Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Phong trào đấu tranh đòi quyền tham chính của phụ nữ ở Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến nay

2,861
81
112
2.2.1 S tham gia ca ph n Nht Bn vào hoạt động son tho Hiến
pháp năm 1946
S kin rất đáng chú ý trong năm đầu tiên các n ngh sĩ thực hin vai trò
ca mình trong Quc hội đó là sự tham gia vào quá trình xây dng Hiến pháp. Vi
cách là những đại diện đầu tiên ca ph n Nht ti Quc hi, ngay sau khi
trúng c, 39 n ngh viên đã quan tâm sâu sắc và đóng góp tâm sức ca mình vào
s ra đời ca bn Hiến pháp mi sau Chiến tranh. Trong quá trình tham gia vào
vic thiết lp Hiến pháp, ph n Nhật đã thông qua nhiu biện pháp khác nhau để
đảm bo quyền bình đẳng nam n được quy định trong Hiến pháp mi.
K hp Quc hi Nht Bn ln th 90 được t chc t ngày 16 tháng 5
năm 1946 với ni dung chính bàn v việc cho ra đời Hiến pháp mi. Ngày 20
tháng 6, chính ph mới đệ trình lên Quc hi bản “Dự tho sửa đi Hiến pháp Đại
đế quc Nht Bn mới” (大日本帝国憲法改正案). Trong phiên hp Quc hội đầu
tiên có s góp mt của các Đại biu n, 39 n Đại biểu đã có sự tham gia mt cách
tích cc và ni bật đối vi s ra đời ca Hiến pháp mi.
Để có th đóng góp ý kiến vào bn Hiến pháp mi, các n ngh sĩ đã thông
qua mt ph n tr tui tên là Beate Sirota Gordon - mt trong 3 thành viên trc
tiếp chp bút cho bn d tho Hiến pháp 1946. Trước s tác động tham gia ý
kiến ca các n ngh sĩ, bà Beate Sirota Gordon đã đề xuất đưa vào Hiến pháp hai
điu khoản Điều 14 mang tên “Bình đẳng dưới pháp lut (法の下の平等)
Điều 24 “Sự bình đẳng gia hai gii s tôn trng nhân trong sinh hot gia
đình (家庭の生活における個人の尊厳と両性の平等)” .
Cùng với đó, các nữ ngh sĩ cũng thông qua 6 nữ ngh sĩ là các thành viên
trong s 27 thành viên ca Hi sửa đổi Hiến pháp để bày t tâm nguyện vng
2.2.1 Sự tham gia của phụ nữ Nhật Bản vào hoạt động soạn thảo Hiến pháp năm 1946 Sự kiện rất đáng chú ý trong năm đầu tiên các nữ nghị sĩ thực hiện vai trò của mình trong Quốc hội đó là sự tham gia vào quá trình xây dựng Hiến pháp. Với tư cách là những đại diện đầu tiên của phụ nữ Nhật tại Quốc hội, ngay sau khi trúng cử, 39 nữ nghị viên đã quan tâm sâu sắc và đóng góp tâm sức của mình vào sự ra đời của bản Hiến pháp mới sau Chiến tranh. Trong quá trình tham gia vào việc thiết lập Hiến pháp, phụ nữ Nhật đã thông qua nhiều biện pháp khác nhau để đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ được quy định trong Hiến pháp mới. Kỳ họp Quốc hội Nhật Bản lần thứ 90 được tổ chức từ ngày 16 tháng 5 năm 1946 với nội dung chính là bàn về việc cho ra đời Hiến pháp mới. Ngày 20 tháng 6, chính phủ mới đệ trình lên Quốc hội bản “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Đại đế quốc Nhật Bản mới” (大日本帝国憲法改正案). Trong phiên họp Quốc hội đầu tiên có sự góp mặt của các Đại biểu nữ, 39 nữ Đại biểu đã có sự tham gia một cách tích cực và nổi bật đối với sự ra đời của Hiến pháp mới. Để có thể đóng góp ý kiến vào bản Hiến pháp mới, các nữ nghị sĩ đã thông qua một phụ nữ trẻ tuổi tên là Beate Sirota Gordon - một trong 3 thành viên trực tiếp chấp bút cho bản dự thảo Hiến pháp 1946. Trước sự tác động và tham gia ý kiến của các nữ nghị sĩ, bà Beate Sirota Gordon đã đề xuất đưa vào Hiến pháp hai điều khoản là Điều 14 mang tên “Bình đẳng dưới pháp luật – (法の下の平等) và Điều 24 “Sự bình đẳng giữa hai giới và sự tôn trọng cá nhân trong sinh hoạt gia đình (家庭の生活における個人の尊厳と両性の平等)” . Cùng với đó, các nữ nghị sĩ cũng thông qua 6 nữ nghị sĩ là các thành viên trong số 27 thành viên của Hội sửa đổi Hiến pháp để bày tỏ tâm tư nguyện vọng
của mình và cũng là của ph n Nht nói chung mun gi gắm vào văn kiện pháp
lý cao nht của nước nhà.
Quá trình sửa đổi Hiến pháp Nhật năm 1946 là cuộc đấu tranh cam go gia
các thế lc chính tr bo th ca Nht Bn các thế lc chính tr dân ch ca
GHQ. Bng các biện pháp đấu tranh linh hot mm dẻo, nhưng cũng hết sc
kiên trì, các n ngh sĩ đã làm cho các điều khon v quyền bình đẳng nam n, các
vấn đề v đời sng sinh hot của người dân cũng tr thành các vấn đề đưc chú
trng trong ln sửa đổi Hiến pháp này.
V Điu 24 ca Hiến pháp, n ngh viên Kato Shizue đã nêu rõ ý kiến ca
mình là yêu cu phá b chế độ gia đình gia trưởng để xây dng xã hi nam n bình
quyn, và nhng li l lp luận đấu tranh mnh m để bo v quan điểm này.
