Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Tổ chức dạy học phần “Quang hình học” Vật lí 11 ban Cơ bản theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh

7,677
992
183
29
1.4. Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự lực sáng tạo của HS trong
dạy học Vật lý ở trường THPT [25], [27], [33]
1.4.1. Kích thích hứng thú và sự chú ý của học sinh đối với kiến thức
Tính tích cực của học sinh sẽ được kích thích khi họ tin rằng nhiệm vụ mà họ đang thực
hiện liên quan đến mục tiêu nhân của họ. Do vậy giáo viên cần phải biết tạo mối liên hệ
giữa mục tiêu chung của quá trình giảng dạy với mục tiêu riêng của học sinh để thực hiện
việc xây dựng nhiệm vụ học tập cho các em. Mặt khác học sinh thường chỉ hứng thú với
những nhiệm vụ phù hợp với khả năng, với trình độ, với bản chất của mình chỉ với
những nhiệm vụ đó các em mới cố gắng để hoàn thành tốt nhiệm vụ một cách xuất sắc.
Nhưng nói như thế không có nghĩa chỉ giao cho các em những nhiệm vụ quen thuộc
hãy xen vào đó từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp những nhiệm vụ khác nhớ
hãy đặt niềm tin vào học sinh, như thế thì thái độ mục tiêu học tập của họ mới được
nuôi dưỡng và phát triển.
Trong Vật lý học, có những kiến thức khi mới chỉ trình bày trong sách giáo khoa hay tài
liệu học tập đã bộc lộ ra được tính hấp dẫn của tự đã thể kích thích hứng thú
cũng như sự chú ý của học sinh giáo viên không cần thiết phải gia công thêm hay tìm
kiếm cách thức trình bày nào gây tác dụng tích cực đến học sinh. Ngược lại, có những kiến
thức mà sự mới mẻ của nó không hề gây ra một cảm giác thích thú nào đối với học sinh, khi
đó giáo viên cần phân tích rõ nội dung kiến thức mới để học sinh thấy được mối liên hệ của
nó với thực tế. Đôi lúc lại trường hợp những kiến thức đó học sinh đã thấy, biết hiểu
nó thông qua thực tế cuộc sống hay từ các nguồn thông tin khác, vì thế mà những kiến thức
này không cuốn hút được sự tập trung chú ý của học sinh. Trong những trường hợp này bắt
đầu cần đến thủ thuật riêng của mỗi giáo viên, phải làm thế nào vạch ra cho học sinh thấy sự
khác biệt giữa những nội dung kiến thức đã biết với những nội dung kiến thức mới nhằm tập
trung sự chú ý của học sinh vào kiến thức mới đó.
Nhưng vấn đề lại là ở chỗ, hầu hết các kiến thức Vật lý mới lại nằm giữa hai thái cực này.
Do vậy để có thể kích thích hứng thú và sự chú ý của học sinh đối với kiến thức Vật lý mới
có thể bắt đầu với các công việc sau:
+ Lựa chọn từ ngữ để chuyển ý từ đề tài này sang đề tài khác dựa trên mối liên hệ giữa
các đề tài với nhau; phải đánh bật lợi ích, tính mới lạ, sự cần thiết phải bổ sung và phát triển
đề tài mới so với cũ.
29 1.4. Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS trong dạy học Vật lý ở trường THPT [25], [27], [33] 1.4.1. Kích thích hứng thú và sự chú ý của học sinh đối với kiến thức Tính tích cực của học sinh sẽ được kích thích khi họ tin rằng nhiệm vụ mà họ đang thực hiện liên quan đến mục tiêu cá nhân của họ. Do vậy giáo viên cần phải biết tạo mối liên hệ giữa mục tiêu chung của quá trình giảng dạy với mục tiêu riêng của học sinh để thực hiện việc xây dựng nhiệm vụ học tập cho các em. Mặt khác học sinh thường chỉ hứng thú với những nhiệm vụ phù hợp với khả năng, với trình độ, với bản chất của mình và chỉ với những nhiệm vụ đó các em mới cố gắng để hoàn thành tốt nhiệm vụ một cách xuất sắc. Nhưng nói như thế không có nghĩa là chỉ giao cho các em những nhiệm vụ quen thuộc mà hãy xen vào đó từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp những nhiệm vụ khác và nhớ là hãy đặt niềm tin vào học sinh, có như thế thì thái độ và mục tiêu học tập của họ mới được nuôi dưỡng và phát triển. Trong Vật lý học, có những kiến thức khi mới chỉ trình bày trong sách giáo khoa hay tài liệu học tập đã bộc lộ ra được tính hấp dẫn của nó và tự nó đã có thể kích thích hứng thú cũng như sự chú ý của học sinh mà giáo viên không cần thiết phải gia công thêm hay tìm kiếm cách thức trình bày nào gây tác dụng tích cực đến học sinh. Ngược lại, có những kiến thức mà sự mới mẻ của nó không hề gây ra một cảm giác thích thú nào đối với học sinh, khi đó giáo viên cần phân tích rõ nội dung kiến thức mới để học sinh thấy được mối liên hệ của nó với thực tế. Đôi lúc lại có trường hợp những kiến thức đó học sinh đã thấy, biết và hiểu nó thông qua thực tế cuộc sống hay từ các nguồn thông tin khác, vì thế mà những kiến thức này không cuốn hút được sự tập trung chú ý của học sinh. Trong những trường hợp này bắt đầu cần đến thủ thuật riêng của mỗi giáo viên, phải làm thế nào vạch ra cho học sinh thấy sự khác biệt giữa những nội dung kiến thức đã biết với những nội dung kiến thức mới nhằm tập trung sự chú ý của học sinh vào kiến thức mới đó. Nhưng vấn đề lại là ở chỗ, hầu hết các kiến thức Vật lý mới lại nằm giữa hai thái cực này. Do vậy để có thể kích thích hứng thú và sự chú ý của học sinh đối với kiến thức Vật lý mới có thể bắt đầu với các công việc sau: + Lựa chọn từ ngữ để chuyển ý từ đề tài này sang đề tài khác dựa trên mối liên hệ giữa các đề tài với nhau; phải đánh bật lợi ích, tính mới lạ, sự cần thiết phải bổ sung và phát triển đề tài mới so với cũ.
30
+ Tạo tình huống có vấn đề, nghĩa là phải đưa ra cho học sinh thấy được những lợi ích và
sự cần thiết khi vấn đề đặt ra được giải quyết nhưng đồng thời cũng cho thấy sự bế tắc
cần phải được bổ sung thêm những hiểu biết của học sinh về vấn đề này bằng những nỗ lực
cá nhân. Tình huống vấn đề thường xuất hiện dưới dạng những hiện tượng, sự kiện Vật
lý bất thường, những điều có vẻ nghịch lý và có thể không thể xảy ra được.
+ Đưa ra mục tiêu và tìm cách đạt được mục tiêu đó. Nhờ đó hình thành phương hướng
cho hoạt động học tập đồng thời rèn luyện thói quen làm việc hết mình của học sinh.
+ Cần kết hợp nội dung giảng dạy với các phương tiện dạy học hiện đại (các dụng cụ thí
nghiệm, âm thanh, hình ảnh tĩnh hay động, các phầm mềm hỗ trợ…).
+ Phải thường xuyên kiểm tra đánh giá sự lĩnh hội kiến thức của học sinh (bao gồm
việc tiếp nhận kiến thức và khả năng vận dụng kiến thức mới ).
