Luận văn Thạc sĩ Địa lí học: Phát triển các khu công nghiệp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
4,233
593
133
21
hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, chúng ta cần đảm bảo tính độc lập
trong
kinh tế, có một đường lối phát triển riêng được xây dựng trên cơ sở điều kiện
thực tế
của đất nước. Phát triển KCN có thể thực hiện đồng thời cả 2 mục tiêu trên, vì:
Thứ nhất, KCN được hiểu là một vùng lãnh thổ đặc biệt có những điều kiện
thuận lợi về CS HT sẵn có cùng với nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng.
Đây sẽ là một nơi lý tưởng cho các nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu tư nước
ngoài. Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN, các công nghệ tiên tiến
hiện đại nhất trên thế giới, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý DN,
trình độ
tay nghề công nhân theo các chuẩn mực quốc tế sẽ được du nhập vào Việt Nam.
Đây chính là những nhân tố quan trọng giúp nước ta chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thứ hai, KCN là nơi được quản lý chặt chẽ bởi hệ thống pháp luật. Tại các
KCN, các nhà đầu tư vừa được tự do kinh doanh vừa phải tuân thủ chặt chẽ pháp
luật nước sở tại. Qua hoạt động của các DN trong KCN, các KCN trong và ngoài
nước thiết lập được mối liên kết kinh tế theo vùng, theo ngành trên phạm vi
trong
nước và quốc tế, từ đó giúp chúng ta khai thác được các nguồn lực sẵn có, phát
huy
những lợi thế so sánh, đồng thời huy động được các nguồn lực bên ngoài để phát
triển kinh tế. Như vậy, với mô hình KCN chúng ta vừa phát huy được các yếu tố
nội
lực, vừa tận dụng được các yếu tố bên ngoài để phát triển, vừa đảm bảo ch o việc
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực mà vẫn giữ được thế chủ động và độc
lập của nền kinh tế đất nước.
KCN là mô hình kinh tế đã được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới,
là một giải pháp tối ưu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sự phát triển
CN ở
các nước phát triển Châu Âu và Bắc Mỹ. Các nước Công nghiệp mới (NICs) như
Hàn quốc, Trung Quốc cũng như nhiều nước đang phát triển ở Đông Nam Á đã và
đang triển khai việc xâ y d ựng và phát triển cá c KCN đều gặt hái được những
thành
công đáng kể.
Tóm lại, thành công của KCN đã được khẳng định trên thế giới và bước đầu
được khẳng định ở Việt Nam, như một đòn bẩy quan trọng để đẩy nhanh tiến trình
CNH, HĐH đất nước. Phát triển KCN là phù hợp với xu thế kinh tế thế giới, phù
22
hợp với chủ trương ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, phát huy năng lực của
mọi
thành phần kinh tế trong và ngoài nước của Đảng và Nhà nước ta.
1.2.3. Vai trò của các KCN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra chỉ có thể đạt được bằng
con
đường phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước.
Trong đó, việc phát triển KCN có vai trò vô cùng quan trọng.
- Việc phát triển KCN tạo nền tảng thu hút vốn đầu tư các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng,
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH.
KCN và KCX với những ưu đãi đặc biệt đã trở thành nơi hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài, từ đó giúp cho nước chủ nhà có thêm vốn đầu tư, tiếp cận công
nghệ
và kỹ thuật mới, thu ngoại tệ và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, các KCN và KCX
góp phần cân đối cán cân thương mại theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu
ngoại tệ do việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, giảm b ớt nhập khẩu những
mặt
hàng trong nước sản xuất được, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng.
- Phát triển các KCN, KCX tạo thêm nhiều công ăn việc làm, góp phần hình
thành một lớp người lao động mới, sáng tạo, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao,
tiếp thu tốt công nghệ mới, là yếu tố cần thiết của quá trình CNH, HĐH.