Bên cạnh đó còn có rất nhiu các n ngh sĩ khác đã mạnh dạn đưa ra những ý kiến
của mình đóng góp vào bn Hiến pháp như bài phát biểu ca Takeda Kiyo v vic
cn phi xem trng vai trò làm m ca ph n ch không phải đóng khung cuộc
đời người ph n ch trong vai trò “lương thê hin mẫu”; hay là bài phát biu v
yêu cu Hiến pháp phải đảm bo quyn t do cho dân chúng ca n ngh
Koshihara Haru…
Những đóng góp nêu trên của các n ngh đối vi vic son tho Hiến
pháp mi không ch cho thy h ý th trách nhiệm như những công dân của đất
c, mà còn chng t h đã làm tròn vai của nhng n Đại biểu đầu tiên ca dân,
do dân bầu ra để tham gia vào Quc hi lĩnh vực h chưa từng kinh
nghiệm trước đó. Không để mc cm v thân phn ph n cũng như sự thiếu ht v
kinh nghiệm tham gia chính trưng làm nhụt đi ý chí đấu tranh tham chính, ngược
li h tn dng tt c các cơ hội có th đóng góp ý kiến, tâm sc của mình đối vn
đề son tho Hiến pháp nói riêng các vấn đề đưc lun bàn Quc hi nói
chung. S xut hin ca ph n và tham gia sâu sc ca h vào các vấn đề chính tr
- nh vực trước đó được coi ch dành cho đàn ông, không phải ngay t đầu đã
của mình và cũng là của phụ nữ Nhật nói chung muốn gửi gắm vào văn kiện pháp lý cao nhất của nước nhà. Quá trình sửa đổi Hiến pháp Nhật năm 1946 là cuộc đấu tranh cam go giữa các thế lực chính trị bảo thủ của Nhật Bản và các thế lực chính trị dân chủ của GHQ. Bằng các biện pháp đấu tranh linh hoạt và mềm dẻo, nhưng cũng hết sức kiên trì, các nữ nghị sĩ đã làm cho các điều khoản về quyền bình đẳng nam nữ, các vấn đề về đời sống sinh hoạt của người dân cũng trở thành các vấn đề được chú trọng trong lần sửa đổi Hiến pháp này. Về Điều 24 của Hiến pháp, nữ nghị viên Kato Shizue đã nêu rõ ý kiến của mình là yêu cầu phá bỏ chế độ gia đình gia trưởng để xây dựng xã hội nam nữ bình quyền, và có những lời lẽ lập luận đấu tranh mạnh mẽ để bảo vệ quan điểm này. Bên cạnh đó còn có rất nhiều các nữ nghị sĩ khác đã mạnh dạn đưa ra những ý kiến của mình đóng góp vào bản Hiến pháp như bài phát biểu của Takeda Kiyo về việc cần phải xem trọng vai trò làm mẹ của phụ nữ chứ không phải đóng khung cuộc đời người phụ nữ chỉ trong vai trò “lương thê hiền mẫu”; hay là bài phát biểu về yêu cầu Hiến pháp phải đảm bảo quyền tự do cho dân chúng của nữ nghị sĩ Koshihara Haru… Những đóng góp nêu trên của các nữ nghị sĩ đối với việc soạn thảo Hiến pháp mới không chỉ cho thấy ở họ ý thứ trách nhiệm như những công dân của đất nước, mà còn chứng tỏ họ đã làm tròn vai của những nữ Đại biểu đầu tiên của dân, do dân bầu ra để tham gia vào Quốc hội – lĩnh vực mà họ chưa từng có kinh nghiệm trước đó. Không để mặc cảm về thân phận phụ nữ cũng như sự thiếu hụt về kinh nghiệm tham gia chính trường làm nhụt đi ý chí đấu tranh tham chính, ngược lại họ tận dụng tất cả các cơ hội có thể đóng góp ý kiến, tâm sức của mình đối vấn đề soạn thảo Hiến pháp nói riêng và các vấn đề được luận bàn ở Quốc hội nói chung. Sự xuất hiện của phụ nữ và tham gia sâu sắc của họ vào các vấn đề chính trị - lĩnh vực trước đó được coi là chỉ dành cho đàn ông, không phải ngay từ đầu đã
luôn nhận được s ng h ca các ngh nam. Tuy vậy, bt chấp thái độ xem
thưng ca không ít các ngh nam và sự áp đảo ca h trong các Đảng chính tr,
khi đã c chân vào Quc hi vi tư cách những người được nhân dân tin
ng bu ra, các n ngh đã cố gắng để nêu lên tiếng nói của mình và cũng
tâm tư nguyện vng ca ph n Nht Bn nói chung sau Chiến tranh. Người ta cho
rng, nếu Hiến pháp Nht Bn ch đưc son tho bi nhng đấng mày râu thì mc
dù trong GHQ có s đấu tranh gia phái cải cách đối vi phi bo th đi chăng nữa
thì vấn đề “Nam nữ bình đẳng” cũng khó có thể đưc chp nhận để đưa vào như là
mt phn ca Hiến pháp. Có th nói, các n ngh đã có vai trò quan trọng trong
s ra đời ca Hiến pháp hiện đại Nht Bản năm 1946. Hiến pháp mi 1946 Nht
Bản được đánh giá nhiều điểm đổi mi, tiến b dân ch. Bn Hiến pháp
này được xem như là tiền đề, cơ sở để Nht Bản bước sang một giai đoạn phát trin
mi. Có được điều đó nhờ mt phần đóng góp không hề nh ca những người
ph n đầu tiên bước chân vào Quc hi. Hiến pháp 1946 cũng trở thành tiền đề v
mặt pháp lý để ph n Nht tiếp tục con đường đấu tranh đòi bình đẳng gii, trong
đó có sự bình đẳng trong lĩnh vc chính tr.
