Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Thơ Trần Nhuận Minh
523
375
129
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
Ngoài ra, chúng tôi còn nghiên cứu một số tác giả, tác phẩm thơ khác
cùng thời với Trần Nhuận Minh (để so sánh, đối chiếu) và tham khảo một số
sách lí thuyết, lí luận văn học làm cơ sở lí luận cho công trình nghiên cứu của
mình.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp thống kê - phân loại
4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
4.3. Phương pháp phân tích ( tác giả, tác phẩm )
4.4. Một số phương pháp khác ( phương pháp tổng hợp, nghiên cứu liên
ngành)
5. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ hình tượng con người (trên cả
phương diện nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện), luận văn nhằm mục
đích:
Chỉ ra những đặc điểm cơ bản của thế giới hình tượng con người trong thơ
Trần Nhuận Minh. Qua đó khẳng định những nét sáng tạo, độc đáo, mang tính
đặc trưng của nhà thơ trong quá trình thể hiện hình tượng nghệ thuật trung tâm
này.
Chỉ ra những đóng góp quan trọng của nhà thơ Trần Nhuận Minh đối với
sự vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt giai đoạn sau
Đổi mới (1986 tới nay).
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm ba chương chính:
Chƣơng 1: Thơ Trần Nhuận Minh – sự vận động không ngừng trong quá
trình phát triển
Chƣơng 2: Hình tƣợng con ngƣời – một hình tƣợng trung tâm trong thơ
Trần Nhuận Minh
Chƣơng 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong thơ Trần Nhuận Minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
THƠ TRẦN NHUẬN MINH – SỰ VẬN ĐỘNG KHÔNG NGỪNG
TRONG QUA TRÌNH PHÁT TRIỂN
1.1. Trần Nhuận Minh – con ngƣời và sự nghiệp thơ ca
Trần Nhuận Minh sinh ngày 20 tháng 8 năm 1944 trong một gia đình có
truyền thống nho học, tại làng Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh
Hải Dương. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Khi còn là
học sinh cấp 2 trường huyện, ông đã được đọc tờ báo Nhân dân có đăng bài
Hoan hô chiến sĩ Điên Biên của Tố Hữu, đó là bài thơ đầu tiên ông được “đọc
bằng mắt” (trước đây ông chỉ được nghe qua người khác). Từ đó, Trần Nhuận
Minh đã có sự ảnh hưởng của thơ Tố Hữu, ông bắt đầu làm thơ (chủ yếu là thơ
cổ động cho huyện Nam Sách – quê hương ông). Trong suốt những năm từ 1962
– 1969, ông vừa dạy học ở khu mỏ Hồng Quảng, Quảng Ninh vừa miệt mài sáng
tác thơ ca. Năm 1969, ông công tác tại Ban Vận động Thành lập Hội văn học
Nghệ thuật Quảng Ninh, là Ủy viên Chấp hành, Thường vụ, Thư kí, Phó Chủ
tịch, rồi Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Ninh (2
khóa), Ủy viên Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuât Việt
Nam, Phó Ban công tác Nhà văn các tỉnh phía Bắc của Hội nhà văn Việt Nam.
Cho tới nay, Trần Nhuận Minh đã xuất bản 15 tập thơ và 3 tập văn xuôi.
Đó là các tập thơ: Đấy là tình yêu (1971), Âm điệu một vùng đất (1980),
Thành phố bên này sông (1982), Nhà thơ áp tải (1989), Hoa cỏ (1982), Nhà
thơ và hoa cỏ (1993 - tái bản lần thứ 19, 2009), Giọt phù sa vạn dặm (2000),
Bản Xô nát hoang dã (2003-tái bản lần thứ 8, 2009), Trần Nhuận Minh - Thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
với tuổi thơ (2003), Gửi lại dọc đường ( 2005 - tái bản lần thứ 4, 2009), Trần
Nhuận Minh, Tuyển tập thơ (2005), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007–
tái bản lần thứ 2, 2009), Miền dân gian mây trắng (2008 – tái bản lần 1, 2009),
Bốn mùa – Four seasons (2008), Bốn mùa (2009 – Tuyển tập).
