Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Phong trào đấu tranh đòi quyền tham chính của phụ nữ ở Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến nay
2,861
81
112
2.2.1 Sự tham gia của phụ nữ Nhật Bản vào hoạt động soạn thảo Hiến
pháp năm 1946
Sự kiện rất đáng chú ý trong năm đầu tiên các nữ nghị sĩ thực hiện vai trò
của mình trong Quốc hội đó là sự tham gia vào quá trình xây dựng Hiến pháp. Với
tư cách là những đại diện đầu tiên của phụ nữ Nhật tại Quốc hội, ngay sau khi
trúng cử, 39 nữ nghị viên đã quan tâm sâu sắc và đóng góp tâm sức của mình vào
sự ra đời của bản Hiến pháp mới sau Chiến tranh. Trong quá trình tham gia vào
việc thiết lập Hiến pháp, phụ nữ Nhật đã thông qua nhiều biện pháp khác nhau để
đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ được quy định trong Hiến pháp mới.
Kỳ họp Quốc hội Nhật Bản lần thứ 90 được tổ chức từ ngày 16 tháng 5
năm 1946 với nội dung chính là bàn về việc cho ra đời Hiến pháp mới. Ngày 20
tháng 6, chính phủ mới đệ trình lên Quốc hội bản “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Đại
đế quốc Nhật Bản mới” (大日本帝国憲法改正案). Trong phiên họp Quốc hội đầu
tiên có sự góp mặt của các Đại biểu nữ, 39 nữ Đại biểu đã có sự tham gia một
cách
tích cực và nổi bật đối với sự ra đời của Hiến pháp mới.
Để có thể đóng góp ý kiến vào bản Hiến pháp mới, các nữ nghị sĩ đã thông
qua một phụ nữ trẻ tuổi tên là Beate Sirota Gordon - một trong 3 thành viên trực
tiếp chấp bút cho bản dự thảo Hiến pháp 1946. Trước sự tác động và tham gia ý
kiến của các nữ nghị sĩ, bà Beate Sirota Gordon đã đề xuất đưa vào Hiến pháp hai
điều khoản là Điều 14 mang tên “Bình đẳng dưới pháp luật – (法の下の平等) và
Điều 24 “Sự bình đẳng giữa hai giới và sự tôn trọng cá nhân trong sinh hoạt gia
đình (家庭の生活における個人の尊厳と両性の平等)” .
Cùng với đó, các nữ nghị sĩ cũng thông qua 6 nữ nghị sĩ là các thành viên
trong số 27 thành viên của Hội sửa đổi Hiến pháp để bày tỏ tâm tư nguyện vọng
của mình và cũng là của phụ nữ Nhật nói chung muốn gửi gắm vào văn kiện pháp
lý cao nhất của nước nhà.
Quá trình sửa đổi Hiến pháp Nhật năm 1946 là cuộc đấu tranh cam go giữa
các thế lực chính trị bảo thủ của Nhật Bản và các thế lực chính trị dân chủ của
GHQ. Bằng các biện pháp đấu tranh linh hoạt và mềm dẻo, nhưng cũng hết sức
kiên trì, các nữ nghị sĩ đã làm cho các điều khoản về quyền bình đẳng nam nữ,
các
vấn đề về đời sống sinh hoạt của người dân cũng trở thành các vấn đề được chú
trọng trong lần sửa đổi Hiến pháp này.
