Luận văn Thạc sĩ Chăn nuôi: Ảnh hưởng của khẩu phần ăn bổ sung Bột lá chè đại ( Trichanthera gigantea) đến năng suất chất lượng thịt của gà Mía lai Lương Phượng tại Thái Nguyên
1,420
712
66
11
hoa. Chúng cũng có mặt trong các sản phẩm động vật như trứng, tôm hùm, cá...
Ngày nay, các hợp chất carotenoid rất được quan tâm nghiên cứu.
Carotenoit là chất màu tự nhiên, chúng được tìm thấy trong lục lạp của
thực vật bậc cao, mặc dù trong mô quang hợp những màu sắc này được che đậy
bởi chất diệp lục. Những chất này được tìm thấy trong tảo, vi khuẩn, nấm và
nấm men. Người ta ước tính rằng thiên nhiên sản xuất hằng năm khoảng 100
triệu tấn carotenoid.
1.2.2. Sắc t trong thức ăn chăn nuôi
Sắc tố trong thực vật gồm có bốn nhóm (chlorophyll, carotenoid,
flavonoid và betalain). Trong thức ăn chăn nuôi chỉ đề cập đến một trong bốn
nhóm nói trên, đó là carotenoid. Khi nói đến hàm lượng sắc tố trong thức ăn,
có ý nghĩa là nói đến carotenoid tổng số. Nó gồm hai nhóm là xanthophyll và
caroten.
Caroten có đại diện là anpha (α), beta (β), gama (γ), caroten, lycopen và
phytofluen. Vì vậy, khi nói tới hàm lượng caroten trong thức ăn, có nghĩa là nói
đến carten tổng số chứ không phải là một sắc tố cụ th.
Xanthophyll còn có tên gọi là oxy - carotenoid. Nó cũng có hai nhóm là
carotenoid không màu và có màu. Carotenoid không màu có hai đại diện chính
là cryptoxanthin và violaxanthin, citranaxanthin, capxanthin (capsorubin),
astaxanthin. Chính vì vậy, khi nói đến hàm lượng xanthophyll trong thức ăn, có
nghĩa là nói đến xanthophyll tổng số, chứ không phải là sắc tố cụ th nào trong
nhóm này.
Động vật hoàn toàn không có khả năng tự tổng hợp carotenoid nên bắt
buộc phải được cung cấp từ thức ăn. Đối với khẩu phần ăn thông thường thì
nguồn carotenoid sử dụng đ tạo màu da và lòng đỏ trứng gia cầm là
xanthophyll hay oxycarotenoid của ngô, gluten ngô và bột lá thực vật. Ngày
nay, các oxycarotenoid được phân lập từ thực vật, tảo và nấm được sử dụng
nhiều trong khẩu phần ăn của gia cầm và được đánh giá là rất tốt (Lorenz,
12
2002), còn các loại màu tổng hợp thì ít được sử dụng và thậm chí còn bị cấm ở
một số nước.
1.2.3. Vai trò của sắc t đi với vật nuôi
* Đối với gia cầm nuôi thịt:
Hầu hết các nước châu Âu, các carotenoid không được sử dụng đ làm
tăng sắc tố da ở gia cầm vỗ béo. Tuy nhiên, ở một số vùng, người tiêu dùng
quan tâm đến màu thịt gia cầm có da màu vàng. Do đó các thức ăn giàu
carotenoid tự nhiên như ngô và cúc vạn thọ, cũng như canthaxanthin, được sử
dụng trong khẩu phần ăn.
Đối với một số nước châu Á và châu M La Tinh, người ta cũng quan
tâm tới vấn đề về màu sắc trứng gia cầm và màu sắc da gà. Tuy nhiên, mức độ
thị hiếu của người tiêu dùng về màu sắc ít được công bố trên các tài liệu nghiên
cứu.
Đối với gà thịt, sắc chất apocarotenoic acid ethyl ester là một carophyll có
màu vàng khi bổ sung có tác dụng tăng màu sắc của da gà. Khi các carotenoid
tích lũy đầy đủ thì hương vị của thịt tăng, do đó làm tăng chất lượng của thịt
gà,
cải thiện độ vàng da ngực và thành phần axit béo của thịt. Nhưng trong chăn nuôi
gà công nghiệp, gà bị nuôi nhốt và được ăn thức ăn hỗn hợp không đủ lượng sắc
chất nên đã làm giảm màu sắc da và thịt gà, làm mất đi hương vị thơm ngon của
thịt gà (Williams, 1992).