Năm 1980, tại Đại hi ph n thế giới được t chc ti Copenhagen Đan
Mch, chính ph Nhật đã ký vào bản “Điều ước xóa b bất bình đẳng đối vi ph
nữ”. Tiếp sau đó, với xu hướng toàn cu hóa tiêu chun hóa các chính sách v
ph n ca Liên hp quc, Nht Bản đã ban hành hàng loạt các điều lut, chính
sách mi tiến b đối vi ph n, tiêu biểu “Luật bình đẳng v hội vic làm
gia nam n nhằm đảm bảo nh đẳng v hội được tham gia lao động
ngoài xã hi gia hai phái. Trước xu hướng toàn cu hóa các tiêu chun v vấn đề
n quyền đã được kết ti Liên hp quc, chính ph Nhật đã cải cách ban
hành hàng loạt các chính sách liên quan đến ph n trên như việc cải cách “Luật
h tch” năm 1985 (Nội dung chính ca ln ci cách này chuyn t “chủ nghĩa
huyết thng theo h cha” sang “chủ nghĩa huyết thng theo h c cha mẹ”,
luôn nhận được sự ủng hộ của các nghị sĩ nam. Tuy vậy, bất chấp thái độ xem thường của không ít các nghị sĩ nam và sự áp đảo của họ trong các Đảng chính trị, khi đã bước chân vào Quốc hội với tư cách là những người được nhân dân tin tưởng bầu ra, các nữ nghị sĩ đã cố gắng để nêu lên tiếng nói của mình và cũng là tâm tư nguyện vọng của phụ nữ Nhật Bản nói chung sau Chiến tranh. Người ta cho rằng, nếu Hiến pháp Nhật Bản chỉ được soạn thảo bởi những đấng mày râu thì mặc dù trong GHQ có sự đấu tranh giữa phái cải cách đối với phải bảo thủ đi chăng nữa thì vấn đề “Nam nữ bình đẳng” cũng khó có thể được chấp nhận để đưa vào như là một phần của Hiến pháp. Có thể nói, các nữ nghị sĩ đã có vai trò quan trọng trong sự ra đời của Hiến pháp hiện đại Nhật Bản năm 1946. Hiến pháp mới 1946 ở Nhật Bản được đánh giá là có nhiều điểm đổi mới, tiến bộ và dân chủ. Bản Hiến pháp này được xem như là tiền đề, cơ sở để Nhật Bản bước sang một giai đoạn phát triển mới. Có được điều đó là nhờ một phần đóng góp không hề nhỏ của những người phụ nữ đầu tiên bước chân vào Quốc hội. Hiến pháp 1946 cũng trở thành tiền đề về mặt pháp lý để phụ nữ Nhật tiếp tục con đường đấu tranh đòi bình đẳng giới, trong đó có sự bình đẳng trong lĩnh vực chính trị. Năm 1980, tại Đại hội phụ nữ thế giới được tổ chức tại Copenhagen – Đan Mạch, chính phủ Nhật đã ký vào bản “Điều ước xóa bỏ bất bình đẳng đối với phụ nữ”. Tiếp sau đó, với xu hướng toàn cầu hóa và tiêu chuẩn hóa các chính sách về phụ nữ của Liên hợp quốc, Nhật Bản đã ban hành hàng loạt các điều luật, chính sách mới tiến bộ đối với phụ nữ, tiêu biểu là “Luật bình đẳng về cơ hội việc làm giữa nam và nữ” – nhằm đảm bảo bình đẳng về cơ hội được tham gia lao động ngoài xã hội giữa hai phái. Trước xu hướng toàn cầu hóa các tiêu chuẩn về vấn đề nữ quyền đã được ký kết tại Liên hợp quốc, chính phủ Nhật đã cải cách và ban hành hàng loạt các chính sách liên quan đến phụ nữ trên như việc cải cách “Luật hộ tịch” năm 1985 (Nội dung chính của lần cải cách này là chuyển từ “chủ nghĩa huyết thống theo họ cha” sang “chủ nghĩa huyết thống theo họ cả cha và mẹ”,
nhm xóa b s bất bình đng giới. Sau năm 1985 “Luật h tịch” Nht còn
thêm 1 ln ci cách nữa vào năm 2008). Đỉnh cao ca quá trình này s kin
năm 1999, chính phủ Nhật ban hành “Luật cơ bản v quyền bình đẳng tham gia các
hoạt động hi nam nữ” (男女共同参画社会基本法) .Việc ra đời “Luật bản
v quyền bình đẳng tham gia hoạt động hi nam nữ” này đã chứng t s bt
bình đẳng gii không còn tn ti v mt chế độ pháp luật. Điều này tr thành
ngun c vũ ln lao cho các hoạt động đấu tranh ca ph n Nht nhm xóa b s
bất bình đẳng gii trên thc tế.
2.2.2 Các t chức đấu tranh đòi quyền tham chính ph n Nht Bn
sau Chiến tranh thế gii th hai và s tham gia ca ph n vào chính quyn
địa phƣơng
Một đặc điểm ni bt trong phong trào tham chính ca ph n Nht sau
Chiến tranh thế gii th hai đó là hầu hết các phong trào đấu tranh tham chính đều
bt ngun t các vấn đề trong đời sống. Đặc bit, quyn li chính tr tr thành mt
mc tiêu ch đạo trong các hoạt động đấu tranh ca ph n Nht các t chc
ca h sau chiến tranh. Ph n Nht ý thc rõ rng, chính tr đóng vai trò rất quan
trng trong vic ci thin, gii quyết các vấn đề t đời sng.