Về Điều 24 của Hiến pháp, nữ nghị viên Kato Shizue đã nêu rõ ý kiến của
mình là yêu cầu phá bỏ chế độ gia đình gia trưởng để xây dựng xã hội nam nữ bình
quyền, và có những lời lẽ lập luận đấu tranh mạnh mẽ để bảo vệ quan điểm này.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều các nữ nghị sĩ khác đã mạnh dạn đưa ra những ý kiến
của mình đóng góp vào bản Hiến pháp như bài phát biểu của Takeda Kiyo về việc
cần phải xem trọng vai trò làm mẹ của phụ nữ chứ không phải đóng khung cuộc
đời người phụ nữ chỉ trong vai trò “lương thê hiền mẫu”; hay là bài phát biểu về
yêu cầu Hiến pháp phải đảm bảo quyền tự do cho dân chúng của nữ nghị sĩ
Koshihara Haru…
Những đóng góp nêu trên của các nữ nghị sĩ đối với việc soạn thảo Hiến
pháp mới không chỉ cho thấy ở họ ý thứ trách nhiệm như những công dân của đất
nước, mà còn chứng tỏ họ đã làm tròn vai của những nữ Đại biểu đầu tiên của dân,
do dân bầu ra để tham gia vào Quốc hội – lĩnh vực mà họ chưa từng có kinh
nghiệm trước đó. Không để mặc cảm về thân phận phụ nữ cũng như sự thiếu hụt về
kinh nghiệm tham gia chính trường làm nhụt đi ý chí đấu tranh tham chính, ngược
lại họ tận dụng tất cả các cơ hội có thể đóng góp ý kiến, tâm sức của mình đối
vấn
đề soạn thảo Hiến pháp nói riêng và các vấn đề được luận bàn ở Quốc hội nói
chung. Sự xuất hiện của phụ nữ và tham gia sâu sắc của họ vào các vấn đề chính
trị
- lĩnh vực trước đó được coi là chỉ dành cho đàn ông, không phải ngay từ đầu đã
luôn nhận được sự ủng hộ của các nghị sĩ nam. Tuy vậy, bất chấp thái độ xem
thường của không ít các nghị sĩ nam và sự áp đảo của họ trong các Đảng chính
trị,
khi đã bước chân vào Quốc hội với tư cách là những người được nhân dân tin
tưởng bầu ra, các nữ nghị sĩ đã cố gắng để nêu lên tiếng nói của mình và cũng là
tâm tư nguyện vọng của phụ nữ Nhật Bản nói chung sau Chiến tranh. Người ta cho
rằng, nếu Hiến pháp Nhật Bản chỉ được soạn thảo bởi những đấng mày râu thì mặc
dù trong GHQ có sự đấu tranh giữa phái cải cách đối với phải bảo thủ đi chăng
nữa
thì vấn đề “Nam nữ bình đẳng” cũng khó có thể được chấp nhận để đưa vào như là
một phần của Hiến pháp. Có thể nói, các nữ nghị sĩ đã có vai trò quan trọng
trong
sự ra đời của Hiến pháp hiện đại Nhật Bản năm 1946. Hiến pháp mới 1946 ở Nhật
Bản được đánh giá là có nhiều điểm đổi mới, tiến bộ và dân chủ. Bản Hiến pháp
này được xem như là tiền đề, cơ sở để Nhật Bản bước sang một giai đoạn phát
triển
mới. Có được điều đó là nhờ một phần đóng góp không hề nhỏ của những người
phụ nữ đầu tiên bước chân vào Quốc hội. Hiến pháp 1946 cũng trở thành tiền đề về
mặt pháp lý để phụ nữ Nhật tiếp tục con đường đấu tranh đòi bình đẳng giới,
trong
đó có sự bình đẳng trong lĩnh vực chính trị.