Việt Nam là một nước đông dân, tốc độ gia tăng dân số khá cao so với các
nước trong khu vực. Về thực chất, Việt Nam vẫn là một nước có nền kinh tế nông
nghiệp nên có tỷ lệ nửa thất nghiệp cao. Thêm vào đó, số người thất nghiệp ở đô
thị
ngày càng tăng và chủ yếu là những người đến tuổi lao động. Vì vậy, phát triển
KCN và KCX chính là biện pháp hữu hiệu để tạo công ăn việc làm cho người lao
động. Mặt khác, nhiều KCN đã xây dựng các cơ sở dạy nghề và có mô hình tổ chức
và quản lý nói chung rất tiên tiến, đạt trình độ quốc tế và đa dạng. Đây là môi
trường rất tốt để đào tạo, chuyển giao khoa học quản lý cho đội ngũ cán bộ quản
lý
DN của Việt Nam để dần thay thế lao động quản lý người nước ngoài, đáp ứng nhu
cầu nguồn lao động cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
23
- Phát triển các KCN và KCX sẽ tạo ra mối liên hệ ngược tác động lại phát
triển các vùng, các ngành, lĩnh vực theo hướng CNH, HĐH.
Thông qua việc sử dụng nguyên liệu trong nước và các dịch vụ gia công chế
biến sản phẩm, các KCN và KCX sẽ thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
Bên cạnh đó, việc phát triển các KCN tác động rất rõ rệt đến quá trình quy
hoạch,
đào tạo, phát triển nguồn nhân và quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của địa
phương. Các dự án đầu tư trong KCN đều là những dự án đầu tư mới, công nghệ
hiện đại, mức độ tự động hoá cao, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt và ổn
định, tạo áp lực cạnh tranh đối với các DN khác sản xuất sản phẩm cùng loại phải
áp dụng mọi biện pháp để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần
giúp CN địa phương từ chổ chỉ phục vụ nhu cầu tại chổ là chính đã vươn ra thị
trường cả nước và xuất khẩu.
- Phát triển các KCN và KCX nhằm mục tiêu tiếp thu kỹ thuật và công nghệ
hiện đại, đồng thời học tập kinh nghiệm và hình thành thói quen, phương pháp
quản
lý sản xuất tiên tiến.
Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án sản xuất, kinh do anh trong
KCN, các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công
nghệ tiên tiến, hiện đại, góp phần nâng cao hàm lượng c ông nghệ trong sản phẩm,
qua mối quan hệ hợp tác đầu tư với nước ngoài, vị thế và sức hấp dẫn đầu tư của
Việt
Nam trên trường quốc tế được cải thiện và góp phần đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác
quốc tế và khu vực. Nơi đây sẽ đào tạo lực lượng cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý
có
trình độ cao, đủ sức vươn xa hơn ra thị trường thế giới. KCN và K CX có tác dụng
như một bước đột phá về các h làm mới. Từ đó giúp các DN r út ra kinh nghiệm,
tạo
nên sức hút với cả bên trong và bên ngoài, góp phần tăng trưởng kinh tế.
- Phát triển KCN, KCX cho phép khắc phục được những yếu kém về CSHT
trên những vùng rộng lớn, bảo vệ môi trường và đẩy nhanh quá trình đô thị hóa.
Tại các địa phương có các KCN đã hoàn thành đầu tư cơ bản và đi vào hoạt
động, kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ và hoàn thiện thực sự góp phần thay
đổi
diện mạo của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh thu hút đầu
tư
vào KCN và thúc đẩy mối liên kết kinh tế ngành và vùng. Mặt khác, trong các KCN
24
và KCX mọi điều kiện cần thiết về CSHT nhanh chóng đạt đến trình độ cao và đáp
ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Việc xây dựng các KCN và KCX sẽ đưa các DN
trong nước tâp trung thành những trung tâm thuận lợi cho việc quản lý. Đồng thời
trong các KCN việc phân nhóm các nhà máy được tiến hành một cách có hệ thống,
do đó việc bảo vệ môi trường được đảm bảo. Ngoài ra, việc phát triển các KCN đã
góp phần hình thành các khu đô thị mới, cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa xã
hội
cho người dân sống trên địa bàn có KCN.
- KCN góp phần nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan Nhà nước.
KCN là mô hình mới ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, việc
triển khai mô hình này có nhiều vấn đề bất cập trong quản lý Nhà nước về KCN
như việc phân cấp ủy qu yền KCN, thủ tục hành chính đầu tư vào KCN, các vấn đề
về thuế… Thực tế phát triển các KCN cho chúng ta nhiều bài học về quản lý Nhà
nước nói chung và quản lý KCN nói riêng. Đến nay, bộ máy quản lý KCN đã thống
nhất từ Trung ương đến địa phương. KCN cũng là nơi có điều kiện thực hiện tốt cơ
chế “một cửa, tại chổ”, tạo thuận lợi t ối đa cho nhà đầu tư khi làm thủ tục vào
các
KCN, cũng là nơi cho các cơ quan nhà nước thử nghiệm các chính sách mới và
ngày càng hoàn thiện hơn chính sách đó phù hợp với thực tế.