Đ thịt của gà có màu vàng tươi, thì nồng độ của sắc tố trong thức ăn phải
cao hơn so với nồng độ sắc tố trong thức ăn của gà mái đẻ. Đó là bởi vì tỷ lệ
lắng
đọng sắc tố trong da và mỡ dưới da gà thịt thấp hơn so với lòng đỏ trứng. Màu
tốt nhất sử dụng cho gà thịt là màu vàng. Vì thế sắc tố được sử dụng là lutein
(màu vàng) và zeaxanthin (màu da cam), xanthophylls. Bình thường gà broiler có
da màu vàng là do trong khẩu phần ăn có ngô. Lutein và zeaxanthin thường có
nhiều trong ngô, cỏ alfalfa, gluten, cúc vạn thọ. Đ màu sắc thịt gà đỏ đậm, cần
có các thành phần nguyên liệu và mối quan hệ giữa các màu như sau: vàng - cam
- đỏ theo tỷ lệ 3 mg vàng (lutein) - 1,5 mg cam (zeaxanthin) - 1 mg đỏ
13
(canthaxnthin). Trong thực tế, canthaxanthin trong chế độ ăn uống bình thường
có th là từ 2 đến 6 mg/kg thức ăn.
* Đối với gia cầm sinh sản: Đối với khẩu phần ăn thông thường thì nguồn
cartenoid sử dụng đ tạo màu da và lòng đỏ trứng gia cầm là xanthophyll hay
oxycarrotenoid của ngô, gluten ngô và bột lá thực vật. Khi cho gia cầm ăn thức
giàu xanthophyll thì có th tìm thấy xanthophyll ở trong máu, cơ, da, gan, chất
béo, lông của chúng. Ở gà đẻ, xanthophyll tích trữ ở cơ, da sẽ được huy động
vào buồng trứng khi thành thục và một phần chuyn vào lòng đỏ. Sau khi thu
nhận được sắc tố có từ thức ăn thì gà đẻ có th huy động từ 20- 60 % tổng lượng
sắc tố thu nhận vào lòng đỏ. Do đó màu sắc của lòng đỏ chính là màu sắc của
xanthophyll (Siri và cs, 2007). Ngày nay các oxycarotenoid được phân lập từ
thực vật, tảo và nấm được sử dụng nhiều trong khẩu phần ăn của gia cầm và đã
được đánh giá rất tốt (Gierhart, 2002), còn các loại sắc tố tổng hợp thì ít được
sử dụng và thậm chí còn bị cấm ở một số nước. Khi sử dụng ngô lên đến 50%
khẩu phần thì sắc tố có trong ngô có th cho màu sắc lòng đỏ đạt từ 5,6 - 7 đim
và tương đương với lòng đỏ ở mức bình thường theo thang đim màu của
Roche. Nhưng theo yêu cầu của một số nước châu M thì màu sắc lòng đỏ phải
đạt thang đim từ 7 - 10, còn châu Âu và châu Á là 10 - 14 theo thang đim của
Roche (1988). Như vậy, nếu chỉ sử dụng khẩu phần tự nhiên đ cung cấp sắc
tố cho lòng đỏ thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu nêu trên, ngoài ra
oxycarotenoid còn dễ bị biến tính do tác động của một số tác nhân gây oxy hoá
như ánh sáng, nhiết độ hay quá trình đề hydrat và điều kiện bảo quản nên việc
thiếu hụt sắc tố trong thức ăn và trong sản phẩm chăn nuôi là khó tránh khỏi.
* Đối với màu lông của chim: Trong thực vật và các loại tảo, carotenoid
thực vật là một phần của quá trình quang hợp cùng với chất diệp lục. Một số động
vật có th ăn một số carotenoid và sau đó chuyn đổi trong cơ th của chúng
thành các loại carotenoid khác nhau nhưng ban đầu phải nhận được carotenoid
từ khẩu phần ăn của chúng. Một ví dụ cụ th về loài động vật có th chuyn
14
carotenoid từ thức ăn ăn vào là chim hồng hạc. Hồng hạc ăn thức ăn có chứa
carotenoid màu vàng zeaxanthin và beta carotene màu cam, sau đó cơ th chuyn
đổi chúng thành carotenoid màu hồng đó là astaxanthin và canthaxanthin. Nếu
không có carotenoid trong chế độ ăn của chúng, chim hồng hạc sẽ không có màu
lông đp như nó có; còn nếu không có khả năng chuyn đổi các carotenoid của
thức ăn ăn vào thành astaxanthin và canthaxanthin, thì lông hồng hạc sẽ có màu
vàng da cam.