Năm 1980, tại Đại hội phụ nữ thế giới được tổ chức tại Copenhagen – Đan
Mạch, chính phủ Nhật đã ký vào bản “Điều ước xóa bỏ bất bình đẳng đối với phụ
nữ”. Tiếp sau đó, với xu hướng toàn cầu hóa và tiêu chuẩn hóa các chính sách về
phụ nữ của Liên hợp quốc, Nhật Bản đã ban hành hàng loạt các điều luật, chính
sách mới tiến bộ đối với phụ nữ, tiêu biểu là “Luật bình đẳng về cơ hội việc làm
giữa nam và nữ” – nhằm đảm bảo bình đẳng về cơ hội được tham gia lao động
ngoài xã hội giữa hai phái. Trước xu hướng toàn cầu hóa các tiêu chuẩn về vấn đề
nữ quyền đã được ký kết tại Liên hợp quốc, chính phủ Nhật đã cải cách và ban
hành hàng loạt các chính sách liên quan đến phụ nữ trên như việc cải cách “Luật
hộ tịch” năm 1985 (Nội dung chính của lần cải cách này là chuyển từ “chủ nghĩa
huyết thống theo họ cha” sang “chủ nghĩa huyết thống theo họ cả cha và mẹ”,
nhằm xóa bỏ sự bất bình đẳng giới. Sau năm 1985 “Luật hộ tịch” ở Nhật còn có
thêm 1 lần cải cách nữa là vào năm 2008). Đỉnh cao của quá trình này là sự kiện
năm 1999, chính phủ Nhật ban hành “Luật cơ bản về quyền bình đẳng tham gia các
hoạt động xã hội nam nữ” (男女共同参画社会基本法) .Việc ra đời “Luật cơ bản
về quyền bình đẳng tham gia hoạt động xã hội nam nữ” này đã chứng tỏ sự bất
bình đẳng giới không còn tồn tại về mặt chế độ và pháp luật. Điều này trở thành
nguồn cổ vũ lớn lao cho các hoạt động đấu tranh của phụ nữ Nhật nhằm xóa bỏ sự
bất bình đẳng giới trên thực tế.
2.2.2 Các tổ chức đấu tranh đòi quyền tham chính phụ nữ Nhật Bản
sau Chiến tranh thế giới thứ hai và sự tham gia của phụ nữ vào chính quyền
địa phƣơng
Một đặc điểm nổi bật trong phong trào tham chính của phụ nữ Nhật sau
Chiến tranh thế giới thứ hai đó là hầu hết các phong trào đấu tranh tham chính
đều
bắt nguồn từ các vấn đề trong đời sống. Đặc biệt, quyền lợi chính trị trở thành
một
mục tiêu chủ đạo trong các hoạt động đấu tranh của phụ nữ Nhật và các tổ chức
của họ sau chiến tranh. Phụ nữ Nhật ý thức rõ rằng, chính trị đóng vai trò rất
quan
trọng trong việc cải thiện, giải quyết các vấn đề từ đời sống.
Sau Chiến tranh, Nhật Bản bước ra từ đống đổ nát với muôn vàn những
khó khăn, đặc biệt là những khó khăn thiếu thốn trong cuộc sống sinh hoạt. Tình
trạng lạm phát cùng với việc giá cả tăng chóng mặt đã làm cuộc sống của mỗi gia
đình trở nên vô cùng kham khổ. Hơn ai hết, phụ nữ Nhật là những người phải gánh
chịu nhiều nhất những khó khăn này. Mặt khác, sau Chiến tranh với tinh thần dân
chủ hóa từ công cuộc cải cách dân chủ của GHQ, rất nhiều các phong trào đấu
tranh trên nhiều lĩnh vực của người dân Nhật đã được tiến hành. Do đó, các phong
trào đấu tranh chính trị có khởi nguồn hoặc gắn liền với các lợi ích kinh tế là
một
trong những đặc trưng lớn của phong trào tham chính của phụ nữ Nhật sau Chiến
tranh. Những người phụ nữ Nhật có cùng chung những nỗi khó khăn và bức xúc
trong cuộc sống sau Chiến tranh đã tập hợp nhau lại trong các tổ chức của phụ nữ
để cùng tham gia đấu tranh tham chính.