Và các tập văn xuôi: Trước mùa mưa bão (1980 – in lần thứ 5, 2010), Hòn
đảo phía chân trời ( 2000 – in lần thứ 5, 2010), Truyện chọn lọc cho thiếu nhi
(2002).
Trong suốt 50 năm miệt mài sáng tác, Trần Nhuận Minh đã khẳng định
được những bước đi vững chắc và đôi khi là đột phá của mình trong lĩnh vực
văn học nghệ thuật. Chính sự cống hiến hết mình cho thơ ca nói riêng, văn học
nghệ thuật nói chung, nhà thơ Trần Nhuận Minh “định vị” được tên tuổi của
mình trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt là giai đoạn từ bắt đầu đổi
mới tới nay.
1.2. Quá trình vận động của thơ Trần Nhuận Minh
Trong sự nghiệp 50 năm cầm bút, Trần Nhuận Minh sáng tác một số
lượng tác phẩm thơ đáng nể. Ông đã từng phát biểu rằng, ông rất cám ơn công
cuộc Đổi mới, chính công cuộc Đổi mới đã “sinh ra tôi lần thứ hai”. Và sau này
khi làm tuyển tập, ông chỉ chọn 28 bài tiêu biểu nhất sáng tác trong vòng 25
năm, kể từ trước năm 1986 đưa vào phần phụ lục với tiêu đề Bỏ lại dọc đường
để độc giả có dịp tham khảo.
Thế nhưng khách quan mà nói, khi nhìn lại chặng đường sáng tác 25 năm
trước thời kì Đổi mới, thơ Trần Nhuận Minh có một quá trình vận động cùng với
xu hướng phát triển chung của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông được coi là
“nhà thơ của giai cấp công nhân, nhà thơ về đề tài công nghiệp, ông đƣợc lĩnh
vinh dự, và có trách nhiệm phát ngôn và tôn vinh cho nó suốt hai thập niên 60
và 70…”[26.16,17]. Do đó, khi nghiên cứu chặng đường thơ của Trần Nhuận
Minh, chúng ta không thể bỏ qua thời kì sáng tác của ông trước năm 1986.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
Vì vậy, nghiên cứu quá trình vận động thơ của Trần Nhuận Minh chúng
tôi vẫn chia ra làm hai thời kì, đánh dấu hai chặng đường thơ của nhà thơ họ
Trần quê hương Hải Dương nhưng lại thành danh ở vùng đất mỏ Quảng Ninh
này.
1.2.1. Thơ Trần Nhuận Minh thời kì 1960 – 1985
Bắt đầu sáng tác từ những năm 60 của thế kỉ XX, Trần Nhuận Minh đã
in hai tập thơ chung: Sức mới (1967) và Ca bình minh (1972) với đề tài công
nghiệp. Bằng sự lao động nghiêm túc, miệt mài trong lĩnh vực nghệ thuật khi
gắn bó với vùng đất vàng đen của Tổ quốc, Trần Nhuận Minh đã cho ra đời tập
thơ in riêng đầu tiên: Đấy là tình yêu (1971).
Trong bài thơ Trình bày viết năm 1970, Trần Nhuận Minh đã tự giới
thiệu về con đường lập nghiệp của mình:
Bạn ơi, tôi có hai lá phổi
Một làng Điền Trì mùa thu nƣớc nổi
Một nửa phố mỏ Hòn Gai
Quanh năm rừng rực nắng trời.