Đ giải quyết vấn đề thiếu hụt sắc chất trong thức ăn và cải thiện độ vàng
của lòng đỏ trứng, da, thịt, đồng thời làm tăng hương vị thịt của gia cầm, người
ta đã bổ sung sắc chất tổng hợp hoặc bột thực vật giàu sắc chất vào thức ăn.
Sắc chất tổng hợp tuy cải thiện được màu của lòng đỏ trứng và da gà nhưng
không cải thiện được hương vị thịt, bên cạnh đó một số sắc chất tổng hợp còn
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Vì vậy, người ta hướng tới việc sản
xuất bột lá thực vật giàu sắc chất hoặc chiết xuất sắc chất từ thực vật, nấm bổ
sung vào thức ăn của gia cầm. Các loại bột lá cây thức ăn xanh thường được
sản xuất là bột hoa cúc, bột lá sắn, bột lá keo giậu, bột cỏ alfalfa, bột cỏ
Stylo,
bột cỏ medicago, bột lá chè đại…
1.2.4. Các yếu t ảnh hưởng tới sắc t trong thức ăn và tích tụ sắc t trong
cơ th vật nuôi và sản phẩm chăn nuôi
* Ảnh hưởng của quá trình bảo quản ti hàm lưng sắc tố trong
thức ăn
Trong quá trình bảo quản, hàm lượng protein và chất xơ thay đổi ít còn
caroten bị oxy hóa khá nhanh. Tốc độ oxy hóa caroten phụ thuộc vào ẩm độ, ẩm
độ càng thấp thì tốc độ oxy hóa càng nhanh. Nếu bột lá cây thức ăn xanh có độ
ẩm từ 4 % - 5 %, sau 6 tháng bảo quản caroten mất đi tới 67,00 % còn ở độ ẩm
8 % - 12,9 % thì caroten chỉ mất từ 37,00% - 48,00 %.
* Ảnh hưởng ca nhiệt độ đến sắc tố trong thức ăn
15
Trong quy trình sản xuất và bảo quản thức ăn (hơi nước khi đóng
viên, sự giãn nở, phơi, sấy…) đều làm cho hàm lượng sắc tố giảm đi rất
nhanh. Nếu bảo quản ở nhiệt độ cao làm cho caroten bị oxy hóa mạnh. Ở 5
- 6
0
C trong 6 - 7 tháng caroten mất đi khoảng 30 %, nhưng nhiệt độ 15 -
17
0
C nó có th bị mất đi tới 60 % - 70 %.
* Ảnh hưởng của nguyên liệu thức ăn
Trong thức ăn hỗn hợp. Ngô, lúa mì và lúa mạch là những thành phần
thức ăn chăn nuôi chiếm tỷ lệ lớn trong khẩu phần, vì thế chúng có th gây
ra sự thay đổi đáng k sắc tố lòng đỏ trứng. Thức ăn chủ yếu là ngô cho đim
số lòng đỏ là 9 - 10, trong khi lúa mì và lúa mạch cho màu lòng đỏ nhạt là 4
theo thang đim màu của Roche. Sự khác bệt này là do hàm lượng
oxycarotenoid khác nhau trong các nguyên liệu thô sử dụng.
* Ảnh hưởng của lưng thức ăn ăn vào đến lưng sắc tố thu nhận
đưc ở động vật
Hàm lượng năng lượng của khẩu phần ăn đóng một ý nghĩa đặc biệt ở
gà mái đẻ. Hàm lượng năng lượng tăng trong thức ăn bình thường dẫn đến
giảm lượng thức ăn thu nhận và trong trường hợp này tất cả các chất dinh
dưỡng có liên quan và chất hoạt động (k cả sắc tố) phải được điều chỉnh nồng
độ tăng theo.
