc mất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
Ngón tay ngƣời run run
Dần chụm lại nhƣ một bông hoa héo
(Phút lâm chung của người thợ già)
đồng đội của ông, thế hệ lớp thợ trẻ tiếp nối đã lời hứa chắc nịch
với di nguyện của người đi trước bằng cả tấm lòng thành thực và một niềm tin
vĩnh cửu:
Xin ngƣời cứ yên tâm vĩnh biệt đời
Chúng tôi biết mình có bàn tay tƣơi trẻ
Mang sức lớn của tâm hồn trí tuệ
Của giai cấp công nhân in lên mỗi công trình
(Phút lâm chung của người thợ già)
biết bao người thợ khác đang ngày đêm hăng say lao động để tạo
thành một chuỗi mắt xích dây chuyền vận hành suôn sẻ cho những mẻ than ra lò
như: người trực máng ga, người lái cần cẩu tháp, người tán đinh đồng, người
chữa xe ben lát, người lái máy xúc, người bơm xăng, người chặt gỗ trụ lò, người
xạc đèn ác quy, người kéo cáp điện…Tất cả những con người ấy không ai được
định danh, họ được gọi tên theo nghề nghiệp, chức vụ, nhưng điều đáng quý
họ là: từ lãnh đạo đến công nhân, từ kĩ sư hay lao động phổ thông, “cƣờng tráng
hay ho hen, hiền lành hay ngang bƣớng, có sáng kiến hay không sáng kiến, đang
làm hay sắp nghỉ hƣu, những ngƣời giản dị rắc rối, hăng hái chán
nản…”, nhưng đều “không bao giờ nghi ngờ về tƣơng lai”.
Cứ như thế, ngòi bút của Trần Nhuận Minh đi sâu vào phản ánh hình
tượng người công nhân vùng đất mỏ này. Nhà thơ tỏ ra rất am hiểu về mọi niềm
vui, nỗi buồn của họ. Trong đời người thợ, không niềm vui sướng nào hơn
khi họ chứng kiến những vỉa than “nục nạc” nằm sâu trong lòng đất đang lộ dần
ra trước mắt. một sự liên tưởng thú vị của anh chàng lái xe khi những cơn
mƣa khô” không phải do thiên nhiên ban phát, được xuất hiện từ chính
mồ hôi, nước mắt những đôi bàn tay săn chắc của người thợ dội xuống, để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 38 Ngón tay ngƣời run run Dần chụm lại nhƣ một bông hoa héo (Phút lâm chung của người thợ già) Và đồng đội của ông, thế hệ lớp thợ trẻ tiếp nối đã có lời hứa chắc nịch với di nguyện của người đi trước bằng cả tấm lòng thành thực và một niềm tin vĩnh cửu: Xin ngƣời cứ yên tâm vĩnh biệt đời Chúng tôi biết mình có bàn tay tƣơi trẻ Mang sức lớn của tâm hồn trí tuệ Của giai cấp công nhân in lên mỗi công trình (Phút lâm chung của người thợ già) Và biết bao người thợ khác đang ngày đêm hăng say lao động để tạo thành một chuỗi mắt xích dây chuyền vận hành suôn sẻ cho những mẻ than ra lò như: người trực máng ga, người lái cần cẩu tháp, người tán đinh đồng, người chữa xe ben lát, người lái máy xúc, người bơm xăng, người chặt gỗ trụ lò, người xạc đèn ác quy, người kéo cáp điện…Tất cả những con người ấy không ai được định danh, họ được gọi tên theo nghề nghiệp, chức vụ, nhưng điều đáng quý ở họ là: từ lãnh đạo đến công nhân, từ kĩ sư hay lao động phổ thông, “cƣờng tráng hay ho hen, hiền lành hay ngang bƣớng, có sáng kiến hay không sáng kiến, đang làm hay sắp nghỉ hƣu, những ngƣời giản dị và rắc rối, hăng hái và chán nản…”, nhưng đều “không bao giờ nghi ngờ về tƣơng lai”. Cứ như thế, ngòi bút của Trần Nhuận Minh đi sâu vào phản ánh hình tượng người công nhân vùng đất mỏ này. Nhà thơ tỏ ra rất am hiểu về mọi niềm vui, nỗi buồn của họ. Trong đời người thợ, không có niềm vui sướng nào hơn khi họ chứng kiến những vỉa than “nục nạc” nằm sâu trong lòng đất đang lộ dần ra trước mắt. Có một sự liên tưởng thú vị của anh chàng lái xe khi “những cơn mƣa khô” không phải do thiên nhiên ban phát, mà nó được xuất hiện từ chính mồ hôi, nước mắt và những đôi bàn tay săn chắc của người thợ dội xuống, để