Giữa hai lá phổi lành, đây, trái tim tôi
Hai miền quê: một là vùng đồng chiêm nước trũng nhưng chứa đựng bề
dày bao tầng văn hóa; một là vùng “phố mỏ” tấp nập, đông vui “quanh năm
rừng rực nắng trời” đã gắn bó với nhà thơ và không thể tách rời. Rõ ràng “phố
mỏ Hòn Gai”- vùng công nghiệp vàng đen của tổ quốc với Trần Nhuận Minh
vốn không phải là nơi chôn rau cắt rốn, nhưng ông đã gắn bó máu thịt và đã
cống hiến suốt cả một thời tuổi trẻ, suốt cả quá trình hoạt động sáng tác và đã
thành danh ở nơi này; còn với Nam Sách – Hải Dương – nơi đã sinh ra ông luôn
là quê hương yêu dấu, chốn đi về của tâm hồn và trái tim ông. Cả hai vùng quê
với hai dạng văn hóa khác nhau đã hun đúc tài năng, đã cung cấp cho Trần
Nhuận Minh những chất liệu, những “tài nguyên” quý giá, phong phú để ông có
thể viết lên những vần thơ, trang thơ thấm đẫm chất dân gian mềm mại, dịu dàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
bên cạnh chất liệu hiện thực đầy gai góc, khốc liệt, phong phú và phức tạp thời
kì hiện đại.
Từ chỗ là một anh nông dân trở thành giáo viên và gắn bó với giai cấp
công nhân, đã tạo nên một bước chuyển biến quan trọng trong cuộc đời và trong
sáng tác của Trần Nhuận Minh và đã làm nên “cuộc định vị lần thứ nhất” cho
thơ ông, như sự khẳng định của nhà nghiên cứu Phong Lê.
Ở buổi đầu những năm 60, với đóng góp của đội ngũ thơ chủ lực của nền
cách mạng, đó là cảm hứng ca ngợi vẻ đẹp của sự nghiệp giải phóng một nửa đất
nước, và đồng thời là cái nhìn từ những ước mơ bao đời nay đang hiện dần lên
sự thật. Trần Nhuận Minh cũng đã khẳng định mình là nhà thơ chân chính, là
người con mang tình yêu lớn với quê hương và có chung khát vọng dân tộc.
Trong sự hấp dẫn của lí tưởng, có bao hàm những khát vọng riêng tư của
tuổi trẻ. Nhưng thực ra, sự hấp dẫn của vùng mỏ đối với Trần Nhuận Minh còn
có cái gì đó, mộng nhiều hơn thơ…Và đây là một trong những bài thơ ông viết
về vùng mỏ:
Nơi đây là mỏ Mạo Khê
Một vùng cung núi, bốn bề than đen
Nơi đây anh đã gặp em
Một đêm mở vỉa sao đêm đầy trời.
(Mạo Khê)
Trần Nhuận Minh đến với thơ như vậy, háo hức và hăm hở. Tuy vậy,
nhiệt tình ấy chưa phải là điều kiện đủ cho thơ ông có sự thành công. Có thể dẫn
bài Anh thợ lò – bạn tôi:
Bƣớc ra khỏi lò
Anh nhƣ đi trên sóng
Khoảng đất bằng và rộng
Anh đi không thật chân
Chính anh cũng lạ cho mình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
Không có cái nhìn của người đồng bằng về mỏ, Trần Nhuận Minh khó
có thể đưa vào thơ những trực giác sinh động ấy, mà những người lâu năm ở đây
chưa dễ đã nói được. Đây cũng chính là nét riêng, là “duyên” thơ của ông, còn
mãi đến bây giờ, góp phần giúp ta nhận ra ông trong hàng loạt những cây bút
vùng mỏ như Yên Đức, Phạm Doanh, Đào Ngọc Vĩnh…
Dễ hiểu vì sao những bài thơ được người đọc ưa thích hơn trong Đấy là
tình yêu vẫn là những bài ghi lại cảm xúc suy nghĩ từ những gì ông thân quen,
từ chiếc cổng làng:
Nơi niềm vui theo năm tháng sinh sôi
Mùi nếp thoảng bay nhịp chày khua gấp
Tiếng súng dội về bao đêm trở giấc
Trâu cọ cổng tre lấp lánh lƣỡi cày…
(Cổng làng)
Rồi những gì chung hơn, vẫn là cái làng – cái làng mới “cách mỏ ba cây
số”, nơi “có con tầu chạy ngang đồng lúa lấn vào chân mỏ” mà đôi mắt và tấm