Sau Chiến tranh, Nht Bản bước ra t đống đổ nát vi muôn vàn nhng
khó khăn, đc bit là những khó khăn thiếu thn trong cuc sng sinh hot. Tình
trng lm phát cùng vi vic giá c tăng chóng mặt đã làm cuộc sng ca mi gia
đình trở nên vô cùng kham khổ. Hơn ai hết, ph n Nht là những người phi gánh
chu nhiu nht những khó khăn này. Mặt khác, sau Chiến tranh vi tinh thn dân
ch hóa t công cuc ci cách dân ch ca GHQ, rt nhiều các phong trào đấu
tranh trên nhiều lĩnh vực của người dân Nhật đã được tiến hành. Do đó, các phong
trào đấu tranh chính tr khi ngun hoc gn lin vi các li ích kinh tế là mt
trong những đặc trưng lớn ca phong trào tham chính ca ph n Nht sau Chiến
tranh. Những người ph n Nht cùng chung nhng nỗi khó khăn bức xúc
nhằm xóa bỏ sự bất bình đẳng giới. Sau năm 1985 “Luật hộ tịch” ở Nhật còn có thêm 1 lần cải cách nữa là vào năm 2008). Đỉnh cao của quá trình này là sự kiện năm 1999, chính phủ Nhật ban hành “Luật cơ bản về quyền bình đẳng tham gia các hoạt động xã hội nam nữ” (男女共同参画社会基本法) .Việc ra đời “Luật cơ bản về quyền bình đẳng tham gia hoạt động xã hội nam nữ” này đã chứng tỏ sự bất bình đẳng giới không còn tồn tại về mặt chế độ và pháp luật. Điều này trở thành nguồn cổ vũ lớn lao cho các hoạt động đấu tranh của phụ nữ Nhật nhằm xóa bỏ sự bất bình đẳng giới trên thực tế. 2.2.2 Các tổ chức đấu tranh đòi quyền tham chính phụ nữ Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và sự tham gia của phụ nữ vào chính quyền địa phƣơng Một đặc điểm nổi bật trong phong trào tham chính của phụ nữ Nhật sau Chiến tranh thế giới thứ hai đó là hầu hết các phong trào đấu tranh tham chính đều bắt nguồn từ các vấn đề trong đời sống. Đặc biệt, quyền lợi chính trị trở thành một mục tiêu chủ đạo trong các hoạt động đấu tranh của phụ nữ Nhật và các tổ chức của họ sau chiến tranh. Phụ nữ Nhật ý thức rõ rằng, chính trị đóng vai trò rất quan trọng trong việc cải thiện, giải quyết các vấn đề từ đời sống. Sau Chiến tranh, Nhật Bản bước ra từ đống đổ nát với muôn vàn những khó khăn, đặc biệt là những khó khăn thiếu thốn trong cuộc sống sinh hoạt. Tình trạng lạm phát cùng với việc giá cả tăng chóng mặt đã làm cuộc sống của mỗi gia đình trở nên vô cùng kham khổ. Hơn ai hết, phụ nữ Nhật là những người phải gánh chịu nhiều nhất những khó khăn này. Mặt khác, sau Chiến tranh với tinh thần dân chủ hóa từ công cuộc cải cách dân chủ của GHQ, rất nhiều các phong trào đấu tranh trên nhiều lĩnh vực của người dân Nhật đã được tiến hành. Do đó, các phong trào đấu tranh chính trị có khởi nguồn hoặc gắn liền với các lợi ích kinh tế là một trong những đặc trưng lớn của phong trào tham chính của phụ nữ Nhật sau Chiến tranh. Những người phụ nữ Nhật có cùng chung những nỗi khó khăn và bức xúc
trong cuc sng sau Chiến tranh đã tp hp nhau li trong các t chc ca ph n
để cùng tham gia đấu tranh tham chính.
S ra đời và phát trin ca Hi liên hip ph n (1948 - )
Nhc ti phong trào tham chính ca ph n Nht sau Chiến tranh thế gii
th hai không th không nhắc đến t chc Hi liên hip ph n (主婦連合会- t
đây ngưi viết gi tt Hi liên hiệp). Ra đời tháng 10 năm 1948 với vai trò đề
ng ca Oku Mumeo, Hi liên hip ph n tr thành t chc thng nht toàn
quc ca ph n Nht sau Chiến tranh mà nguyên nhân trc tiếp dẫn đến s ra đời
ca Hi là t một phong trào đấu tranh vì quyn li kinh tế. Năm 1948 nhm phn
đối nhà sn xuất đưa ra tiêu thụ sn phm diêm kém chất lượng, đông đảo ph n
Tokyo đã đứng lên đấu tranh đòi nhà sản xut phải đổi li cho h s ng diêm
kém chất lượng đã mua (họ thng nht vi nhau diêm kém chất lượng nhng
hp mà có t 5 que không cháy được tr lên). Cuộc đấu tranh nhm vào mục đích
thiết thc, phc v cho đời sống như trên đã tp hợp được đông đảo ch em ph n.
T yêu cầu đổi diêm, phong trào đã mở rng mục tiêu đấu tranh, coi đây là cơ hội
để kin những người qun lý kinh tế đã không thực hin tt vai trò của mình nên để
dn ti nhng thit thòi, khn khó cho ph n diêm kém chất lượng. Do vy,
xut phát t bc xúc khi mua phi diêm kém chất lượng, ph n tp hp nhau li,
đấu tranh đòi quyền li kinh tế cho mình, nhưng sau đó phong trào ngày càng mở
rng, chuyn sang mục tiêu đấu tranh chính tr vi chính quyn bởi cơ chế qun lý
bt hp lý làm ảnh hưởng tới đời sng ca ph n nói riêng và người dân Nht Bn
nói chung.
Các hoạt động đấu tranh ca Hi liên hip không ch tác động mnh m ti
gii doanh nghip là nhng nhà sn xut cung cp các sn phm phc v đời
sng của người dân, mà còn có sc ảnh hưởng ti h thng chính tr Nht Bn.
Nht Bn lúc by giờ, diêm được phân phi v các tỉnh để bán cho dân. Dưới sc
ép t các phong trào đấu tranh như trên ca ph n Nhật, trong đó có vai trò nòng
trong cuộc sống sau Chiến tranh đã tập hợp nhau lại trong các tổ chức của phụ nữ để cùng tham gia đấu tranh tham chính. Sự ra đời và phát triển của Hội liên hiệp phụ nữ (1948 - ) Nhắc tới phong trào tham chính của phụ nữ Nhật sau Chiến tranh thế giới thứ hai không thể không nhắc đến tổ chức Hội liên hiệp phụ nữ (主婦連合会- từ đây người viết gọi tắt là Hội liên hiệp). Ra đời tháng 10 năm 1948 với vai trò đề xướng của Oku Mumeo, Hội liên hiệp phụ nữ trở thành tổ chức thống nhất toàn quốc của phụ nữ Nhật sau Chiến tranh mà nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của Hội là từ một phong trào đấu tranh vì quyền lợi kinh tế. Năm 1948 nhằm phản đối nhà sản xuất đưa ra tiêu thụ sản phẩm diêm kém chất lượng, đông đảo phụ nữ ở Tokyo đã đứng lên đấu tranh đòi nhà sản xuất phải đổi lại cho họ số lượng diêm kém chất lượng đã mua (họ thống nhất với nhau diêm kém chất lượng là những hộp mà có từ 5 que không cháy được trở lên). Cuộc đấu tranh nhằm vào mục đích thiết thực, phục vụ cho đời sống như trên đã tập hợp được đông đảo chị em phụ nữ. Từ yêu cầu đổi diêm, phong trào đã mở rộng mục tiêu đấu tranh, coi đây là cơ hội để kiện những người quản lý kinh tế đã không thực hiện tốt vai trò của mình nên để dẫn tới những thiệt thòi, khốn khó cho phụ nữ vì diêm kém chất lượng. Do vậy, xuất phát từ bức xúc khi mua phải diêm kém chất lượng, phụ nữ tập hợp nhau lại, đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế cho mình, nhưng sau đó phong trào ngày càng mở rộng, chuyển sang mục tiêu đấu tranh chính trị với chính quyền bởi cơ chế quản lý bất hợp lý làm ảnh hưởng tới đời sống của phụ nữ nói riêng và người dân Nhật Bản nói chung. Các hoạt động đấu tranh của Hội liên hiệp không chỉ tác động mạnh mẽ tới giới doanh nghiệp – là những nhà sản xuất cung cấp các sản phẩm phục vụ đời sống của người dân, mà còn có sức ảnh hưởng tới hệ thống chính trị Nhật Bản. Ở Nhật Bản lúc bấy giờ, diêm được phân phối về các tỉnh để bán cho dân. Dưới sức ép từ các phong trào đấu tranh như trên của phụ nữ Nhật, trong đó có vai trò nòng
ct ca Hi liên hip, mc dù S Công thương ở mi tỉnh đã phải vào cuộc để định
giá sn phẩm diêm, nhưng GHQ vẫn thc hin các bin pháp giám sát cht ch t
giá khâu nhp nguyên liệu để t đó tính toán giá sản phm diêm.