Như vậy ta thấy, việc phát triển KCN, KCX là một đòi hỏi khách quan, một
bước đi cần thiết và có nhiều tác dụng thực tiễn đối với nước ta.
1.3. Phát triển KCN ở Việt Nam
1.3.1. Đặc điểm và phân loại
1.3.1.1. Đặc điểm
Ở Việt Nam, KCN tập trung có những đặc điểm cơ bản sau:
- Là khu vực có vị trí địa lí thuận lợi, tập trung nhiều DN, xí nghiệp CN trong
một khu vực có ranh giới rõ ràng, sử dụng chung kết cấu hạ tầng, do Chính phủ
hoặc các cơ quan chức năng được Chính phủ ủy nhiệm quyết định thành lập.
- Các DN trong KCN được hưởng quy chế riêng và ưu đãi riêng theo quy định
của Chính phủ và cơ quan địa phương sở tại, có chính sách k inh tế đặc thù, ưu
đãi
nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
25
- Nguồn vốn xây dựng CSHT chủ yếu là thu hút từ nước ngoài hay các tổ
chức, cá nhân trong nước.
- Sản phẩm của các nhà máy, DN trong KCN chủ yếu dành cho xuất khẩu,
hướng ra thị trường thế giới.
- Mọi hoạt động kinh tế trong KCN trực tiếp chịu sự chi phối của cơ chế thị
trường và lấy điều tiết của thị trường làm chính.
- KCN là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành phần và nhiều
hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại: DN có vốn đầu tư nước ngoài dưới hình
thức 100% vốn đầu tư nước ngoài, hợp đồng, hợp tác kinh doanh, DN liên doanh và
DN vốn 100% vốn trong nước.
- Hoạt động trong KCN sẽ là các tổ chức pháp nhân và các cá nhân trong và
ngoài nước tiến hành theo các điều kiện bình đẳng.
1.3.1.2. Phân loại KCN
Tùy theo góc độ tiếp cận, có thể phân loại KCN theo nhiều cách khác nhau:
- Theo tính chất ngành nghề, KCN được chia thành các loại: KCN chuyên
ngành, KCN đa ngành, KCN sinh thái, KCN đô thị, KCN đô thị - công nghệ cao.
- Dựa vào đặc điểm KCN, người ta chia KC N thành: KCN tập tr un g, KCN chế
xuất, khu công nghệ cao và CCN - TTCN.
- Theo đặc điểm và cấp quản lý, KCN gồm 3 loại: KCN do Chính phủ quyết
định thành lập; KCN do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định thành lập;
KCN do Ủy ban nhân dân huyện, thị quyết định thành lập.
Ngoài ra, các KCN còn được phân loại theo tính chất đồng bộ của việc xâ y
dựng, theo chủ đầu tư, theo tình trạng cho thuê, theo mức độ mới cũ, theo lãnh
thổ
địa lí…
1.3.2. Các điều kiện hình thành và mở rộng các KCN
Theo quyết định 1107/2006/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến
năm 2020 đã quy định các điều kiện để hình thành và mở rộng các KCN như sau:
- Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và tình hình phát triển KT - XH; quy hoạch
và kế hoạch sử dụng đất của từng địa phương.
26
- Có các điều kiện thuận lợi hoặc có khả năng xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, triển khai đồng bộ và kết hợp chặt chẽ giữa quy
hoạch phát triển KCN, KCX với quy hoạch phát triển đô thị, phân bố dân cư, nhà ở
và các công trình xã hội phục vụ công nhân trong KCN, KCX .
- Có quỹ đất dự trữ để phát triển và có điều kiện liên kết thành cụm các KCN;
riêng đối với các địa phương thuần túy đất nông nghiệp, khi phát triển các KCN
để
thực hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế cần tiến hành phân kỳ đầu tư chặt
chẽ
nhằm đảm bảo sử dụng đất có hiệu quả.
- Có khả năng thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
- Có khả năng cung cấp và đáp ứng nhu cầu về lao động.
- Đảm bảo các yêu cầu về an ninh, quốc phòng.
- Đối với các địa phương đã phát triển KCN, việc thành lập mới các KCN chỉ
được thực hiện khi tổng diện tích đất CN của các KCN hiện có đã được cho thuê ít
nhất là 60% và đã xây dựng xong công trình xử lý nước thải tập trung.