lòng người ở đây cứ nửa quen, nửa lạ:
Sáng sáng nhìn lên mỏ
Đôi mắt thăm thẳm đen
Cầy ruộng bật than lên
Lòng bồi hồi xúc động
(Làng ven mỏ)
Nói đúng hơn, thành công bước đầu ở thơ Trần Nhuận Minh chưa phải là
những bài thơ viết về người thợ, mà chủ yếu là những đổi thay dễ nhận ở môi
trường mới mà ông sống. Khi nhìn chặng đường đầu, Trần Nhuận Minh thấy
“thơ mình vẫn đi ven ven ngoài mỏ”. Trong cách nói, nhìn có phần làm duyên,
ông bắt đầu có ý thức một cách rõ rệt và cụ thể hướng đi của thơ mình. Miền đất
và con người vùng mỏ rất thơ và rất mộng. Nhưng sự thơ mộng này khác hẳn
những gì trước đây mà ông tưởng tượng. Rằng đến với vùng mỏ, không phải đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
với những vinh quang giành cho tuổi hai mươi chấp nhận. Chứng kiến cảnh lao
động hết sức gian khổ của người thợ, ông tự nói với mình sự gian khổ của người
thợ là có thật, và sự có thật của thơ mình là giả. Ý nghĩ chân thành và nghiêm
khắc ấy đã hướng thơ ông đi những bước chắc chắn vào Âm điệu một vùng đất
(1980) và Thành phố bên này sông (1982).
Nếu Đấy là tình yêu mới chỉ là nhận thức cảm tính về vùng mỏ mới đứng
ở bên ngoài quan sát, và viết về những người thợ mỏ, thì Âm điệu một vùng đất
và Thành phố bên này sông, Trần Nhuận Minh đã hình thành một quan niệm
thơ với ý thức trách nhiệm của một nhà thơ công nhân đứng trong đội ngũ công
nhân, viết theo cách nghĩ, cách cảm của những người công nhân mỏ.
Cuộc sống phát triển, giàu có thêm chất liệu mới do bàn tay và sức nghĩ,
sức sáng tạo của con người. Rồi từ những đổi mới này mà hình thành dần một
cảm xúc mới – cảm xúc trước đời sống công nghiệp của Trần Nhuận Minh. Với
bài thơ Đá cháy gồm 7 đoạn thơ, 224 câu, viết năm 1985, Trần Nhuận Minh đã
làm một “cuộc định vị lần thứ hai” cho thơ mình. Lửa, Than và Tỏa sáng là ba
“nhân vật” chính trong quá trình diễn ra “Đá cháy”. Bài Đá cháy được xem như
là tuyên ngôn nghệ thuật của Trần Nhuận Minh. Với vị trí, tư cách của một nhà
thơ công nhân khao khát có thể làm nên những điều có ý nghĩa hơn trong cuộc
sống hối hả, vất vả và đang vận động tích cực này:
Tôi sẽ đầu thai làm ngọn lửa
Cháy điên khùng trong đất tối âm u
“Tỏa sáng” là cách tồn tại của quá trình diễn ra đá cháy và “không tỏa
sáng thì không tồn tại”. Đó cũng là cách nhà thơ khẳng định quan điểm sống và
sáng tác của mình, đúng như nhận định của nhà nghiên cứu Phong Lê: “Một
khẳng định đến từ sứ mệnh của giai cấp công nhân, mà nhà thơ muốn (hoặc đã)
là ngƣời đại diện, khi từ là Tảng đất sét bên sông Kinh Thầy, anh đã trƣởng
thành tảng đá đen nguyên khối xù xì của một vùng than mênh mông – miền vàng
đen trong lòng đất Đông Bắc của Tổ quốc[16.28].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
Đây cũng chính là sự định vị lần thứ hai của nhà thơ đất mỏ này. Ông đã
quyết định trở thành nhà thơ của giai cấp công nhân, giai cấp tiên phong của
cách mạng Việt Nam. Và nói như nhà ngiên cứu, phê bình Phong Lê thì về
“khách quan nó ghi nhận đƣợc gƣơng mặt đất nƣớc và gƣơng mặt thơ một thời
trong và sau chiến tranh còn chƣa phai nhạt âm hƣởng hào hùng của đất nƣớc
chống ngoại xâm, và trong buổi đầu sự nghiệp xây dựng chống đói nghèo còn
rất giàu tự tin đến thành lãng mạn”[5.30].