1.4.2. Tăng cường công việc của HS với SGK, BT và TN Vật lý
a. Công việc của HS với SGK Vật lý
Sách giáo khoa vật hiện nay đã một sự thay đổi đáng kể so với sách giáo khoa cải
cách giáo dục trước đây: mỗi đầu chương hay đầu mỗi bài học thường đưa ra những tình
huống có vấn đề, những hiện tượng thường thấy trong tự nhiên, những ứng dụng trong khoa
học kỹ thuật đời sống liên quan với nội dung sắp trình bày, thế sách giáo khoa hiện
nay góp phần kích thích trí tò mò hay tìm hiểu hay khám phá của học sinh nếu như học sinh
được đọc chúng, nhờ đó phát huy được tính tích cực, tự lực của học sinh trong học tập Vật
lý.
Thêm vào đó, sách giáo khoa vật hiện nay phần trình y thêm những nội dung,
những bài đọc thêm, những thí nghiệm, những định luật không đủ điều kiện thực hiện (vì
cấu tạo và cách thức hoạt động của các lọai thiết bị khá phức tạp). Cho học sinh đọc những
phần này sẽ giúp đào sâu hoặc mở rộng tầm hiểu biết về một kiến thức vật lý o đó cho
học sinh.
Ngoài ra, sách giáo khoa còn đề ra các hoạt động cho học sinh, vậy nếu giáo viên
cách tổ chức cho học sinh họat động nhân hoặc hoạt động nhóm (tùy trường hợp) một
cách phù hợp sẽ làm tăng cường tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh, nhờ vậy học
sinh sẽ trưởng thành cả về kiến thức, kỹ năng, thái độ cả về phương pháp học tập,
phương pháp nghiên cứu khoa học.
30 + Tạo tình huống có vấn đề, nghĩa là phải đưa ra cho học sinh thấy được những lợi ích và sự cần thiết khi vấn đề đặt ra được giải quyết nhưng đồng thời cũng cho thấy sự bế tắc và cần phải được bổ sung thêm những hiểu biết của học sinh về vấn đề này bằng những nỗ lực cá nhân. Tình huống có vấn đề thường xuất hiện dưới dạng những hiện tượng, sự kiện Vật lý bất thường, những điều có vẻ nghịch lý và có thể không thể xảy ra được. + Đưa ra mục tiêu và tìm cách đạt được mục tiêu đó. Nhờ đó hình thành phương hướng cho hoạt động học tập đồng thời rèn luyện thói quen làm việc hết mình của học sinh. + Cần kết hợp nội dung giảng dạy với các phương tiện dạy học hiện đại (các dụng cụ thí nghiệm, âm thanh, hình ảnh tĩnh hay động, các phầm mềm hỗ trợ…). + Phải thường xuyên kiểm tra và đánh giá sự lĩnh hội kiến thức của học sinh (bao gồm việc tiếp nhận kiến thức và khả năng vận dụng kiến thức mới ). 1.4.2. Tăng cường công việc của HS với SGK, BT và TN Vật lý a. Công việc của HS với SGK Vật lý Sách giáo khoa vật lý hiện nay đã có một sự thay đổi đáng kể so với sách giáo khoa cải cách giáo dục trước đây: ở mỗi đầu chương hay đầu mỗi bài học thường đưa ra những tình huống có vấn đề, những hiện tượng thường thấy trong tự nhiên, những ứng dụng trong khoa học kỹ thuật và đời sống liên quan với nội dung sắp trình bày, vì thế sách giáo khoa hiện nay góp phần kích thích trí tò mò hay tìm hiểu hay khám phá của học sinh nếu như học sinh được đọc chúng, nhờ đó phát huy được tính tích cực, tự lực của học sinh trong học tập Vật lý. Thêm vào đó, sách giáo khoa vật lý hiện nay có phần trình bày thêm những nội dung, những bài đọc thêm, những thí nghiệm, những định luật không đủ điều kiện thực hiện (vì cấu tạo và cách thức hoạt động của các lọai thiết bị khá phức tạp). Cho học sinh đọc những phần này sẽ giúp đào sâu hoặc mở rộng tầm hiểu biết về một kiến thức vật lý nào đó cho học sinh. Ngoài ra, sách giáo khoa còn đề ra các hoạt động cho học sinh, vì vậy nếu giáo viên có cách tổ chức cho học sinh họat động cá nhân hoặc hoạt động nhóm (tùy trường hợp) một cách phù hợp sẽ làm tăng cường tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh, nhờ vậy học sinh sẽ trưởng thành cả về kiến thức, kỹ năng, thái độ và cả về phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu khoa học.
31
Hơn nữa, sách giáo khoa Vật lý hiện nay nhiều tranh ảnh rõ nét, màu sắc thực, những
bảng số liệu cụ thể giúp học sinh dễ quan sát và theo dõi khi kết hợp với việc nghe lời giảng
của giáo viên, qua đó giúp luyện thêm các giác quan cho học sinh (thị giác và thính giác).
Ngoài ra, sách giáo khoa còn có những tác dụng tích cực đối với học sinh khi sử dụng
nhà. Bởi vì, khi ở nhà học sinh sẽ có nhiều thời gian hơn để đọc nó nhằm chuẩn bị bài mới
hoặc củng cố, đào sâu thêm những kiến thức được học trên lớp thông qua những ví dụ hay
bài đọc thêm.
Tuy nhiên, để việc sử dụng sách giáo khoa nhà đạt hiệu quả cao cần sự hỗ trợ của
giáo viên, mà cụ thể là giáo viên nên giao công việc cho từng cá nhân hoặc từng nhóm nhỏ
dưới dạng nhiệm vụ học tập: chẳng hạn như trả lời các câu hỏi nhằm phục vụ cho việc xây
dựng bài học mới hay kiến thức mới, nhờ đó kích thích học sinh phải làm việc với sách giáo
khoa: từ việc tìm kiếm thông tin đến việc tiếp nhận thông tin cuối cùng chế biến
theo suy nghĩ riêng để thực hiện nhiệm vụ học tập được giao; hoặc có thể giáo viên chỉ dẫn
để học sinh thể sử dụng sách giáo khoa như một tài liệu cho việc định hướng học sinh
thực hiện một bài tổng kết chương hay tổng kết một phần nào đó theo suy nghĩ riêng của
từng học sinh.
b. Công việc của HS với BT Vật lý
Giải bài tập là một họat động trí óc gồm những thao tác đa dạng phức tạp nhưng xét cho
cùng thì luôn sự đối chiếu các điều kiện với các yêu cầu của bài, phân tích giải nhằm
tìm ra mối liên hệ đã có để giải quyết mâu thuẩn giữa điều kiện và yêu cầu.
Vật lý là bộ môn khoa học gắn liền với cuộc sống, chính vì điều đó mà giải bài tập vật lý
không chỉ là những công việc trên mà còn là tìm ra mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tế. Do
vậy giáo viên chúng ta cần hiểu rằng việc giải các bài tập vật lý không phải là mục đích của
dạy học, mục đích chính của công việc này giúp học sinh hiểu hơn nội dung kiến
thức vừa học, biết cách ứng dụng kiến thức đó vào thực tiễn qua đó rèn luyện kỹ năng phân
tích tổng hợp, đào sâu mở rộng một kiến thức đã biết, kỹ năng suy luận tính toán, đồng thời
phát huy cách làm việc tự lực, tính kiên trì vượt khó và đặc biệt là phát huy năng lực tư duy
sáng tạo của học sinh.