Sự ra đời và phát triển của Hội liên hiệp phụ nữ (1948 - )
Nhắc tới phong trào tham chính của phụ nữ Nhật sau Chiến tranh thế giới
thứ hai không thể không nhắc đến tổ chức Hội liên hiệp phụ nữ (主婦連合会- từ
đây người viết gọi tắt là Hội liên hiệp). Ra đời tháng 10 năm 1948 với vai trò
đề
xướng của Oku Mumeo, Hội liên hiệp phụ nữ trở thành tổ chức thống nhất toàn
quốc của phụ nữ Nhật sau Chiến tranh mà nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời
của Hội là từ một phong trào đấu tranh vì quyền lợi kinh tế. Năm 1948 nhằm phản
đối nhà sản xuất đưa ra tiêu thụ sản phẩm diêm kém chất lượng, đông đảo phụ nữ ở
Tokyo đã đứng lên đấu tranh đòi nhà sản xuất phải đổi lại cho họ số lượng diêm
kém chất lượng đã mua (họ thống nhất với nhau diêm kém chất lượng là những
hộp mà có từ 5 que không cháy được trở lên). Cuộc đấu tranh nhằm vào mục đích
thiết thực, phục vụ cho đời sống như trên đã tập hợp được đông đảo chị em phụ
nữ.
Từ yêu cầu đổi diêm, phong trào đã mở rộng mục tiêu đấu tranh, coi đây là cơ hội
để kiện những người quản lý kinh tế đã không thực hiện tốt vai trò của mình nên
để
dẫn tới những thiệt thòi, khốn khó cho phụ nữ vì diêm kém chất lượng. Do vậy,
xuất phát từ bức xúc khi mua phải diêm kém chất lượng, phụ nữ tập hợp nhau lại,
đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế cho mình, nhưng sau đó phong trào ngày càng mở
rộng, chuyển sang mục tiêu đấu tranh chính trị với chính quyền bởi cơ chế quản
lý
bất hợp lý làm ảnh hưởng tới đời sống của phụ nữ nói riêng và người dân Nhật Bản
nói chung.
Các hoạt động đấu tranh của Hội liên hiệp không chỉ tác động mạnh mẽ tới
giới doanh nghiệp – là những nhà sản xuất cung cấp các sản phẩm phục vụ đời
sống của người dân, mà còn có sức ảnh hưởng tới hệ thống chính trị Nhật Bản. Ở
Nhật Bản lúc bấy giờ, diêm được phân phối về các tỉnh để bán cho dân. Dưới sức
ép từ các phong trào đấu tranh như trên của phụ nữ Nhật, trong đó có vai trò
nòng
cốt của Hội liên hiệp, mặc dù Sở Công thương ở mỗi tỉnh đã phải vào cuộc để định
giá sản phẩm diêm, nhưng GHQ vẫn thực hiện các biện pháp giám sát chặt chẽ từ
giá ở khâu nhập nguyên liệu để từ đó tính toán giá sản phẩm diêm.
Qua đây có thể thấy, phong trào đấu tranh phản đối diêm kém chất lượng
của phụ nữ Nhật không chỉ nhằm mục đích để đổi được các sản phẩm diêm chất
lượng tốt hơn mà còn coi đó là một cơ hội để phụ nữ thể hiện sự bức xúc với tư
cách là những người tiêu dùng một cách có tổ chức. Từ đó, phụ nữ đã buộc chính
phủ và các cơ quan hành chính ở các địa phương phải vào cuộc quản lý chất lượng
cũng như giá cả của sản phẩm thiết yếu này.
Có thể thấy mục tiêu ban đầu của tổ chức là tập hợp sức mạnh của phụ nữ
đấu tranh nhằm đảm bảo đời sống như bài trừ hàng kém chất lượng, giảm giá các
nhu yếu phẩm…, nhưng trong quá trình tồn tại tổ chức đã trở thành nơi để phụ nữ
thông qua đó đấu tranh giành quyền tham chính. Cùng với phong trào phản đối sản
phẩm diêm kém chất lượng, các phong trào đấu tranh phản đối tăng giá gạo, tăng
giá sữa và các nhu yếu phẩm khác cũng được Hội liên hiệp tổ chức, thu hút đông
đảo phụ nữ tham gia.