Và quả thật, Trần Nhuận Minh đã thực hiện được niềm khao khát đó.
Ông đã trở thành một nhà thơ của giai cấp công nhân, nhà thơ của vùng mỏ
Quảng Ninh với những tập thơ đã trở thành niềm tự hào của bao người công
nhân mỏ thời kì lịch sử ấy. Đấy là tình yêu, Âm điệu một vùng đất và Thành
phố bên này sông, Trần Nhuận Minh là một trong không nhiều gương mặt thơ
gắn bó tâm huyết với đề tài công nghiệp, với những người thợ mỏ của đất Quảng
Ninh đầy than, bụi và mầu áo thợ.
1.2.2. Thơ Trần Nhuận Minh thời kì 1986 đến nay
Đại hội VI của Đảng năm 1986 là một cái mốc, một sự kiện lớn của
dân tộc. Và Nghị quyết 05 của Bộ chính trị về văn hóa, văn nghệ quả là một sự
“cởi trói” theo đúng nghĩa của nó cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong quá trình
sáng tạo nghệ thuật của mình. Phương châm của Đảng ta lúc đó là “lấy dân làm
gốc” và mọi hành động cần phải “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật”. Nằm trong xu hướng chung đó, thơ Trần Nhuận Minh có những
sự vận động và đổi mới quan trọng. Với bài thơ Nhà thơ áp tải (1989), thể hiện
một quan niệm nhân sinh quan tích cực phù hợp với thực tiễn và nhu cầu về một
nền văn học mới – áp tải sự thật. Vì vậy, có thể xem: Trần Nhuận Minh như là
một trong những đại diện tiêu biểu của một khuynh hướng sáng tác mới –
khuynh hướng phản ánh sự thật với tất cả những mặt phải – trái, trắng – đen,
những sự phức tạp, sự chói gắt, sự tốt đẹp cũng như sự phũ phàng của nó một
cách trung thực nhất:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
Hãy áp tải sự thât
Đến những bến cuối cùng
( Nhà thơ áp tải)
Chính công cuộc Đổi mới đã sinh ra một nhà thơ Trần Nhuận Minh thứ
hai. Nhận thức được trước mặt là chân trời nghệ thuật mới vô cùng khoáng đạt,
văn học mới đã chuyển lên “đƣờng ray”, có nghĩa là cuộc hành trình mới của
Trần Nhuận Minh được khởi động. Nó được khởi động từ một cảm hứng mới về
sự thật, từ một đòi hỏi cao hơn, toàn diện hơn về nhận thức sự thật; và từ một ý
thức mới, quan niệm mới đang hình thành và được khẳng định thiên về chức của
nhà thơ trong thời kì mới của đất nước.