Đối với học sinh, cần loại ra khỏi suy nghĩ của chúng việc giải bài tập là đi lựa chọn một
cách máy móc những công thức chứa các đại lượng đã cho hoặc những đại lượng cần
tìm, cũng như tránh để cho những con số và các phép tính toán trong khi giải làm che khuất
31 Hơn nữa, sách giáo khoa Vật lý hiện nay có nhiều tranh ảnh rõ nét, màu sắc thực, những bảng số liệu cụ thể giúp học sinh dễ quan sát và theo dõi khi kết hợp với việc nghe lời giảng của giáo viên, qua đó giúp luyện thêm các giác quan cho học sinh (thị giác và thính giác). Ngoài ra, sách giáo khoa còn có những tác dụng tích cực đối với học sinh khi sử dụng ở nhà. Bởi vì, khi ở nhà học sinh sẽ có nhiều thời gian hơn để đọc nó nhằm chuẩn bị bài mới hoặc củng cố, đào sâu thêm những kiến thức được học trên lớp thông qua những ví dụ hay bài đọc thêm. Tuy nhiên, để việc sử dụng sách giáo khoa ở nhà đạt hiệu quả cao cần có sự hỗ trợ của giáo viên, mà cụ thể là giáo viên nên giao công việc cho từng cá nhân hoặc từng nhóm nhỏ dưới dạng nhiệm vụ học tập: chẳng hạn như trả lời các câu hỏi nhằm phục vụ cho việc xây dựng bài học mới hay kiến thức mới, nhờ đó kích thích học sinh phải làm việc với sách giáo khoa: từ việc tìm kiếm thông tin đến việc tiếp nhận thông tin và cuối cùng là chế biến nó theo suy nghĩ riêng để thực hiện nhiệm vụ học tập được giao; hoặc có thể giáo viên chỉ dẫn để học sinh có thể sử dụng sách giáo khoa như một tài liệu cho việc định hướng học sinh thực hiện một bài tổng kết chương hay tổng kết một phần nào đó theo suy nghĩ riêng của từng học sinh. b. Công việc của HS với BT Vật lý Giải bài tập là một họat động trí óc gồm những thao tác đa dạng phức tạp nhưng xét cho cùng thì luôn là sự đối chiếu các điều kiện với các yêu cầu của bài, phân tích lý giải nhằm tìm ra mối liên hệ đã có để giải quyết mâu thuẩn giữa điều kiện và yêu cầu. Vật lý là bộ môn khoa học gắn liền với cuộc sống, chính vì điều đó mà giải bài tập vật lý không chỉ là những công việc trên mà còn là tìm ra mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tế. Do vậy giáo viên chúng ta cần hiểu rằng việc giải các bài tập vật lý không phải là mục đích của dạy học, mà mục đích chính của công việc này là giúp học sinh hiểu rõ hơn nội dung kiến thức vừa học, biết cách ứng dụng kiến thức đó vào thực tiễn qua đó rèn luyện kỹ năng phân tích tổng hợp, đào sâu mở rộng một kiến thức đã biết, kỹ năng suy luận tính toán, đồng thời phát huy cách làm việc tự lực, tính kiên trì vượt khó và đặc biệt là phát huy năng lực tư duy sáng tạo của học sinh. Đối với học sinh, cần loại ra khỏi suy nghĩ của chúng việc giải bài tập là đi lựa chọn một cách máy móc những công thức có chứa các đại lượng đã cho hoặc những đại lượng cần tìm, cũng như tránh để cho những con số và các phép tính toán trong khi giải làm che khuất
32
hoặc lu mờ đi việc tìm hiểu ý nghĩa quan trong trong một bài tập Vật lý. Nhưng một thực tế
thường thấy, việc giải một bài tập Vật lý ở trường phổ thông hiện nay thường thực hiện theo
các bước sau:
- Đọc đề bài.
- Giáo viên phân tích hướng dẫn trình tự làm bài.
- Yêu cầu một học sinh lên bảng giải, các học sinh khác ngồi tại chỗ giải.
Với cách m này, với những học sinh chưa ý thức được vai trò của việc giải bài tập Vật
lý sẽ không tích cực, tự lực suy nghĩ về ý nghĩa bài tập đó mà hầu như chỉ tập trung vào các
phép tính toán dựa trên một trình tự đã được bày sẵn giống như việc đi chép lại ý tưởng của
giáo viên hay của một vài bạn tích cực nào đó trong lớp. Nhưng phải làm sao đây hay chỉ
còn cách trông chờ vào ý thức tự giác của mỗi học sinh. Dưới đây sẽ những biện pháp
giúp giáo viên và cả học sinh đạt kết quả như ý muốn với công việc giải bài tập Vật lý.
● Về nội dung bài tập Vật lý:
+ Trước hết bài tập phải được xây dựng một cách hệ thống, từ dễ đến khó; từ biết,
hiểu, vận dụng, rồi phân tích tổng hợp,…; lọai bài tập vận dụng cũng phải chú ý nội dung
của phải đi từ những hiện tượng rất gần gũi với cuộc sống xung quanh đến những vận
dụng có tính khoa học và phức tạp hơn, để học sinh dễ hình dung và tưởng tượng.
+ Bài tập sau phải nhằm giải quyết một bế tắc bài tập trước hoặc một tình huống mới
mà bài tập trước chưa nhắc đến nhằm kích thích hứng thú và tính tò mò của học sinh tạo ra
động cơ học tập tốt.
+ Bài tập định tính nên xếp trước thông thường các bài tập loại này hay việc giải
thích một hiện tượng hay một lý do xảy ra hiện tượng. Do vậy học sinh chỉ cần hiểu và thêm
vào một tí kỹ năng vận dụng là đã làm được các bài toán đơn giản.
+ Bài tập thí nghiệm thường được đưa ra sau cùng vì đôi khi để giải được loại bài tập loại
này đòi hỏi học sinh phải có một quá trình tích cực nghiên cứu, suy nghĩ để thiết kế một thí
nghiệm ở nhà hoặc ở phòng thí nghiệm mới hy vọng giải được nó.
+ Bài tập định lượng: đây là loại bài tập mà học sinh có vẽ thích thú nhất vì nó cụ thể,
ràng thông qua những con số. Do vậy cần phải khai thác triệt để tính tích cực, tự lực và khả
năng tư duy của học sinh thông qua loại bài tập này.