Chất lượng viên thức ăn cũng ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận
được, đặc biệt ở gà vỗ béo. Mùi và hương vị đóng vai trò thứ yếu trong thức
ăn gia cầm. Tuy nhiên, vẫn quan sát thấy một số các phản ứng của gia cầm
đối với mùi vị. Thức ăn và nước uống có liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu vật
nuôi uống nước nhiều sẽ dẫn đến hạn chế lượng thức ăn ăn vào. Ngoài ra, độc
tố nấm (chủ yếu là vomitoxin) cũng như các axit amin (tryptophan) và sự mất
cân bằng giữa các axit amin có th ảnh hưởng đến lượng thức ăn ăn được của
vật nuôi. Khi lượng thức ăn được giảm thì gia cầm không thu nhận đủ lượng
sắc tố và dẫn đến màu da, lòng đỏ trứng không có mầu sắc đạt yêu cầu.
16
* Ảnh hưởng của chất béo và chất lưng chất béo đến sắc tố trong
thức ăn
Việc tái hấp thu oxycarotenoid tan trong chất béo bị ảnh hưởng bởi các
chất béo có trong thức ăn. Khi sử dụng 6 % dầu đậu tương trong thức ăn, thì
có th giảm lượng citranaxanthin trong thức ăn từ 6 ppm xuống 4ppm, mà
không có bất k sự thay đổi sắc tố nào trong lòng đỏ trứng so với lô đối chứng
chứa 6 ppm citranaxanthin mà không bổ sung dầu. Việc sử dụng axit béo
mạch dài, không bão hòa không ảnh hưởng tới sự lắng đọng oxycarotenoid.
Tuy nhiên, việc sử dụng axit béo bão hòa mạch dài cần phải tránh, vì trong đường
ruột có sự phản ứng oxy hóa axit béo tương tác với oxycarotenoid gây phá hủy
sắc tố và làm chúng ít tích lũy trong lòng đỏ và da.
* Ảnh hưởng ca canxi đến sắc tố
Hàm lượng canxi cao làm giảm độ đậm màu lòng đỏ trứng gia cầm. Nếu
hàm lượng canxi được nâng lên từ 2,5 % đến 3,5 % trong thức ăn cho gà đẻ thì
cần tăng hàm lượng citraxanthin từ 1,0 ppm đến 1,7 ppm đ đạt được cùng sắc tố
lòng đỏ. Tiếp tục tăng hàm lượng canxi từ 3 % đến 4 % dẫn đến màu sắc lòng đỏ
giảm theo thang đim của Roche.
1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nưc
1.3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Hess và Dominguez (1998) đã nghiên cứu sử dụng lá cây T. gigantea
làm nguồn thức ăn cho cừu, ông cho biết bột lá cây T. gigantea là một nguồn
thức ăn ổn định cho cừu và mức phối hợp bột lá vào khẩu phần của cừu khoảng
20% là phù hợp.
Theo Arango trong thử nghiệm nuôi thỏ New Zealand lấy thịt vào năm
1990, thỏ được nuôi tập trung, đến 35 ngày tuổi trong KPCS được thay thế bằng
tỷ lệ T. gigantea là 10%, 20% và 30% cho thấy tỷ lệ tiêu hóa tốt nhất khi thay
17
thế ở mức 30%, ở tỷ lệ này tăng trọng là 32,12 g/ngày và chuyn hoá thức ăn
là 4,29 so với mức tăng khối lượng sống của 32,29 g/ngày.
Buitrago và cs (2002) cho biết: Khẩu phần ăn của gà có chứa từ 2 - 4 %
BLS có tác dụng làm tăng sinh trưởng tích lũy của gà thịt so với khẩu phần
không có bột lá sắn. Tác giả cũng khuyến cáo không nên sử dụng vượt quá
6 - 8 % bột lá sắn trong khẩu phần ăn.
Sarwatt và cs (2003) đã nghiên cứu sử dụng lá cây T. gigantea là nguồn
cung cấp protein chính cho thỏ trong chăn nuôi nông hộ tại Tanzania. Kết quả
cho thấy phối hợp bột lá T. gigantea vào khẩu phần của thỏ đã nâng cao khả năng
thu nhận thức ăn, sinh trưởng và tỷ lệ phần trăm thịt xẻ.
Iheukwumere và cs (2007) nghiên cứu đánh giá năng suất, khả năng sử
dụng thức ăn và biến đổi của một số tổ chức của cơ th gà thịt Anak ở 5 tuần
tuổi khi sử dụng khẩu phần có bột lá sắn ở các tỷ lệ 0, 5, 10 và 15 % cho kết
quả như sau: Lượng thức ăn thu nhận, tăng khối lượng, chuyn hóa thức ăn
và tăng khối lượng của lô đối chứng và 5 % bột lá sắn là khác nhau có ý nghĩa
so với lô sử dụng 10 % và 15 % BLS. Khối lượng tim, gan, lách ở mức 0 %
và 5 % cao hơn có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với mức 10 % và 15 %. Tác
giả cũng khuyến cáo chỉ nên dùng tối đa là 5 % cho gà broiler ở giai đoạn kết
thúc.