- Đối với KCN có quy mô diện tích trên 500 ha và có nhiều chủ đầu tư tham gia
đầu tư xây dựng – kinh doanh kết cấu hạ tầng, phải tiến hành lập quy hoạch chung
xây dựng KCN theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng trước khi lập quy hoạch chi tiết
KCN để đảm bảo tính thống nhất và tính đồng bộ của hệ thống hạ tầng kỹ thuật
KCN.
- Trong KCN, KCX không có khu dân cư. Trong KCN có thể có KCX và DN
chế xuất.
Tóm lại, việc hình thành các KCN mà muc tiêu cuối cùng là các xí nghiệp sản
xuất CN cùng với CSHT hiện đại hóa, bảo vệ môi trường trong sạch là quá trình
lâu
dài và phức tạp. Khi ra quyết định thành lập các KCN, nếu xem xét kĩ các vấn đề
trên
thì cơ bản sẽ giảm được nhiều rủi ro và tránh được lãng phí đầu tư có thể xảy
ra.
1.3.3. Tổ chức lãnh thổ các KCN ở nước ta
Qua một thời gian thử nghiệm và phát triển, đến nay nước ta đã có các hình
thức tổ chức lãnh thổ KCN sau:
- KCN được thành lập trên một khuôn viên đã có một DN đang hoạt động.
Chẳng hạn KCN Hòa Khánh – Liên Chiểu (Đà Nẵng), KCN Việt Hương (Bình
Dương), KCN Tân Tạo, Bình Chiểu (Tp. HCM), KCN Sài Đồng (Hà Nội) và một
27
số KCN tại Đồng Nai nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển KCN theo quy định mới, tạo
hạ tầng kỹ thuật phục vụ tốt cho CN có điều kiện xử lý chất thải CN, đồng th ời
đảm
bảo tính quy hoạch trong xây dựng của các công trình kết cấu hạ tầng kỷ thuật
thuận
tiện cho các DN sử dụng.
- Các KCN được hình thành đáp ứng nhu cầu di dời các nhà máy xí nghiệp
đang ở trong nội thành các đô thị lớn, do nhu cầu chỉnh trang đô thị và bảo vệ
môi
trường và môi sinh mà phải di dời một số nhà máy, xí nghiệp vào KCN. Hiện nay
do các thành phố phát triển nhanh và quy mô lớn, dân cư tập trung đông đúc hơn
nên các cơ sở CN đã được x â y d ựng trong nội thành khôn g những mất mĩ quan
cho
thành phố mà còn gây ô nhiễm môi trường sống cho dân cư đô thị. Việc mở rộng
các cơ sở CN khi không còn diện tích đất, đổi mới công nghệ, xử lý CSHT và bảo
vệ môi trường tốn kém. Việc hình thành các KCN phục vụ nhu cầu di dời là nhu cầu
cần thiết, thực hiện càng sớm càng tốt.
- Các KCN quy mô nhỏ, gắn với các vùng nguyên nhiên liệu nông – lâm –
thủy sản. Các KCN này được hình thành tại một số tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu
Long, Trung du miền núi phía Bắc và Duyên hải miền Trung. Trong quá trình
chuyển dịch kinh tế theo hướng CNH, HĐH, các tỉnh đều có nhu cầu hình thành các
KCN nhằm tạo điều kiện để phát triển CN chế biến nông – lâm – thủy sản và các
nguồn tài nguyên mà địa phương sẵn có thế mạnh.
- Các KCN hiện đại có quy mô lớn được xâ y dựng mới hoàn toàn do công t y
nước ngoài đầu tư và phát triển CSHT theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Một số KCN như Hải Phòng Nomura, Việt Nam – Singapo, Long Bình Amata,
KCN Bắc Thăng Long… Các KCN này có tốc độ xây dựng CSHT tương đối nhanh
và chất lượng CSHT đạt tiêu chuẩn quốc tế, c ó hệ thống xử lý nước thải tiến
tiến và
đồng bộ, một số KCN có nhà máy phát điện riêng tạo điều kiện hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, có khả năng tài chính và có ý định làm ăn
lâu
dài tại Việt Nam. Khả năng vận động xúc tiến đầu tư có điều kiện hơn do cho bên
ngoài tham gia liên doanh, có mạng lưới kinh doanh rộng khắp, có kinh nghiệm
tiếp thị.