c. Sử dụng TN Vật lý
32 hoặc lu mờ đi việc tìm hiểu ý nghĩa quan trong trong một bài tập Vật lý. Nhưng một thực tế thường thấy, việc giải một bài tập Vật lý ở trường phổ thông hiện nay thường thực hiện theo các bước sau: - Đọc đề bài. - Giáo viên phân tích hướng dẫn trình tự làm bài. - Yêu cầu một học sinh lên bảng giải, các học sinh khác ngồi tại chỗ giải. Với cách làm này, với những học sinh chưa ý thức được vai trò của việc giải bài tập Vật lý sẽ không tích cực, tự lực suy nghĩ về ý nghĩa bài tập đó mà hầu như chỉ tập trung vào các phép tính toán dựa trên một trình tự đã được bày sẵn giống như việc đi chép lại ý tưởng của giáo viên hay của một vài bạn tích cực nào đó trong lớp. Nhưng phải làm sao đây hay chỉ còn cách trông chờ vào ý thức tự giác của mỗi học sinh. Dưới đây sẽ là những biện pháp giúp giáo viên và cả học sinh đạt kết quả như ý muốn với công việc giải bài tập Vật lý. ● Về nội dung bài tập Vật lý: + Trước hết bài tập phải được xây dựng một cách có hệ thống, từ dễ đến khó; từ biết, hiểu, vận dụng, rồi phân tích tổng hợp,…; lọai bài tập vận dụng cũng phải chú ý nội dung của nó phải đi từ những hiện tượng rất gần gũi với cuộc sống xung quanh đến những vận dụng có tính khoa học và phức tạp hơn, để học sinh dễ hình dung và tưởng tượng. + Bài tập sau phải nhằm giải quyết một bế tắc ở bài tập trước hoặc một tình huống mới mà bài tập trước chưa nhắc đến nhằm kích thích hứng thú và tính tò mò của học sinh tạo ra động cơ học tập tốt. + Bài tập định tính nên xếp trước vì thông thường các bài tập loại này hay là việc giải thích một hiện tượng hay một lý do xảy ra hiện tượng. Do vậy học sinh chỉ cần hiểu và thêm vào một tí kỹ năng vận dụng là đã làm được các bài toán đơn giản. + Bài tập thí nghiệm thường được đưa ra sau cùng vì đôi khi để giải được loại bài tập loại này đòi hỏi học sinh phải có một quá trình tích cực nghiên cứu, suy nghĩ để thiết kế một thí nghiệm ở nhà hoặc ở phòng thí nghiệm mới hy vọng giải được nó. + Bài tập định lượng: đây là loại bài tập mà học sinh có vẽ thích thú nhất vì nó cụ thể, rõ ràng thông qua những con số. Do vậy cần phải khai thác triệt để tính tích cực, tự lực và khả năng tư duy của học sinh thông qua loại bài tập này. c. Sử dụng TN Vật lý
33
Trong dạy học Vật lý, thí nghiệm Vật không chỉ để minh họa bài giảng còn được
sử dụng ở tất cả các khâu của quá trình dạy học, dưới mọi hình thức đa dạng và phong phú
như: đặt vấn đề bằng cách tạo ra những tình huống vấn đề bằng thí nghiệm; hình thành
kiến thức mới thông qua khảo sát, minh họa hay kiểm tra các giả thuyết đã đưa ra; củng cố
và vận dụng các kiến thức đã học mà cụ thể là đề cập đến những ứng dụng của kiến thức vật
lý đó vào trong sản xuất và đời sống; hay là dùng để kiểm tra, đánh giá sự lĩnh hội về kiến
thức, kỹ năng của học sinh;…
+ Sử dụng thí nghiệm Vật lý tạo tình huống có vấn đề:
Vật lý vốn là bộ môn khoa học thực nghiệm, vì vậy cần khai thác triệt để các thí nghiệm
Vật lý nhằm tạo ra những tình huống có vấn đề hoặc lựa chọn sự khởi đầu phù hợp. Thông
qua thí nghiệm, tạo cho học sinh sự ngạc nhiên, sự khó khăn nhất định về mặt nhận thức đối
với vấn đề được đặt ra, sự mâu thuẫn trong nhận thức của học sinh. Nhờ đó kích thích hứng
thú muốn tìm hiểu, khám phá, khởi đầu cho những dự đoán, sáng tạo của học sinh trong quá
trình nhận thức.
+ Sử dụng thí nghiệm Vật lý nhằm khảo sát, minh hoạ, hay kiểm tra giả thuyết:
Việc sử dụng lọai thí nghiệm này phải phù hợp với hoạt động của giáo viên học sinh
trong quá trình dạy học. Thí nghiệm này thường được dùng để đưa ra những hình hay
giả thuyết, hoặc dùng để kiểm tra những hình hay giả thuyết được học sinh hoặc giáo
viên gợi ý đưa ra. Nhờ những thí nghiệm này mà học sinh có thể thu thập được những thông
tin cần thiết và liên quan với đối tượng cần nghiên cứu, nhất là thể kiểm tra được những
dự đoán của học sinh. Nếu kết quả thí nghiệm trùng khớp với dự đoán ban đầu sẽ làm cho
học sinh phấn khởi, tự tin hơn đồng thời khắc phục tâm tự ti thường gặp ở học sinh khi
học vật lý, từ đó học sinh trở nên thích thú và tích cực hơn trong học tập vật lý.
+ Sử dụng thí nghiệm Vật lý để chứng minh:
Việc sử dụng thí nghiệm Vật để chứng minh nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh trong giờ học thông qua việc lôi cuốn học sinh vào những câu hỏi định hướng
hay những tình huống mới việc suy nghĩ để tìm ra câu trả lời cũng đồng thời với việc
học sinh tự đưa ra tiến trình và dự đoán kết quả của thí nghiệm dựa trên một số dụng cụ có
sẵn mà giáo viên đã chuẩn bị. Khi đã thống nhất với tiến trình thí nghiệm tiếp ngay đến
việc thực hiện thí nghiệm, quan sát, ghi số liệu và xử lý kết quả. Nếu có điều kiện (có nhiều
bộ dụng cụ) thì nên phân chia đến từng nhóm nhỏ thực hiện đồng lọat; nếu chỉ duy
33 Trong dạy học Vật lý, thí nghiệm Vật lý không chỉ để minh họa bài giảng mà còn được sử dụng ở tất cả các khâu của quá trình dạy học, dưới mọi hình thức đa dạng và phong phú như: đặt vấn đề bằng cách tạo ra những tình huống có vấn đề bằng thí nghiệm; hình thành kiến thức mới thông qua khảo sát, minh họa hay kiểm tra các giả thuyết đã đưa ra; củng cố và vận dụng các kiến thức đã học mà cụ thể là đề cập đến những ứng dụng của kiến thức vật lý đó vào trong sản xuất và đời sống; hay là dùng để kiểm tra, đánh giá sự lĩnh hội về kiến thức, kỹ năng của học sinh;… + Sử dụng thí nghiệm Vật lý tạo tình huống có vấn đề: Vật lý vốn là bộ môn khoa học thực nghiệm, vì vậy cần khai thác triệt để các thí nghiệm Vật lý nhằm tạo ra những tình huống có vấn đề hoặc lựa chọn sự khởi đầu phù hợp. Thông qua thí nghiệm, tạo cho học sinh sự ngạc nhiên, sự khó khăn nhất định về mặt nhận thức đối với vấn đề được đặt ra, sự mâu thuẫn trong nhận thức của học sinh. Nhờ đó kích thích hứng thú muốn tìm hiểu, khám phá, khởi đầu cho những dự đoán, sáng tạo của học sinh trong quá trình nhận thức. + Sử dụng thí nghiệm Vật lý nhằm khảo sát, minh hoạ, hay kiểm tra giả thuyết: Việc sử dụng lọai thí nghiệm này phải phù hợp với hoạt động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Thí nghiệm này thường được dùng để đưa ra những mô hình hay giả thuyết, hoặc dùng để kiểm tra những mô hình hay giả thuyết được học sinh hoặc giáo viên gợi ý đưa ra. Nhờ những thí nghiệm này mà học sinh có thể thu thập được những thông tin cần thiết và liên quan với đối tượng cần nghiên cứu, nhất là có thể kiểm tra được những dự đoán của học sinh. Nếu kết quả thí nghiệm trùng khớp với dự đoán ban đầu sẽ làm cho học sinh phấn khởi, tự tin hơn đồng thời khắc phục tâm lý tự ti thường gặp ở học sinh khi học vật lý, từ đó học sinh trở nên thích thú và tích cực hơn trong học tập vật lý. + Sử dụng thí nghiệm Vật lý để chứng minh: Việc sử dụng thí nghiệm Vật lý để chứng minh nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong giờ học thông qua việc lôi cuốn học sinh vào những câu hỏi định hướng hay những tình huống mới mà việc suy nghĩ để tìm ra câu trả lời cũng đồng thời với việc học sinh tự đưa ra tiến trình và dự đoán kết quả của thí nghiệm dựa trên một số dụng cụ có sẵn mà giáo viên đã chuẩn bị. Khi đã thống nhất với tiến trình thí nghiệm là tiếp ngay đến việc thực hiện thí nghiệm, quan sát, ghi số liệu và xử lý kết quả. Nếu có điều kiện (có nhiều bộ dụng cụ) thì nên phân chia đến từng nhóm nhỏ và thực hiện đồng lọat; nếu chỉ có duy
34
nhất một bộ thì giáo viên nên yêu cầu một số học sinh kiến thức thuyết kỹ năng
thực hiện các thao tác thí nghiệm tốt lên phía trước bàn các bạn còn lại để thực hiện dưới sự
quan sát và điều chỉnh khi cần thiết của giáo viên. Thí nghiệm kết thúc sẽ là hoạt động trao
đổi giữa giáo viên và học sinh về mối liên hệ giữa lý thuyết và kết quả thí nghiệm.