Qua đây có th thấy, phong trào đu tranh phản đối diêm kém chất lượng
ca ph n Nht không ch nhm mục đích đ đổi được các sn phm diêm cht
ng tốt hơn mà còn coi đó một hội để ph n th hin s bc xúc với
cách là những người tiêu dùng mt cách có t chc. T đó, phụ n đã buộc chính
ph và các cơ quan hành chính ở các địa phương phải vào cuc qun lý chất lượng
cũng như giá cả ca sn phm thiết yếu này.
Có th thy mục tiêu ban đầu ca t chc là tp hp sc mnh ca ph n
đấu tranh nhằm đảm bảo đời sống như bài trừ hàng kém chất lượng, gim giá các
nhu yếu phẩm…, nhưng trong quá trình tồn ti t chức đã tr thành nơi để ph n
thông qua đó đấu tranh giành quyn tham chính. Cùng vi phong trào phản đối sn
phm diêm kém chất lượng, các phong trào đấu tranh phản đối tăng giá gạo, tăng
giá sa các nhu yếu phẩm khác cũng được Hi liên hip t chức, thu hút đông
đảo ph n tham gia.
Tháng 8 năm 1949, phiên thẩm ngh v giá gạo được t chc Oku
Mumeo - Hội trưởng Hi liên hip ph n đưc ch định vào v trí y viên trong
phiên thm ngh này. T đó, trong các phiên hp v vấn đề giá go Quc hi hay
chính quyền địa phương, thậm chí trong các cuc hp ca gii chuyên môn hay
trong các cuộc điều tra… đều có các thành viên ca Hi liên hiệp được c ti tham
d. Theo tài liu thng kê ca Hi liên hip ph n năm 1961: cho đến năm 1961,
đã 29 thành viên của Hi liên hip tham d vào các cuc họp được t chc
trung ươngvà ở các địa phương.
Nhng thành viên Hi liên hip khi tham gia vào nhng cuc hp v các
vấn đề liên quan tới đi sống được t chc chính quyền địa phương như trên đã
thc hin hai nhim v chính: Thông qua vic duy trì hoạt động đấu tranh đòi
cốt của Hội liên hiệp, mặc dù Sở Công thương ở mỗi tỉnh đã phải vào cuộc để định giá sản phẩm diêm, nhưng GHQ vẫn thực hiện các biện pháp giám sát chặt chẽ từ giá ở khâu nhập nguyên liệu để từ đó tính toán giá sản phẩm diêm. Qua đây có thể thấy, phong trào đấu tranh phản đối diêm kém chất lượng của phụ nữ Nhật không chỉ nhằm mục đích để đổi được các sản phẩm diêm chất lượng tốt hơn mà còn coi đó là một cơ hội để phụ nữ thể hiện sự bức xúc với tư cách là những người tiêu dùng một cách có tổ chức. Từ đó, phụ nữ đã buộc chính phủ và các cơ quan hành chính ở các địa phương phải vào cuộc quản lý chất lượng cũng như giá cả của sản phẩm thiết yếu này. Có thể thấy mục tiêu ban đầu của tổ chức là tập hợp sức mạnh của phụ nữ đấu tranh nhằm đảm bảo đời sống như bài trừ hàng kém chất lượng, giảm giá các nhu yếu phẩm…, nhưng trong quá trình tồn tại tổ chức đã trở thành nơi để phụ nữ thông qua đó đấu tranh giành quyền tham chính. Cùng với phong trào phản đối sản phẩm diêm kém chất lượng, các phong trào đấu tranh phản đối tăng giá gạo, tăng giá sữa và các nhu yếu phẩm khác cũng được Hội liên hiệp tổ chức, thu hút đông đảo phụ nữ tham gia. Tháng 8 năm 1949, phiên thẩm nghị về giá gạo được tổ chức và Oku Mumeo - Hội trưởng Hội liên hiệp phụ nữ được chỉ định vào vị trí Ủy viên trong phiên thẩm nghị này. Từ đó, trong các phiên họp về vấn đề giá gạo ở Quốc hội hay ở chính quyền địa phương, thậm chí trong các cuộc họp của giới chuyên môn hay trong các cuộc điều tra… đều có các thành viên của Hội liên hiệp được cử tới tham dự. Theo tài liệu thống kê của Hội liên hiệp phụ nữ năm 1961: cho đến năm 1961, đã có 29 thành viên của Hội liên hiệp tham dự vào các cuộc họp được tổ chức ở trung ươngvà ở các địa phương. Những thành viên Hội liên hiệp khi tham gia vào những cuộc họp về các vấn đề liên quan tới đời sống được tổ chức ở chính quyền địa phương như trên đã thực hiện hai nhiệm vụ chính: Thông qua việc duy trì hoạt động đấu tranh đòi
quyn li v mt kinh tế - xã hi, h giành ly các v trí trong h thng chính tr (c
trung ương lẫn địa phương). Đng thời, khi đã giành được v trí trong h thng
chính trị, để nhng ý kiến, yêu cu của mình được chp thun, h tiếp tc khích l
các phong trào đấu tranh. Để thấy rõ điều này, chúng ta cùng nhìn li s tham gia
ca Hi liên hip trong 2 s kiện sau đây.