Tiếp nối sự đổi mới ở giai đoạn trước, trong Hoa cỏ đã đưa Trần Nhuận
Minh sang một thế giới khác, thế giới của cảnh đời và tình người. Rồi từ Hoa
cỏ, ông đã in tiếp tập thơ thứ sáu có tên Nhà thơ và hoa cỏ. Ở tập thơ này, Trần
Nhuận Minh đã đi sâu vào việc viết về số phận nhân dân, “viết về nỗi đau con
ngƣời”, viết về thế sự, nhân sinh với tất cả bộn bề chói gắt của nó. Tập thơ đã
khắc họa tập trung đầy đủ nhất và cũng đậm nét nhất về số phận người lao động
trong xã hội:
Câu thơ nhƣ gan ruột
Phơi ra giữa trời mây
Mỗi ngƣời một số phận
Ngang qua thế kỉ này
(Lời đề tựa trong tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ)
Đã có một thời do hoàn cảnh chiến tranh, văn học cần phải thực hiện một
cách hiệu quả nhất chức năng giáo dục; và do yêu cầu của chức năng giáo dục,
chính trị, tư tưởng mà văn học cần phải tập trung vào việc phản ánh cái tích
cực,
cái tốt đẹp như là bản chất của xã hội, thì giờ đây, văn học thực sự muốn đạt
được chức năng giáo dục lại phải làm sáng tỏ sự thật một cách toàn diện, không
che đậy cả những mặt khuất tối, những tiêu cực tồn tại trong xã hội, và Trần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
Nhuận Minh đã thực hiện được điều đó. Trên bức tranh hiện thực trong thơ Trần
Nhuận Minh, cái cũ, cái xấu, cái ác không còn ở vị trí mờ nhạt, chỉ có nhiệm vụ
làm nổi bật cái mới, cái tốt đẹp, cái tích cực của xã hội mà bản thân cái cũ,
cái
xấu, cái ác cũng đã chứa một vị trí tương xứng để đạt một giá trị nhận thức và
hiệu quả của văn học nghệ thuật là: cảnh báo những nguy cơ tiềm ẩn trong xã
hội, cảnh tỉnh về nhân cách, đạo đức cho con người thời kì hiện đại.
Như vậy, trong mười lăm năm đầu, kể từ Đại hội VI (1986) trở lại đây,
với chủ trương “áp tải sự thật” thơ Trần Nhuận Minh đã tập trung vào việc phản
ánh về số phận nhân dân ở mọi góc cạnh của đời sống. Ngòi bút hiện thực của
ông đã đi sâu vào từng số phận con người để mô tả, phản ánh những nỗi niềm,
những tâm sự, những đớn đau, bất hạnh bên cạnh những hạnh phúc. Đồng thời,
ông đã khẳng định được khả năng sáng tạo nghệ thuật của mình để tạo nên một
gương mặt thơ riêng, nổi lên trong dàn đồng ca chung, trong gương mặt chung
của đồng đội mà không lẫn nhòa. Ông tự tiến hành được cả một cuộc đi cho
mình, một cuộc đối thoại, trò chuyện với bạn đọc hôm nay mà không sợ nghèo,
không sợ nhạt, không sợ trùng lặp, không sợ vô bổ - đó mới là vấn đề đặt ra cho
thơ ca hôm nay, càng là vấn đề đặt ra cho thơ viết về số phận nhân dân mà Trần
Nhuận Minh giành cả tâm huyết, trí tuệ, tình cảm của mình vào trong đó.
Nếu như tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ được Trần Nhuận Minh hoàn thành
trong 15 năm cuối thế kỉ XX (1986 – 2001) thì sang đầu thế kỉ XXI, ông đã liên
tiếp cho ra đời 3 ba tập thơ: Bản Xô nát hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của
kẻ vô danh (2007), Miền dân gian mây trắng (2008). Mỗi tập nhà thơ viết liền
một mạch, rõ ràng và liên tục với một cảm hứng riêng, say mê và nhất quán, lần
lượt được xuất bản trong mấy năm đầu của thế kỉ XXI. Các tập thơ của Trần
Nhuận Minh giai đoạn này đã tập trung viết về “đời sống thứ hai của con
ngƣời”. Ở đây khái niệm “Nhân Dân” được thay thế bằng khái niệm“Con
Ngƣời”. Cuộc đời với những chiêm nghiệm suy tưởng, đúc kết,…đã trở thành
hồn vía của hiện thực. Hiện thực ở đây không chỉ được nhìn nhận, thẩm thấu