+ Sử dụng thí nghiệm vật để kiểm tra, đánh giá sự lĩnh hội về kiến thức, kỹ năng của
học sinh:
Từ thí nghiệm chứng minh, giáo viên thể mở rộng bằng cách thay đổi điều kiện, đặt
tình huống mới, yêu cầu học sinh dùng suy luận logic hay thực hiện lại các thí nghiệm
theo những điều kiện và tình huống này…qua đó có thể kiểm tra, đánh giá sự lĩnh hội kiến
thức cũng như các thao tác, kỹ năng thí nghiệm của học sinh. Qua đó thấy rằng việc sử dụng
thí nghiệm trong dạy học vật góp phần vào việc phát triển toàn diện, giáo dục kỹ thuật
tổng hợp cho học sinh. Nhờ thí nghiệm Vật lý mà học sinh hiểu sâu hơn bản chất vật lý của
các hiện tượng, quá trình, định luật,…Do vây khả năng liên hệ kiến thức vật lý với thực tế
của học sinh sẽ linh hoạt và hiệu quả hơn.
Mặt khác, đây còn là cơ hội rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo thực hành, góp phần thiết thực vào
việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho học sinh, tránh những bỡ ngỡ khi tiếp xúc hay sử dụng
những dụng cụ tương tngoài thực tế cuộc sống hay trong công việc sau khi rời khỏi ghế
nhà trường.
1.4.3. Sử dụng phiếu học tập và quan tâm đến công việc ở nhà của HS [5], [25],
[34]
a. Phiếu học tập
Phiếu học tậpphương tiện để tổ chức hoạt động học tập của học sinh nhằm lĩnh hội, củng
cố kiến thức. Đó cũng phương tiện đơn giản để duy trì sự hưng phấn, thích thú của học
sinh trong giờ học. Có hai loại phiếu học tập:
Phiếu học tập ở nhà
Nội dung phiếu học tập ở nhà có thể là hệ thống các câu hỏi, yêu cầu học sinh phải ôn tập
lại kiến thức của những bài trước, những m trước, thậm chí những môn học khác;
cũng có thể là yêu cầu học sinh tự nghiên cứu nội dung bài mới để cùng tham gia xây dựng
bài trên lớp.
Mục tiêu của phiếu học tập nhà chuyển giao nhiệm vụ học tập đến từng học sinh,
giúp mỗi cá nhân có ý thức và trách nhiệm cao hơn (việc giao nhiệm vụ bằng lời không làm
34 nhất một bộ thì giáo viên nên yêu cầu một số học sinh có kiến thức lý thuyết và kỹ năng thực hiện các thao tác thí nghiệm tốt lên phía trước bàn các bạn còn lại để thực hiện dưới sự quan sát và điều chỉnh khi cần thiết của giáo viên. Thí nghiệm kết thúc sẽ là hoạt động trao đổi giữa giáo viên và học sinh về mối liên hệ giữa lý thuyết và kết quả thí nghiệm. + Sử dụng thí nghiệm vật lý để kiểm tra, đánh giá sự lĩnh hội về kiến thức, kỹ năng của học sinh: Từ thí nghiệm chứng minh, giáo viên có thể mở rộng bằng cách thay đổi điều kiện, đặt tình huống mới, và yêu cầu học sinh dùng suy luận logic hay thực hiện lại các thí nghiệm theo những điều kiện và tình huống này…qua đó có thể kiểm tra, đánh giá sự lĩnh hội kiến thức cũng như các thao tác, kỹ năng thí nghiệm của học sinh. Qua đó thấy rằng việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học vật lý góp phần vào việc phát triển toàn diện, giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho học sinh. Nhờ thí nghiệm Vật lý mà học sinh hiểu sâu hơn bản chất vật lý của các hiện tượng, quá trình, định luật,…Do vây khả năng liên hệ kiến thức vật lý với thực tế của học sinh sẽ linh hoạt và hiệu quả hơn. Mặt khác, đây còn là cơ hội rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo thực hành, góp phần thiết thực vào việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho học sinh, tránh những bỡ ngỡ khi tiếp xúc hay sử dụng những dụng cụ tương tự ngoài thực tế cuộc sống hay trong công việc sau khi rời khỏi ghế nhà trường. 1.4.3. Sử dụng phiếu học tập và quan tâm đến công việc ở nhà của HS [5], [25], [34] a. Phiếu học tập Phiếu học tập là phương tiện để tổ chức hoạt động học tập của học sinh nhằm lĩnh hội, củng cố kiến thức. Đó cũng là phương tiện đơn giản để duy trì sự hưng phấn, thích thú của học sinh trong giờ học. Có hai loại phiếu học tập: • Phiếu học tập ở nhà Nội dung phiếu học tập ở nhà có thể là hệ thống các câu hỏi, yêu cầu học sinh phải ôn tập lại kiến thức của những bài trước, những năm trước, thậm chí là ở những môn học khác; cũng có thể là yêu cầu học sinh tự nghiên cứu nội dung bài mới để cùng tham gia xây dựng bài trên lớp. Mục tiêu của phiếu học tập ở nhà là chuyển giao nhiệm vụ học tập đến từng học sinh, giúp mỗi cá nhân có ý thức và trách nhiệm cao hơn (việc giao nhiệm vụ bằng lời không làm
35
học sinh ý thức được trách nhiệm của mình), thường thì không học sinh nào dám mang một
phiếu học tập còn trống rỗng đến lớp. Tuy nhiên, không yêu cầu học sinh phải hiểu biết hết
tất cả những nội dung trong đó. Khi tự nghiên cứu, học sinh thể gặp nhiều vấn đề khó
khăn hoặc chưa hiểu, lúc đó học sinh có thể mang đến lớp để cùng các bạn thảo luận.
Phiếu học tập trên lớp
Các phiếu học tập trên lớp nhằm hướng tới mục tiêu chính của bài học, được thực hiện
bằng hình thức hợp tác, thảo luận để thống nhất ý kiến. thế, phiếu học tập trên lớp phải
được thiết kế sao cho nhiệm vụ học tập phải được sắp xếp một cách lôgic theo sự phát
triển của bài học; học sinh từng bước mở rộng vốn hiểu biết, rèn luyện được kỹ năng; đồng
thời phải phát huy cao nhất tính tích cực, tự lực sáng tạo trong học tập vật của học
sinh.
Ngoài ra, khi thiết kế phiếu học tập trên lớp cần đan xen việc thực hiện nhiệm vụ học tập
lĩnh hội kiến thức mới với nhiệm vụ liên hệ lý thuyết với thực tế. Có như thế, học sinh sẽ rất
hứng thú và tích cực tham gia chiếm lỉnh tri thức ngay tai lớp.
b. Công việc ở nhà của HS
Công việc ở nhà của học sinh bao gồm : đọc sách giáo khoa hoặc một tài liệu ngoài sách
giáo khoa để khắc sâu kiến thức vừa tiếp thu lớp; thực hiện các thí nghiệm chứng minh
(khi ở lớp không đủ điều kiện thực hiện); vận dụng kiến thức đó để làm bài tập về nhà
hoặc chế tạo những dụng cụ đơn giản; chuẩn bị bài mới: xem trước nội dung bài mới hoặc
chuẩn bị một số dụng cụ cần thiết phục vụ bài học mới, m hiểu một số hiện tượng hay
dụng cụ có liên quan trong đời sống và khoa học kỹ thuật theo định hướng của giáo viên.