Theo đánh giá chung của Ban quản lý các KCN, nếu việc xếp theo thứ tự trong
28
xem xét quyết định thành lập KCN, thì loại hình KCN này được quan tâm và cân
nhắc thận trọng nhất. Bởi vì đây là những KCN được hình thành từ đầu tư hoàn
toàn
mới cả về CSHT và thu hút đầu tư, nhu cầu đất và vốn đầu tư rất lớn, nếu loại
hình
này thất bại thì hậu quả của nó vô cùng lớn. Vì vậy, cần phải xác định việc xây
dựng CSHT phải đồng bộ và đạt tiêu chuẩn quốc tế, việc thu hút đầu tư nên tập
trung vào những khu vực có công nghệ tiên tiến, nguồn sản phẩm x uất khẩu có tín
h
cạnh tranh cao. Do vậy, việc thu hút đầu tư cần lưu ý 2 mặt là tiến độ nhanh và
chất
lượng DN KCN tốt.
1.3.4. Thực trạng phát triển KCN ở Việt Nam
Năm 1991, KCX đầu tiên được xây dựng - KCX Tân Thuận, tiếp theo là KCX
Linh Trung I (năm 1992). Song hành cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền
kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương hình thành các KCN, KCX để thu hút
vốn đầu tư và công nghệ từ nước ngoài. Tính đến tháng 12/2011, cả nước có 283
KCN được thành lập trên 58 tỉnh thành với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng
76.000 ha, quy mô trung bình của các KCN và KCX là 283 ha. Trong đó có 277
KCN, 03 KCX (KCX Sài Gòn – Linh Trung, KCX Linh Trung II, KCX Tân Thuận
ở Tp. HCM) và 03 khu công nghệ cao (Kh u công nghệ cao Quang Trung ở Tp.
HCM, khu công nghệ cao Hòa Lạc ở Hà Nội và khu công nghệ cao Đà Nẵng ở
thành phố Đà Nẵng). Tổng diện tích đất CN là 46.000 ha (chiếm 60,5% tổng diện
tích đất tự nhiên KCN). Sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển các KCN đã có
những đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế.
- Hoạt động thu hút đầu tư: Tính đến hết tháng 12/2011, các KCN có tổng
diện tích đất CN có thể cho thuê 30.000 ha, trong đó đã cho thuê 19.300 ha, đạt
tỷ lệ
lấp đầy khoảng 64,3%. Hiện các KCN có 4.681 dự án trong nước đang hoạt động
với tổng vốn đầu tư xấp xỉ 420 nghìn tỷ đồng và 4.113 dự án FDI còn hiệu lực với
tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 59,6 tỷ USD. Đến nay, có hơn 50 quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó 80% số dự án và 85% tổng số vốn đầu tư
đến từ các nước Đông Nam Á và Đông Á.
- Về đầu tư cơ sở hạ tầng: Tổng vốn đầu tư hạ tầng của 283 KCN khoảng 10
tỷ USD, trong đó có 36 KCN do DN có vốn FDI làm chủ đầu tư với tổng vốn đăng
ký trên 2 tỷ USD (trên 20% tổng vốn đầu tư kết cấu hạ tầng đăng ký). Tổng vốn
đầu
29
tư kết cấu hạ tầng KCN thực hiện đến cuối tháng 12/2011 đạt 4,5 tỷ USD, bằng
44% tổng vốn đầu tư kết cấu hạ tầng đăng ký.
- Đóng góp vào giá trị sản xuất CN và xuất khẩu: Các KCN và KCX đã có
những đóng góp ngày càng lớn vào việc nâng cao giá trị gia tăng trong ngành CN.
Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các DN trong KCN năm 2005 chiếm 20% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, đến năm 2011 chiếm 30%.
- Giải quyết việc làm và đào tạo nguồn nhân lực: Tính đến 12/2011, các KCN
và KCX đã giải quyết việc làm cho khoảng 2 triệu lao động trực tiếp. Ngoài ra,
các
KCN và KCX góp phần đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng nhu cầu của
nền CN hiện đại. Vấn đề nhà ở cho người lao động đã được quan tâm hơn.
- Công tác bảo vệ môi trường sinh thái: Đến tháng 12/2011 đã có 182 KCN đi
vào vận hành, trong đó đã có 118 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung, hơn
30 KCN đang xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung, các KCN còn lại cũng
đang triển khai các thủ tục để đầu tư xây dựng. Các công tác bảo vệ môi trường
được các DN trong các KCN quan tâm hơn.