Tháng 8 năm 1949, phiên thẩm nghị về giá gạo được tổ chức và Oku
Mumeo - Hội trưởng Hội liên hiệp phụ nữ được chỉ định vào vị trí Ủy viên trong
phiên thẩm nghị này. Từ đó, trong các phiên họp về vấn đề giá gạo ở Quốc hội hay
ở chính quyền địa phương, thậm chí trong các cuộc họp của giới chuyên môn hay
trong các cuộc điều tra… đều có các thành viên của Hội liên hiệp được cử tới
tham
dự. Theo tài liệu thống kê của Hội liên hiệp phụ nữ năm 1961: cho đến năm 1961,
đã có 29 thành viên của Hội liên hiệp tham dự vào các cuộc họp được tổ chức ở
trung ươngvà ở các địa phương.
Những thành viên Hội liên hiệp khi tham gia vào những cuộc họp về các
vấn đề liên quan tới đời sống được tổ chức ở chính quyền địa phương như trên đã
thực hiện hai nhiệm vụ chính: Thông qua việc duy trì hoạt động đấu tranh đòi
quyền lợi về mặt kinh tế - xã hội, họ giành lấy các vị trí trong hệ thống chính
trị (cả
trung ương lẫn địa phương). Đồng thời, khi đã giành được vị trí trong hệ thống
chính trị, để những ý kiến, yêu cầu của mình được chấp thuận, họ tiếp tục khích
lệ
các phong trào đấu tranh. Để thấy rõ điều này, chúng ta cùng nhìn lại sự tham
gia
của Hội liên hiệp trong 2 sự kiện sau đây.
Trước hết là sự tham gia của Hội liên hiệp với tư cách là người tiêu dùng
trong phiên họp về việc “Sửa đổi pháp lệnh liên quan đến điện và gas”. Năm 1951,
để đòi tăng lương cho công nhân, công đoàn ngành điện đã tổ chức một cuộc đình
công kéo dài 60 ngày. Cuộc đình công của công nhân nói trên dẫn tới sự cố mất
điện kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống sinh hoạt và sản xuất. Trước tình
trạng này, Hội liên hiệp đã tổ chức phong trào đấu tranh không chỉ nhằm mục tiêu
không thanh toán tiền điện trong thời gian 60 ngày đó, mà còn bày tỏ sự bức xúc
với tư cách là những người dân tiêu dùng điện năng nay phải chịu ảnh hưởng nặng
nề do sự cố này gây ra. Trước áp lực đấu tranh của người dân mà vai trò trung
tâm
là Hội liên hiệp, ngành điện đã phải giải quyết bằng cách ký thỏa thuận cung cấp
dịch vụ với người tiêu dùng, và Hội liên hiệp được lựa chọn tham gia phiên họp
về
việc sửa đối pháp lệnh liên quan đến điện và gas vào năm 1951 của Quốc hội với
tư cách đại diện cho người tiêu dùng. Như vậy, thông qua phong trào đấu tranh
đòi các quyền lợi gắn liền với đời sống, Hội liên hiệp đã giành được vị trí
trong
Quốc hội để tham gia xây dựng, ban hành các quyết sách quan trọng của Nhà
nước.