Công việc làm bài tập về nhà của học sinh được giáo viên quan tâm nhất vì nó thật sự cần
thiết để vào thời gian hạn chế ở lớp giúp học sinh ôn, hoàn chỉnh đến khi hiểu thấu đáo
nội dung vừa được học lớp, nhờ đó tính tích cực tự lực nhà của học sinh được
nâng cao, đồng thời qua đó cũng tạo điều kiện (về thời gian) để học sinh phát huy những
sáng tạo riêng của mình như: tìm hiểu cách khác để giải thích một hiện tượng hay giải một
bài tập, tìm ra một qui tắc mới, thiết kế một thí nghiệm để giải thích hoặc chứng minh dựa
trên những kiến thức đã biết,… Công việc ở nhà của học sinh ngoài những lợi ích nêu trên
còn giúp hình thành thái độ tích cực ở học sinh về nó như: có sự thống nhất giữa giáo viên
và các bạn cùng lớp khi giao nhiệm vụ, có ý thức về sự cần thiết của công việc về nhà, có
35 học sinh ý thức được trách nhiệm của mình), thường thì không học sinh nào dám mang một phiếu học tập còn trống rỗng đến lớp. Tuy nhiên, không yêu cầu học sinh phải hiểu biết hết tất cả những nội dung trong đó. Khi tự nghiên cứu, học sinh có thể gặp nhiều vấn đề khó khăn hoặc chưa hiểu, lúc đó học sinh có thể mang đến lớp để cùng các bạn thảo luận. • Phiếu học tập trên lớp Các phiếu học tập trên lớp nhằm hướng tới mục tiêu chính của bài học, được thực hiện bằng hình thức hợp tác, thảo luận để thống nhất ý kiến. Vì thế, phiếu học tập trên lớp phải được thiết kế sao cho nhiệm vụ học tập phải được sắp xếp một cách có lôgic theo sự phát triển của bài học; học sinh từng bước mở rộng vốn hiểu biết, rèn luyện được kỹ năng; đồng thời phải phát huy cao nhất tính tích cực, tự lực và sáng tạo trong học tập vật lý của học sinh. Ngoài ra, khi thiết kế phiếu học tập trên lớp cần đan xen việc thực hiện nhiệm vụ học tập lĩnh hội kiến thức mới với nhiệm vụ liên hệ lý thuyết với thực tế. Có như thế, học sinh sẽ rất hứng thú và tích cực tham gia chiếm lỉnh tri thức ngay tai lớp. b. Công việc ở nhà của HS Công việc ở nhà của học sinh bao gồm : đọc sách giáo khoa hoặc một tài liệu ngoài sách giáo khoa để khắc sâu kiến thức vừa tiếp thu ở lớp; thực hiện các thí nghiệm chứng minh (khi ở lớp không có đủ điều kiện thực hiện); vận dụng kiến thức đó để làm bài tập về nhà hoặc chế tạo những dụng cụ đơn giản; chuẩn bị bài mới: xem trước nội dung bài mới hoặc chuẩn bị một số dụng cụ cần thiết phục vụ bài học mới, tìm hiểu một số hiện tượng hay dụng cụ có liên quan trong đời sống và khoa học kỹ thuật theo định hướng của giáo viên. Công việc làm bài tập về nhà của học sinh được giáo viên quan tâm nhất vì nó thật sự cần thiết để bù vào thời gian hạn chế ở lớp giúp học sinh ôn, hoàn chỉnh đến khi hiểu thấu đáo nội dung vừa được học ở lớp, nhờ đó mà tính tích cực và tự lực ở nhà của học sinh được nâng cao, đồng thời qua đó cũng tạo điều kiện (về thời gian) để học sinh phát huy những sáng tạo riêng của mình như: tìm hiểu cách khác để giải thích một hiện tượng hay giải một bài tập, tìm ra một qui tắc mới, thiết kế một thí nghiệm để giải thích hoặc chứng minh dựa trên những kiến thức đã biết,… Công việc ở nhà của học sinh ngoài những lợi ích nêu trên còn giúp hình thành thái độ tích cực ở học sinh về nó như: có sự thống nhất giữa giáo viên và các bạn cùng lớp khi giao nhiệm vụ, có ý thức về sự cần thiết của công việc về nhà, có
36
tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao nhờ đó mà cố gắng hoàn thành công việc
ở mức độ cao nhất có thể.
1.4.4. Xây dựng bầu không khí học tập thích hợp và nhóm học tập và tinh thần
đồng đội cho HS.
a. Xây dựng bầu không khí học tập.
Không khí học tập bao gồm: môi trường xung quanh, điều kiện, sự quan tâm, tinh thần
hợp tác giúp đỡ của giáo viên và các bạn cùng lớp, …
Môi trường, điều kiện học tập thuận lợi (thời tiết mát mẻ, không gian yên tĩnh, điều kiện
cơ sở vật chất đầy đủ), sự quan tâm tôn trọng của giáo viên (sự chú ý theo dõi hay lắng
nghe phần trình bày, tiến lại gần, khích lệ và động viên sự cố gắng của học sinh) sẽ làm cho
học sinh cảm thấy thoải mái, an m, tự tin hơn nhđó các em sẽ tích cực nhiều hơn
trong hoạt động học tập của mình.
Sự quan tâm của các bạn cùng lớp thể hiện ở sự phân công và tin tưởng lẫn nhau khi t
chức họat động theo nhóm, sẽ giúp từng cá nhân trong nhóm tích cực và tự lực tìm tòi sáng
tạo để hoàn thành công việc được giao. Và rồi sự hợp tác với nhau để đi đến thống nhất
chung cho công việc của nhóm n“một loại thức ăn ngon” góp phần làm cho bàn tiệc
thêm thịnh soạn.
Tạo bầu không khí thoải mái, nhẹ nhàng trong giờ học bằng thái độ vui vẻ, hài hước bằng
việc cho học sinh những tự do tham gia vào các hoạt động trong việc nêu ra những ý nghĩ
riêng quyền trao đổi với các bạn hoặc giáo viên về những vấn đề còn chưa rõ; nếu
không vượt quá những nguyên tắc nội quy cho phép sẽ tạo điều kiện để học sinh mạnh
dạn hơn và có điều kiện phát huy năng lực sáng tạo của mình.
Tạo bầu không khí học tập thích hợp còn thể hiện ở việc nghe lắng nghe học sinh,
chọn lọc những đã nghe và đồng cảm với những nghe được. Nhờ vậy, học sinh sẽ
một niềm tin vào Giáo viên, từ đó thúc đẩy và động viên học sinh tích cực đưa ra những ý
kiến riêng của mình. Chính vì thế mà tính tích cực, tự lực và sáng tạo trong học tập của học
sinh được nâng lên.
b. Xây dựng nhóm học tập.