Như vật ta thấy sự phát triển mô hình K CN trong thời gian qua ở nước ta đã
gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng xây dựng và
hoạt động của các KCN vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập và thiếu bền vững, cụ thể là:
- Công tác quy hoạch các KCN, KCX còn thiếu đồng bộ, việc phân bố các
KCN giữa các vùng còn nhiều bất hợp lý. Các địa phương chạy đua theo phong trào
thành lập KCN nên không khai thác được những lợi thế riêng trong quá trình phát
triển của mình.
- Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia vào các KCN và KCX chưa đồng bộ
và thống nhất. Vì vậy, các chương trình xúc tiến đầu tư do địa phương thực hiện
mang tính cục bộ, hiệu quả chưa cao. Tình trạng các địa phương ra sức “ganh đua,
cạnh tranh” để thu hút đầu tư diễn ra phổ biến.
- Các KCN trong cả nước chưa có sự liên kết với nhau để tận dụng về CSHT,
dịch vụ và các mối quan hệ trong sản xuất. Đây là yếu điểm lớn của các KCN ở
nước ta.
- Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý. Hầu hết các dự án hoạt động trong KCN đều là
các dự án CN nhẹ, CN thực phẩm, CN hàng tiêu dùng… rất ít những dự án công
30
nghệ tiên tiến, hiện đại như điện, điện tử, vật liệu mới…
- Thiếu lao động có trình độ cao. Hầu hết các DN trong KCN có nhu cầu tuyển
dụng lớn, lao động có kỹ thuật và tay nghề ca o, kỹ luật lao động tốt… nhưng đa
số
nguồn lao động của các địa phương không đáp ứng được.
- Quản lý và sử dụng đất trong KCN còn nhiều hạn chế, công tác đền bù và
GPMB còn nhiều bất cập, vừa phức tạp và tốn thời gian. Điều này làm tăng chi phí
xây dựng, dẫn đến giá thuê đất cao, giảm sức hấp dẫn với các nhà đầu tư.
- Xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc quanh các KCN. Hệ thống CSHT ngoài
KCN không theo kịp sự phát triển bên trong KCN như giao thông, nhà ở, các công
trình giáo dục, y tế… phục vụ người lao động. Nhiều DN chưa tuân thủ nghiêm túc
những quy định về môi trường.
1.3.5. Kinh nghiệm phát triển KCN ở một số địa phương trong vùng Đông
Nam Bộ
1.3.5.1. Phát triển KCN tỉnh Bình Dương
Với chủ trương đa dạng các thành phần kinh tế đầu tư và xây dựng CSHT các
KCN nên Bình Dương có nhiều mô hình xâ y dựng CSHT khác nhau: Do DN nhà
nước, DN nhà nước liên doanh với tư nhân, DN tư nhân và nhà nước liên doanh với
nước ngoài. Với phương châm “trải chiếu hoa” để mời gọi các nhà đầu tư, tỉnh
Bình
Dương đã tạo được sức hấp dẫn với các DN và cho đến nay trở thành tỉnh dẫn đầu
cả nước về thu hút vốn đầu tư. Đến nay, tỉnh Bình Dương có 25 KCN với tổng diện
tích khoảng 7.188,7 ha, diện tích trung bình là 287,5 ha/KCN, tỷ lệ lấp đầy
khoảng
58,7%. Trong đó có nhiều KCN có tỷ lệ lấp đầy cao như KCN Sóng Thần I
(96,6%), Sóng Thần II (90,8%), Đồng An (90,8%), Dệt may Bình An (98,9%)…
Sản phẩm CN từ các KCN tỉnh Bình Dương chủ yếu trong lĩnh vực CN sản xuất
hàng tiêu dùng và lương thực – thực phẩm sử dụng nhiều lao động: Sợi – dệt - may
mặc; giày da cao cấp; sản xuất đồ gỗ; gỗ các loại và bột giấy; sản xuất VLXD;
chế
biến nông sản; bột ngọt; gốm sư cao cấp, thủy tinh, pha lê; bao bì chế biến, in
ấn…
Trong những năm gần đây, địa phương cũng đã chú trọng thu hút các lĩnh vực CN
có hàm lượng công nghệ cao như: Sản xuất cơ khí lắp ráp ; sản xuất linh kiện
điện
tử; CN chế tạo máy, ô tô, thiết bị phụ tùng; sản xuất dụng cụ y tế, quang học;
sản
xuất dược phẩm, mỹ phẩm, thuốc thú y…