Mặt khác, một dẫn chứng tiêu biểu cho việc phát động các hoạt động đấu
tranh để tiếng nói của đại diện Hội liên hiệp trở nên có trọng lượng hơn trong
các
phiên họp của chính quyền, đó là phong trào phản đối việc tăng phí sử dụng nhà
tắm công cộng mà Hội liên hiệp triển khai từ năm 1948. Để tăng sức thuyết phục
của luận điểm phản đối việc tăng phí sử dụng nhà tắm công cộng do đại diện Hội
liên hiệp trình bày trong phiên họp về vấn đề này tại chính quyền Tokyo, các
thành
viên Hội liên hiệp đã cắt cử người đến tận từng nhà tắm công cộng để thực hiện
điều tra và tuyên truyền để tranh thủ sự đồng tình của quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, Hiệp hội còn tổ chức nhiều các hoạt động khác với tư cách là
những người tiêu dùng trong xã hội. Sau khi thành lập được nửa năm, vào tháng 3
năm 1949 Hội liên hiệp triển khai hoạt động tuyển chọn các “cửa hàng dành cho
phụ nữ”, khuyến khích chị em phụ nữ mua hàng ở những cửa hàng này như một
phương pháp đấu tranh đòi các cửa hiệu phải bán đúng giá. Đến năm 1959 Hội liên
hiệp liên kết với các tổ chức của tiêu dùng khác để thành lập “Ban kiểm tra các
nhu
yếu phẩm hàng ngày” (日用品番検部) để góp phần siết chặt vấn đề quản lý chất
lượng sản phẩm. Từ năm 1955 Hội liên hiệp tổ chức hoạt động đấu tranh mang tên
“Sữa 10 yên” nhằm yêu cầu bình ổn giá sữa. Với việc tổ chức các những hoạt động
đấu tranh như trên, phụ nữ Nhật hướng đến mục tiêu xã hội hóa các vấn đề khó
khăn trong đời sống, đòi hỏi sự can thiệp của chính quyền để giải quyết các khó
khăn trên. Nói cách khác, ở một góc độ nào đó. “Hội liên hiệp phụ nữ” chính là
hội
của những người tiêu dùng nhưng mục tiêu của các hoạt động đấu tranh do Hội
liên hiệp thực hiện không chỉ được giới hạn ở mức độ giải quyết trước mắt các
vấn
đề người tiêu dùng gặp phải mà còn nhằm tác động một cách trực tiếp tới quá
trành
ban hành các chính sách. Nghĩa là bằng việc tham gia Hội liên hiệp, phụ nữ Nhật
không chỉ được đấu tranh đòi các mục tiêu kinh tế trước mắt mà còn được đấu
tranh tham gia chính trị.
Tóm lại, bắt đầu bằng việc đấu tranh đòi hạ giá các sản phẩm thiết yếu, Hội
liên hiệp – cũng chính là những người tiêu dùng đã sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau đấu tranh giành quyền tham chính. Thông qua các hoạt động đấu tranh
nêu trên, Hội liên hiệp đã nâng cao sự quan tâm của chị em phụ nữ đối với chính
trị, đồng thời Hội liên hiệp cũng tạo điều kiện để những phụ nữ đã giành được
những vị trí trong nền chính trị phát huy năng lực hoạt động chính trị của
mình..
Bởi lẽ đó, nhận thức chính trị của phụ nữ Nhật sau chiến tranh đã thay đổi rõ
rệt.
Họ nhận thấy sự gắn kết chặt chẽ giữa chính trị và đời sống, nên tham gia chính
trị
là một nhu cầu thiết yếu. Chính từ sự thay đổi trong nhận thức và khát vọng được
tham gia vào các vấn đề chính trị để cải thiện đời sống đã giúp phụ nữ Nhật Bản
nâng dần vị trí và vai trò của họ trên trường chính trị.
Câu lạc bộ đời sống (1968 - )
“Câu lạc bộ đời sống hiệp hội cộng đồng đời sống” (生活クラブ生活協同
組合- từ đây người viết gọi tắt là “Câu lạc bộ”) được thành lập năm 1968 tại quận
Setagaya của thủ đô Tokyo với điểm xuất phát ban đầu từ Tổ chức “Hiệp hội sữa
bò” (牛乳の共同購入 ) thành lập năm 1965. Sau khi thành lập tại Tokyo, “Câu
lạc bộ” đã mở rộng phạm vi hoạt động của mình và gây dựng nhiều chi bộ ở các
địa phương.