Nhóm học tập là tập hợp các cá nhân có liên đới với nhau, có những kỹ năng, hiểu biết có
thể bổ sung cho nhau, cùng quyết tâm chia sẽ một mục đích chung. Nhóm cách làm
việc chung, mang tính hợp tác; các thành viên trong nhóm có vai trò và trách nhiệm rõ ràng,
36 tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao nhờ đó mà cố gắng hoàn thành công việc ở mức độ cao nhất có thể. 1.4.4. Xây dựng bầu không khí học tập thích hợp và nhóm học tập và tinh thần đồng đội cho HS. a. Xây dựng bầu không khí học tập. Không khí học tập bao gồm: môi trường xung quanh, điều kiện, sự quan tâm, tinh thần hợp tác giúp đỡ của giáo viên và các bạn cùng lớp, … Môi trường, điều kiện học tập thuận lợi (thời tiết mát mẻ, không gian yên tĩnh, điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ), sự quan tâm và tôn trọng của giáo viên (sự chú ý theo dõi hay lắng nghe phần trình bày, tiến lại gần, khích lệ và động viên sự cố gắng của học sinh) sẽ làm cho học sinh cảm thấy thoải mái, an tâm, tự tin hơn nhờ đó mà các em sẽ tích cực nhiều hơn trong hoạt động học tập của mình. Sự quan tâm của các bạn cùng lớp thể hiện ở sự phân công và tin tưởng lẫn nhau khi tổ chức họat động theo nhóm, sẽ giúp từng cá nhân trong nhóm tích cực và tự lực tìm tòi sáng tạo để hoàn thành công việc được giao. Và rồi sự hợp tác với nhau để đi đến thống nhất chung cho công việc của nhóm như “một loại thức ăn ngon” góp phần làm cho bàn tiệc thêm thịnh soạn. Tạo bầu không khí thoải mái, nhẹ nhàng trong giờ học bằng thái độ vui vẻ, hài hước bằng việc cho học sinh những tự do tham gia vào các hoạt động trong việc nêu ra những ý nghĩ riêng và có quyền trao đổi với các bạn hoặc giáo viên về những vấn đề còn chưa rõ; nếu không vượt quá những nguyên tắc và nội quy cho phép sẽ tạo điều kiện để học sinh mạnh dạn hơn và có điều kiện phát huy năng lực sáng tạo của mình. Tạo bầu không khí học tập thích hợp còn thể hiện ở việc nghe và lắng nghe học sinh, chọn lọc những gì đã nghe và đồng cảm với những gì nghe được. Nhờ vậy, học sinh sẽ có một niềm tin vào Giáo viên, từ đó thúc đẩy và động viên học sinh tích cực đưa ra những ý kiến riêng của mình. Chính vì thế mà tính tích cực, tự lực và sáng tạo trong học tập của học sinh được nâng lên. b. Xây dựng nhóm học tập. Nhóm học tập là tập hợp các cá nhân có liên đới với nhau, có những kỹ năng, hiểu biết có thể bổ sung cho nhau, cùng quyết tâm và chia sẽ một mục đích chung. Nhóm có cách làm việc chung, mang tính hợp tác; các thành viên trong nhóm có vai trò và trách nhiệm rõ ràng,
37
đồng thời phải chịu trách nhiệm với nhau về công việc của nhóm mà mình được giao. Nhóm
học tập hiệu quả sẽ thể hiện sự tự tin, lòng nhiệt tình trong công việc lòng ham muốn
hoàn thiện cách làm việc.
Với những đặc điểm trên, nhóm học tập đòi hỏi từng thành viên trong nhóm phải tích
cực, tự lực hơn trong học tập, chuẩn bị và nghiên cứu, nhằm hoàn thành công việc được
giao; nhờ đó học sinh trở nên trách nhiệm hơn, ít nhất trách nhiệm của từng nhân
đối với một nhóm nhỏ. Khi công việc được giao chưa thể hoàn thành thì nhờ những hiểu
biết và kỹ năng của các thành viên khác sẽ bổ sung cho những thiếu sót của mình, qua đó
tinh thần đồng đội được rèn luyện thêm.
1.4.5. Sử dụng phương pháp và thủ thuật giảng dạy phù hợp
Với học sinh, khi đứng trước một kiến thức hay một bài tập vật lý cho dù các em đã được
giáo viên giảng giải cặn kẽ các em cũng đã thực sự hiểu hết những lời giảng này nhưng
học sinh cũng khó có thể khắc sâu được chúng nếu như học sinh không tích cực, tự lực
sáng tạo khám phá ra nó dưới sự chỉ dẫn của giáo viên. Việc làm này của học sinh ngoài
việc thỏa mãn tính hay tìm hiểu của lứa tuổi còn tác dụng lâu dài tích cực
hơn là làm tăng hứng thú để tiếp tục tìm hiểu những kiến thức khác, qua đó còn rèn luyện
cho học sinh khả năng tư duy độc lập - một kỹ năng cần thiết cho việc nghiên cứu cũng như
làm việc sau này, đồng thời rèn luyện được các giác quan và bộ óc của học sinh trong việc
phát hiện những liên hệ các quy luật vật lý. Để giúp học sinh trong việc này, ngoài việc
thực hiện mục tiêu chung, mỗi giáo viên cần phải lựa chọn một phương pháp thủ thuật
giảng tốt nhất phù hợp với nội dung kiến thức và điều kiện thực tế. Một phương pháp và thủ
thuật giảng giải được xem hiệu quả nhất khi với thời gian ngắn nhất, điều kiện tối thiểu
nhất vẫn đảm bảo cho học sinh đồng thời vừa nắm sâu các kiến thức vật vừa phát
triển được khả năng nhận thức của mình lại vừa biết liên hệ thực tế từ các kiến thức đã biết.
Chính vì thế mà việc lựa chọn phương pháp và thủ thuật giảng giải là một nghệ thuật, là nét
riêng của mỗi giáo viên. Với mỗi giáo viên, việc làm này đòi hỏi phải có một sự đầu tư tìm
hiểu từ nội dung bài giảng đến những kiến thức vật lý và khoa học khác có liên quan, phải
có những hiểu biết nhất định về cuộc sống về những hiện tượng xảy ra trong tự nhiên, phải
một kế hoạch ngay từ đầu: từ việc sắp xếp thời gian hợp đôi khi phải chút mạo
hiểm (do không đủ thời gian), thêm vào đó là một ít khôi hài nhằm tránh
37 đồng thời phải chịu trách nhiệm với nhau về công việc của nhóm mà mình được giao. Nhóm học tập hiệu quả sẽ thể hiện sự tự tin, lòng nhiệt tình trong công việc và lòng ham muốn hoàn thiện cách làm việc. Với những đặc điểm trên, nhóm học tập đòi hỏi từng thành viên trong nhóm phải tích cực, tự lực hơn trong học tập, chuẩn bị và nghiên cứu, nhằm hoàn thành công việc được giao; nhờ đó học sinh trở nên có trách nhiệm hơn, ít nhất là trách nhiệm của từng cá nhân đối với một nhóm nhỏ. Khi công việc được giao chưa thể hoàn thành thì nhờ những hiểu biết và kỹ năng của các thành viên khác sẽ bổ sung cho những thiếu sót của mình, qua đó tinh thần đồng đội được rèn luyện thêm. 1.4.5. Sử dụng phương pháp và thủ thuật giảng dạy phù hợp Với học sinh, khi đứng trước một kiến thức hay một bài tập vật lý cho dù các em đã được giáo viên giảng giải cặn kẽ và các em cũng đã thực sự hiểu hết những lời giảng này nhưng học sinh cũng khó có thể khắc sâu được chúng nếu như học sinh không tích cực, tự lực và sáng tạo khám phá ra nó dưới sự chỉ dẫn của giáo viên. Việc làm này của học sinh ngoài việc thỏa mãn tính tò mò hay tìm hiểu của lứa tuổi nó còn có tác dụng lâu dài và tích cực hơn là làm tăng hứng thú để tiếp tục tìm hiểu những kiến thức khác, qua đó còn rèn luyện cho học sinh khả năng tư duy