Trước hết là s tham gia ca Hi liên hip với cách người tiêu dùng
trong phiên hp v việc “Sửa đổi pháp lệnh liên quan đến điện và gas”. Năm 1951,
để đòi tăng lương cho công nhân, công đoàn ngành điện đã tổ chc mt cuộc đình
công kéo dài 60 ngày. Cuộc đình công của công nhân nói trên dn ti s c mt
đin kéo dài, ảnh hưởng trc tiếp tới đời sng sinh hot sn xuất. Trước tình
trng này, Hi liên hiệp đã tổ chức phong trào đấu tranh không ch nhm mc tiêu
không thanh toán tiền điện trong thời gian 60 ngày đó, mà còn bày tỏ s bc xúc
với tư cách là những người dân tiêu dùng điện năng nay phải chu ảnh hưởng nng
n do s c này gây ra. Trước áp lực đấu tranh của người dân mà vai trò trung tâm
là Hi liên hiệp, ngành điện đã phải gii quyết bng cách tha thun cung cp
dch v với người tiêu dùng, và Hi liên hiệp được la chn tham gia phiên hp v
vic sửa đối pháp lệnh liên quan đến điện và gas vào năm 1951 của Quc hi vi
cách đại diện cho người tiêu dùng. Như vậy, thông qua phong trào đu tranh
đòi các quyền li gn lin với đời sng, Hi liên hiệp đã giành đưc v trí trong
Quc hội để tham gia xây dng, ban hành các quyết sách quan trng ca Nhà
c.
Mt khác, mt dn chng tiêu biu cho việc phát động các hoạt động đấu
tranh để tiếng nói của đại din Hi liên hip tr nên có trọng lượng hơn trong các
phiên hp ca chính quyền, đó phong trào phản đối việc tăng phí s dng nhà
tm công cng Hi liên hip trin khai t năm 1948. Để tăng sức thuyết phc
ca luận điểm phản đối việc tăng phí sử dng nhà tm công cộng do đại din Hi
liên hip trình bày trong phiên hp v vấn đề này ti chính quyn Tokyo, các thành
quyền lợi về mặt kinh tế - xã hội, họ giành lấy các vị trí trong hệ thống chính trị (cả trung ương lẫn địa phương). Đồng thời, khi đã giành được vị trí trong hệ thống chính trị, để những ý kiến, yêu cầu của mình được chấp thuận, họ tiếp tục khích lệ các phong trào đấu tranh. Để thấy rõ điều này, chúng ta cùng nhìn lại sự tham gia của Hội liên hiệp trong 2 sự kiện sau đây. Trước hết là sự tham gia của Hội liên hiệp với tư cách là người tiêu dùng trong phiên họp về việc “Sửa đổi pháp lệnh liên quan đến điện và gas”. Năm 1951, để đòi tăng lương cho công nhân, công đoàn ngành điện đã tổ chức một cuộc đình công kéo dài 60 ngày. Cuộc đình công của công nhân nói trên dẫn tới sự cố mất điện kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống sinh hoạt và sản xuất. Trước tình trạng này, Hội liên hiệp đã tổ chức phong trào đấu tranh không chỉ nhằm mục tiêu không thanh toán tiền điện trong thời gian 60 ngày đó, mà còn bày tỏ sự bức xúc với tư cách là những người dân tiêu dùng điện năng nay phải chịu ảnh hưởng nặng nề do sự cố này gây ra. Trước áp lực đấu tranh của người dân mà vai trò trung tâm là Hội liên hiệp, ngành điện đã phải giải quyết bằng cách ký thỏa thuận cung cấp dịch vụ với người tiêu dùng, và Hội liên hiệp được lựa chọn tham gia phiên họp về việc sửa đối pháp lệnh liên quan đến điện và gas vào năm 1951 của Quốc hội với tư cách đại diện cho người tiêu dùng. Như vậy, thông qua phong trào đấu tranh đòi các quyền lợi gắn liền với đời sống, Hội liên hiệp đã giành được vị trí trong Quốc hội để tham gia xây dựng, ban hành các quyết sách quan trọng của Nhà nước. Mặt khác, một dẫn chứng tiêu biểu cho việc phát động các hoạt động đấu tranh để tiếng nói của đại diện Hội liên hiệp trở nên có trọng lượng hơn trong các phiên họp của chính quyền, đó là phong trào phản đối việc tăng phí sử dụng nhà tắm công cộng mà Hội liên hiệp triển khai từ năm 1948. Để tăng sức thuyết phục của luận điểm phản đối việc tăng phí sử dụng nhà tắm công cộng do đại diện Hội liên hiệp trình bày trong phiên họp về vấn đề này tại chính quyền Tokyo, các thành
viên Hi liên hiệp đã cắt c người đến tn tng nhà tm công cộng để thc hin
điu tra và tuyên truyền để tranh th s đồng tình ca qun chúng nhân dân.
Ngoài ra, Hip hi còn t chc nhiu các hoạt động khác với tư cách
những người tiêu dùng trong xã hi. Sau khi thành lập được nửa năm, vào tháng 3
năm 1949 Hội liên hip trin khai hoạt động tuyn chọn các “cửa hàng dành cho
ph nữ”, khuyến khích ch em ph n mua hàng nhng cửa hàng này như một
phương pháp đấu tranh đòi các cửa hiu phải bán đúng giá. Đến năm 1959 Hi liên
hip liên kết vi các t chc của tiêu dùng khác để thành lập “Ban kiểm tra các nhu
yếu phẩm hàng ngày” (日用品番検部) để góp phn siết cht vấn đề qun lý cht
ng sn phm. T năm 1955 Hi liên hip t chc hoạt động đấu tranh mang tên
“Sa 10 yên” nhằm yêu cu bình n giá sa. Vi vic t chc các nhng hoạt động
đấu tranh như trên, phụ n Nhật hướng đến mc tiêu xã hi hóa các vấn đề khó
khăn trong đời sống, đòi hỏi s can thip ca chính quyền để gii quyết các khó
khăn trên. Nói cách khác, ở một góc độ nào đó. “Hội liên hip ph nữ” chính là hội
ca những người tiêu dùng nhưng mục tiêu ca các hoạt động đấu tranh do Hi
liên hip thc hin không ch đưc gii hn mức độ gii quyết trước mt các vn
đề ngưi tiêu dùng gp phi mà còn nhm tác động mt cách trc tiếp ti quá trành
ban hành các chính sách. Nghĩa bằng vic tham gia Hi liên hip, ph n Nht
không ch được đấu tranh đòi các mc tiêu kinh tế trước mắt còn được đấu
tranh tham gia chính tr.