Thời điểm những năm 60 của thế kỷ XX, Nhật Bản đang trong thời kỳ phát
triển kinh tế cao độ. Cùng với sự gia tăng nhanh chóng việc sử dụng các thiết bị
điện tử trong các gia đình, cơ cấu bữa ăn trong các gia đình Nhật cũng được cũng
thay đổi mà điển hình là sự xuất hiện phổ biến của sữa bò trong các khẩu phần
ăn.
Do vậy vấn đề giá sữa trở thành một vấn đề rất được các bà nội trợ quan tâm vào
thời bấy giờ.
Từ bối cảnh nêu trên, có thể thấy mục đích thành lập ban đầu của tổ chức là
để thực hiện các phong trào đấu tranh về kinh tế - xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi
của những người tiêu dùng mà chủ yếu là những người phụ nữ, để họ được mua
hàng chất lượng tốt với giá cả hợp lý. Cùng là những tổ chức do phụ nữ Nhật lập
nên, kết hợp đấu tranh giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu chính trị, nhưng so với
Hội liên hiệp, Câu lạc bộ là một tổ chức rộng lớn hơn, thu hút được sự tham gia
và
quan tâm của đông đảo quần chúng nhân – những người quan tâm tới các vấn đề
của đời sống.
Từ nửa sau thập niên 1980, có hai phong trào lớn diễn ra tại thủ đô Tokyo
bắt đầu từ các hoạt động đấu tranh phi chính trị của Câu lạc bộ. Đó là hai phong
trào đấu tranh đòi quy định điều khoản về an toàn thực phẩm và về vấn đề tái
chế.
Triển khai các phong trào này không phải chỉ có các thành viên của Câu lạc bộ là
người có vị trí trong bộ máy chính quyền địa phương mà có sự góp sức của các ủy
viên chi bộ của Câu lạc bộ ở các địa phương. Những phụ nữ tham gia đấu tranh ý
thức được rằng, cần phải mở rộng phạm vi đấu tranh để giải quyết các vấn đề mà
thông qua phong trào trong nội bộ Câu lạc bộ chưa giải quyết được. Nghĩa là phụ
nữ muốn biến những yêu cầu đòi hỏi của phụ nữ trong cuộc sống thường ngày trở
thành tiếng nói chung của nhân dân, yêu cầu phải được chính quyền giải quyết từ
góc độ chính trị. Với cách làm này, phụ nữ Tokyo tham gia Câu lạc bộ đời sống đã
tự coi mình là các nhà hoạt động chính trị ở địa phương. Ví dụ, với phong trào
đấu
tranh đòi quy định điều khoản về thực phẩm an toàn, phụ nữ chủ trương không chỉ
đấu tranh nhằm đảm bảo sức khỏe, tính mạng của riêng mình mà còn vì sinh mệnh
của tất cả người dân thành phố, do đó vấn đề an toàn thực phẩm không còn là vấn
đề của đời sống mà là vấn đề chính trị. Hay ở phong trào đấu tranh đòi tái chế
rác
thải, với khẩu hiệu “Rác thải là nguồn tài nguyên”, phụ nữ muốn làm thay đổi
cách
suy nghĩ của mọi người và của chính quyền với rác thải.
Mặc dù là một tổ chức phi chính trị song sự thành lập của “Câu lạc bộ” đã
quy tụ được đông đảo những chị em phụ nữ nội trợ trong các gia đình với cùng
một mục tiêu chung là đấu tranh vì quyền lợi của người tiêu dùng, đưa những khó
khăn mà phụ nữ gặp phải trong đời sống trở thành những vấn đề tồn tại trong xã
hội. Khi tham gia Câu lạc bộ, những người vợ, người mẹ nội trợ không còn phải
đơn độc đối diện với những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, mà họ hiểu rằng,
khó khăn họ gặp phải cũng chính là những vấn đề đang tồn tại của xã hội. Vì vậy,