độc lập - một kỹ năng cần thiết cho việc nghiên cứu cũng như làm việc sau này, đồng thời rèn luyện được các giác quan và bộ óc của học sinh trong việc phát hiện những liên hệ và các quy luật vật lý. Để giúp học sinh trong việc này, ngoài việc thực hiện mục tiêu chung, mỗi giáo viên cần phải lựa chọn một phương pháp và thủ thuật giảng tốt nhất phù hợp với nội dung kiến thức và điều kiện thực tế. Một phương pháp và thủ thuật giảng giải được xem là hiệu quả nhất khi với thời gian ngắn nhất, điều kiện tối thiểu nhất mà vẫn đảm bảo cho học sinh đồng thời vừa nắm sâu các kiến thức vật lý vừa phát triển được khả năng nhận thức của mình lại vừa biết liên hệ thực tế từ các kiến thức đã biết. Chính vì thế mà việc lựa chọn phương pháp và thủ thuật giảng giải là một nghệ thuật, là nét riêng của mỗi giáo viên. Với mỗi giáo viên, việc làm này đòi hỏi phải có một sự đầu tư tìm hiểu từ nội dung bài giảng đến những kiến thức vật lý và khoa học khác có liên quan, phải có những hiểu biết nhất định về cuộc sống về những hiện tượng xảy ra trong tự nhiên, phải có một kế hoạch ngay từ đầu: từ việc sắp xếp thời gian hợp lý đôi khi phải có chút mạo hiểm (do không đủ thời gian), thêm vào đó là một ít khôi hài nhằm tránh
38
sự đơn điệu, tẻ nhạt của giờ học nhất định phải một trình độ nhất định. Cùng với
những sự chuẩn bị trên, ở lớp cần tránh để tình trạng giáo viên cố dùng lời lẽ để giảng giải
còn học sinh thì thụ động nghe và tiếp thu, mà hãy khơi gợi cho học sinh con đường đi đến
kiến thức đó. Chẳng hạn, hãy đặt học sinh trước một tình huống vấn đề cần được giải
quyết, hoặc đặt ra những câu hỏi có tính khơi gợi bộ óc tò mò nhằm phát huy tính tích cực,
tự lực và sáng tạo học sinh. Công việc này dễ dàng được giải quyết nếu như biết áp dụng
một cách linh họat cách tổ chức họat động theo nhóm, thí nghiệm biểu diễn, chứng
minh,…nhưng hay hơn cả vẫn là cách đặt học sinh trước nhiều dụng cụ thí nghiệm cần thiết
và định hướng để học sinh suy nghĩ, tìm tòi phương án thí nghiệm nhằm giải quyết vấn đề
được nêu lên. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc nhiều o mức độ khó hay dễ của kiến
thức, trình độ học sinh, phương tiện phục vụ giảng dạy,… Qua đó cho thấy không
phương pháp dạy học nào duy nhất vạn năng phải sự phối hợp cùng lúc nhiều
phương pháp, nhiều hình thức tổ chức một giờ dạy. Cũng như không nhất định phải trình
bày theo thứ tự của sách giáo khoa hay tài liệu học tập nhưng lại cần chú ý không nên phá
vỡ trật tự lôgic của kiến thức đó.
1.4.6. Ứng dụng công ngh thông tin trong dạy học vật lý [12]
Theo quan điểm thông tin, học quá trình thu nhận thông tin định hướng, sự tái
tạo phát triển thông tin. thế, trong quá trình dạy học, người giáo viên phải tìm cách
làm tăng giá trị lượng thông tin , trao đổi thông tin nhanh, nhiều và hiệu quả hơn.
Trong dạy học vật lý, việc tả, minh hoạ, chứng minh,…những hiện tượng, định luật,
khái niệm hay những ứng dụng của vật lý trong đời sống và khoa học kỹ thuật là điều không
thể thiếu. Bởi vì, những điều đó sẽ góp phần gây sự chú ý, hứng thú, nhất là giúp học sinh
một niềm tin tuyệt đối vào lượng thông tin nhận được. Đó khởi đầu cho hàng loạt
những hoạt động tích cực khác của học sinh.
Để thực hiện tốt những công việc đó, ngoài việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học thì
ngày nay việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học đã phổ biến hơn những
đóng góp tích cực hơn.
a. Máy vi tính và các phần mềm dạy học vật lý
Máy vi tính với chức năng lưu trữ, hiển thị lại một lượng lớn thông tin dưới dạng văn
bản, hình ảnh, âm thanh; chọn lọc, sắp xếp, phóng to, thu nhỏ, chuyển hướng, liên kết,…Vì
vậy, nó được dùng như một máy soạn thảo văn bản tuyệt vời. Người giáo viên có thể dùng
38 sự đơn điệu, tẻ nhạt của giờ học và nhất định là phải có một trình độ nhất định. Cùng với những sự chuẩn bị trên, ở lớp cần tránh để tình trạng giáo viên cố dùng lời lẽ để giảng giải còn học sinh thì thụ động nghe và tiếp thu, mà hãy khơi gợi cho học sinh con đường đi đến kiến thức đó. Chẳng hạn, hãy đặt học sinh trước một tình huống có vấn đề cần được giải quyết, hoặc đặt ra những câu hỏi có tính khơi gợi bộ óc tò mò nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo ở học sinh. Công việc này dễ dàng được giải quyết nếu như biết áp dụng một cách linh họat cách tổ chức họat động theo nhóm, thí nghiệm biểu diễn, chứng minh,…nhưng hay hơn cả vẫn là cách đặt học sinh trước nhiều dụng cụ thí nghiệm cần thiết và định hướng để học sinh suy nghĩ, tìm tòi phương án thí nghiệm nhằm giải quyết vấn đề được nêu lên. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc nhiều vào mức độ khó hay dễ của kiến thức, trình độ học sinh, phương tiện phục vụ giảng dạy,… Qua đó cho thấy không có phương pháp dạy học nào là duy nhất là vạn năng mà phải có sự phối hợp cùng lúc nhiều phương pháp, nhiều hình thức tổ chức một giờ dạy. Cũng như không nhất định phải trình bày theo thứ tự của sách giáo khoa hay tài liệu học tập nhưng lại cần chú ý không nên phá vỡ trật tự lôgic của kiến thức đó. 1.4.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học vật lý [12] Theo quan điểm thông tin, học là quá trình thu nhận thông tin có định hướng, có sự tái tạo và phát triển thông tin. Vì thế, trong quá trình dạy học, người giáo viên phải tìm cách làm tăng giá trị lượng thông tin , trao đổi thông tin nhanh, nhiều và hiệu quả hơn. Trong dạy học vật lý, việc mô tả, minh hoạ, chứng minh,…những hiện tượng, định luật, khái niệm hay những ứng dụng của vật lý trong đời sống và khoa học kỹ thuật là điều không thể thiếu. Bởi vì, những điều đó sẽ góp phần gây sự chú ý, hứng thú, nhất là giúp học sinh có một niềm tin tuyệt đối vào lượng thông tin nhận được. Đó là khởi đầu cho hàng loạt những hoạt động tích cực khác của học sinh. Để thực hiện tốt những công việc đó, ngoài việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học thì ngày nay việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học đã phổ biến hơn và có những đóng góp tích cực hơn. a. Máy vi tính và các phần mềm dạy học vật lý Máy vi tính với chức năng lưu trữ, hiển thị lại một lượng lớn thông tin dưới dạng văn bản, hình ảnh, âm thanh; chọn lọc, sắp xếp, phóng to, thu nhỏ, chuyển hướng, liên kết,…Vì vậy, nó được dùng như một máy soạn thảo văn bản tuyệt vời. Người giáo viên có thể dùng