Tóm li, bắt đầu bng việc đấu tranh đòi hạ giá các sn phm thiết yếu, Hi
liên hip cũng chính những người tiêu dùng đã sử dng nhiều phương pháp
khác nhau đấu tranh giành quyn tham chính. Thông qua các hoạt động đấu tranh
nêu trên, Hi liên hiệp đã nâng cao sự quan tâm ca ch em ph n đối vi chính
trị, đồng thi Hi liên hiệp cũng tạo điều kiện để nhng ph n đã giành được
nhng v trí trong nn chính tr phát huy năng lc hoạt động chính tr ca mình..
viên Hội liên hiệp đã cắt cử người đến tận từng nhà tắm công cộng để thực hiện điều tra và tuyên truyền để tranh thủ sự đồng tình của quần chúng nhân dân. Ngoài ra, Hiệp hội còn tổ chức nhiều các hoạt động khác với tư cách là những người tiêu dùng trong xã hội. Sau khi thành lập được nửa năm, vào tháng 3 năm 1949 Hội liên hiệp triển khai hoạt động tuyển chọn các “cửa hàng dành cho phụ nữ”, khuyến khích chị em phụ nữ mua hàng ở những cửa hàng này như một phương pháp đấu tranh đòi các cửa hiệu phải bán đúng giá. Đến năm 1959 Hội liên hiệp liên kết với các tổ chức của tiêu dùng khác để thành lập “Ban kiểm tra các nhu yếu phẩm hàng ngày” (日用品番検部) để góp phần siết chặt vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm. Từ năm 1955 Hội liên hiệp tổ chức hoạt động đấu tranh mang tên “Sữa 10 yên” nhằm yêu cầu bình ổn giá sữa. Với việc tổ chức các những hoạt động đấu tranh như trên, phụ nữ Nhật hướng đến mục tiêu xã hội hóa các vấn đề khó khăn trong đời sống, đòi hỏi sự can thiệp của chính quyền để giải quyết các khó khăn trên. Nói cách khác, ở một góc độ nào đó. “Hội liên hiệp phụ nữ” chính là hội của những người tiêu dùng nhưng mục tiêu của các hoạt động đấu tranh do Hội liên hiệp thực hiện không chỉ được giới hạn ở mức độ giải quyết trước mắt các vấn đề người tiêu dùng gặp phải mà còn nhằm tác động một cách trực tiếp tới quá trành ban hành các chính sách. Nghĩa là bằng việc tham gia Hội liên hiệp, phụ nữ Nhật không chỉ được đấu tranh đòi các mục tiêu kinh tế trước mắt mà còn được đấu tranh tham gia chính trị. Tóm lại, bắt đầu bằng việc đấu tranh đòi hạ giá các sản phẩm thiết yếu, Hội liên hiệp – cũng chính là những người tiêu dùng đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau đấu tranh giành quyền tham chính. Thông qua các hoạt động đấu tranh nêu trên, Hội liên hiệp đã nâng cao sự quan tâm của chị em phụ nữ đối với chính trị, đồng thời Hội liên hiệp cũng tạo điều kiện để những phụ nữ đã giành được những vị trí trong nền chính trị phát huy năng lực hoạt động chính trị của mình..
Bi l đó, nhận thc chính tr ca ph n Nht sau chiến tranh đã thay đổi rt.
H nhn thy s gn kết cht ch gia chính tr và đời sng, nên tham gia chính tr
là mt nhu cu thiết yếu. Chính t s thay đi trong nhn thc khát vọng được
tham gia vào các vấn đề chính tr để ci thiện đời sống đã giúp phụ n Nht Bn
ng dn v trí và vai trò ca h trên trường chính tr.
Câu lc b đời sng (1968 - )
“Câu lạc b đời sng hip hi cộng đồng đời sống” (生活クラブ生活協同
組合- t đây người viết gi tắt là “Câu lạc bộ”) được thành lập năm 1968 tại qun
Setagaya ca th đô Tokyo với đim xuất phát ban đầu t T chức “Hiệp hi sa
bò” (牛乳の共同購入 ) thành lập năm 1965. Sau khi thành lập tại Tokyo, “Câu
lc bộ” đã mở rng phm vi hoạt động ca mình gây dng nhiu chi b các
địa phương.
Thời điểm những năm 60 của thế k XX, Nht Bản đang trong thi k phát
trin kinh tế cao độ. Cùng vi s gia tăng nhanh chóng việc s dng các thiết b
đin t trong các gia đình, cấu bữa ăn trong các gia đình Nhật cũng được cũng
thay đổi mà điển hình là s xut hin ph biến ca sa bò trong các khu phần ăn.
Do vy vấn đề giá sa tr thành mt vấn đề rất được các bà ni tr quan tâm vào
thi by gi.
T bi cnh nêu trên, có th thy mục đích thành lập ban đầu ca t chc là
để thc hiện các phong trào đu tranh v kinh tế - hi nhm bo v quyn li
ca những người tiêu dùng ch yếu những người ph nữ, để h đưc mua
hàng chất lượng tt vi giá c hp lý. Cùng nhng t chc do ph n Nht lp
nên, kết hợp đấu tranh gia mc tiêu kinh tế mc tiêu chính trị, nhưng so với
Hi liên hip, Câu lc b là mt t chc rng lớn hơn, thu hút được s tham gia và
Bởi lẽ đó, nhận thức chính trị của phụ nữ Nhật sau chiến tranh đã thay đổi rõ rệt. Họ nhận thấy sự gắn kết chặt chẽ giữa chính trị và đời sống, nên tham gia chính trị là một nhu cầu thiết yếu. Chính từ sự thay đổi trong nhận thức và khát vọng được tham gia vào các vấn đề chính trị để cải thiện đời sống đã giúp phụ nữ Nhật Bản nâng dần vị trí và vai trò của họ trên trường chính trị. Câu lạc bộ đời sống (1968 - ) “Câu lạc bộ đời sống hiệp hội cộng đồng đời sống” (生活クラブ生活協同 組合- từ đây người viết gọi tắt là “Câu lạc bộ”) được thành lập năm 1968 tại quận Setagaya của thủ đô Tokyo với điểm xuất phát ban đầu từ Tổ chức “Hiệp hội sữa bò” (牛乳の共同購入 ) thành lập năm 1965. Sau khi thành lập tại Tokyo, “Câu lạc bộ” đã mở rộng phạm vi hoạt động của mình và gây dựng nhiều chi bộ ở các địa phương. Thời điểm những năm 60 của thế kỷ XX, Nhật Bản đang trong thời kỳ phát triển kinh tế cao độ. Cùng với sự gia tăng nhanh chóng việc sử dụng các thiết bị điện tử trong các gia đình, cơ cấu bữa ăn trong các gia đình Nhật cũng được cũng thay đổi mà điển hình là sự xuất hiện phổ biến của sữa bò trong các khẩu phần ăn. Do vậy vấn đề giá sữa trở thành một vấn đề rất được các bà nội trợ quan tâm vào thời bấy giờ. Từ bối cảnh nêu trên, có thể thấy mục đích thành lập ban đầu của tổ chức là để thực hiện các phong trào đấu tranh về kinh tế - xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi của những người tiêu dùng mà chủ yếu là những người phụ nữ, để họ được mua hàng chất lượng tốt với giá cả hợp lý. Cùng là những tổ chức do phụ nữ Nhật lập nên, kết hợp đấu tranh giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu chính trị, nhưng so với Hội liên hiệp, Câu lạc bộ là một tổ chức rộng lớn hơn, thu hút được sự tham gia và
quan tâm của đông đảo qun chúng nhân những người quan tâm ti các vấn đề
của đời sng.
T na sau thp niên 1980, có hai phong trào ln din ra ti th đô Tokyo
bắt đầu t các hoạt động đấu tranh phi chính tr ca Câu lc bộ. Đó hai phong
trào đấu tranh đòi quy định điều khon v an toàn thc phm và v vấn đề tái chế.
Trin khai các phong trào này không phi ch có các thành viên ca Câu lc b
ngưi có v trí trong b máy chính quyền địa phương mà có sự góp sc ca các y
viên chi b ca Câu lc b các địa phương. Những ph n tham gia đấu tranh ý
thức được rng, cn phi m rng phạm vi đấu tranh đ gii quyết các vấn đề
thông qua phong trào trong ni b Câu lc b chưa giải quyết được. Nghĩa là phụ
n mun biến nhng yêu cầu đòi hỏi ca ph n trong cuc sống thường ngày tr
thành tiếng nói chung ca nhân dân, yêu cu phải được chính quyn gii quyết t
góc độ chính tr. Vi cách làm này, ph n Tokyo tham gia Câu lc b đời sống đã
t coi mình là các nhà hoạt động chính tr địa phương. Ví d, với phong trào đấu
tranh đòi quy định điều khon v thc phm an toàn, ph n ch trương không chỉ
đấu tranh nhằm đảm bo sc khe, tính mng ca riêng mình mà còn vì sinh mnh
ca tt c ngưi dân thành phố, do đó vấn đề an toàn thc phm không còn là vn
đề của đời sng mà là vấn đề chính tr. Hay phong trào đấu tranh đòi tái chế rác
thi, vi khu hiệu “Rác thải là nguồn tài nguyên”, phụ n muốn làm thay đổi cách
suy nghĩ của mi người và ca chính quyn vi rác thi.
Mc dù là mt t chc phi chính tr song s thành lp của “Câu lạc bộ” đã
quy t được đông đảo nhng ch em ph n ni tr trong các gia đình vi cùng
mt mục tiêu chung là đấu tranh vì quyn li của người tiêu dùng, đưa những khó
khăn mà ph n gp phải trong đời sng tr thành nhng vấn đề tn ti trong
hi. Khi tham gia Câu lc b, những người vợ, người m ni tr không còn phi
đơn độc đối din vi những khó khăn trong cuộc sng hng ngày, mà h hiu rng,
khó khăn họ gp phải cũng chính là những vấn đề đang tồn ti ca xã hi. Vì vy,
quan tâm của đông đảo quần chúng nhân – những người quan tâm tới các vấn đề của đời sống. Từ nửa sau thập niên 1980, có hai phong trào lớn diễn ra tại thủ đô Tokyo bắt đầu từ các hoạt động đấu tranh phi chính trị của Câu lạc bộ. Đó là hai phong trào đấu tranh đòi quy định điều khoản về an toàn thực phẩm và về vấn đề tái chế. Triển khai các phong trào này không phải chỉ có các thành viên của Câu lạc bộ là người có vị trí trong bộ máy chính quyền địa phương mà có sự góp sức của các ủy viên chi bộ của Câu lạc bộ ở các địa phương. Những phụ nữ tham gia đấu tranh ý thức được rằng, cần phải mở rộng phạm vi đấu tranh để giải quyết các vấn đề mà thông qua phong trào trong nội bộ Câu lạc bộ chưa giải quyết được. Nghĩa là phụ nữ muốn biến những yêu cầu đòi hỏi của phụ nữ trong cuộc sống thường ngày trở thành tiếng nói chung của nhân dân, yêu cầu phải được chính quyền giải quyết từ góc độ chính trị. Với cách làm này, phụ nữ Tokyo tham gia Câu lạc bộ đời sống đã tự coi mình là các nhà hoạt động chính trị ở địa phương. Ví dụ, với phong trào đấu tranh đòi quy định điều khoản về thực phẩm an toàn, phụ nữ chủ trương không chỉ đấu tranh nhằm đảm bảo sức khỏe, tính mạng của riêng mình mà còn vì sinh mệnh của tất cả người dân thành phố, do đó vấn đề an toàn thực phẩm không còn là vấn đề của đời sống mà là vấn đề chính trị. Hay ở phong trào đấu tranh đòi tái chế rác thải, với khẩu hiệu “Rác thải là nguồn tài nguyên”, phụ nữ muốn làm thay đổi cách suy nghĩ của mọi người và của chính quyền với rác thải. Mặc dù là một tổ chức phi chính trị song sự thành lập của “Câu lạc bộ” đã quy tụ được đông đảo những chị em phụ nữ nội trợ trong các gia đình với cùng một mục tiêu chung là đấu tranh vì quyền lợi của người tiêu dùng, đưa những khó khăn mà phụ nữ gặp phải trong đời sống trở thành những vấn đề tồn tại trong xã hội. Khi tham gia Câu lạc bộ, những người vợ, người mẹ nội trợ không còn phải đơn độc đối diện với những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, mà họ hiểu rằng, khó khăn họ gặp phải cũng chính là những vấn đề đang tồn tại của xã hội. Vì vậy,