Onwudike và Adegbola (1978) nghiên cứu những tác động của việc tăng
tỷ lệ bột cỏ Stylo trong khẩu phần đến sản xuất trứng, vitamin A trong lòng đỏ,
màu sắc lòng đỏ và tỷ lệ ấp nở của gà mái đẻ. Kết quả cho thấy việc bổ sung
bột cỏ Stylo lớn hơn 10% trong khẩu phần thức ăn làm giảm khả năng sản xuất
trứng (P <0,01). Nhưng màu sắc lòng đỏ, vitamin A trong lòng đỏ và tỷ lệ ấp
nở được cải thiện đáng k khi ăn bột cỏ Stylo.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc sử dụng tối đa mức bột cỏ Stylo trong
khẩu phần cho các loài động vật là khác nhau: lợn 5-10%, gà thịt 2-5%, vịt
18
8-12%, ngỗng 15-20%, thỏ 30-40%, và các động vật nhai lại khác khoảng
40-60%.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Theo Đường Hồng Dật (2004) cho biết bổ sung bột lá sắn vào khẩu phần
thức ăn cho gà thịt làm tăng sắc tố thịt gia cầm, tăng khả năng sinh trưởng và
làm tăng thị hiếu người tiêu dùng. Ngoài ra, bổ sung bột lá sắn vào khẩu phần
ăn cho gà mái đẻ làm tăng sắc tố lòng đỏ trứng.
Nguyễn Thị Hồng Nhân (2010) cho biết, cây keo củi được trồng tại đồng
bằng sông Cửu Long cho năng suất 40,76 - 46,34 tấn/ha/năm. Keo củi thường
được bổ sung vào thức ăn của gia cầm ở dạng bột. Hàm lượng bột lá cây keo
củi có CP từ 22,66-27,84%. Bổ sung bột lá cây keo củi vào khẩu phần ở tỷ lệ
5% trong khẩu phần không làm giảm thức ăn, khối lượng thân thịt và khối
lượng mỡ bụng có khung hướng giảm (Wati và cs, 2013).
Theo Trần Thị Hoan (2012) bột lá sắn giàu protein, các axit amin tương
đối cân đối nhưng năng lượng lại thấp, tỷ lệ xơ cao, ngoài ra còn chứa độc tố
HCN với hàm lượng khá cao. Vì vậy, phải chế biến đ khử độc tố trong lá
sắn, bổ sung các thức ăn giàu năng lượng khi đưa bột lá sắn vào khẩu phần
gia súc, gia cầm. Tỷ lệ bột lá sắn thích hợp trong khẩu phần của gà thịt là 2 -
4%.
Theo Hồ Thị Bích Ngọc (2012) cho biết: sử dụng 0 - 8% bột cỏ Stylo
CIAT 184 trong khẩu phần nuôi gà thịt không ảnh hưởng đến sức khỏe và tỷ lệ
nuôi sống của gà (95,56% trở lên). Khẩu phần có chứa bột cỏ thì tăng khối
lượng đạt cao nhất (2321,5g/con). Bột cỏ Stylo CIAT 184 không ảnh hưởng đến
thành phần hóa học của thịt. Chất lượng thịt được cải thiện, đặc biệt là màu sắc
thịt. Xét về hiệu quả kinh tế, tăng khối lượng và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng thì có th sử dụng 2 - 4% bột cỏ Stylo CIAT 184 trong khẩu phần cho gà
Lương Phượng nuôi thịt.
19
Trong các loại bột cỏ nói chung và bột cỏ Stylo nói riêng có chứa nhiều
β - caroten, protein, vitamin nên việc sử dụng nó bổ sung vào khẩu phần ăn cho
gà thịt có tác dụng rất tốt đến năng suất và chất lượng của gà. Bổ sung bột cỏ
Stylo không những làm tăng khả năng sinh trưởng, nâng cao hiệu quả sử dụng
thức ăn mà đặc biệt là tăng chất lượng thịt, độ cảm quan đối với thịt, đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Nguyễn Văn Chung (2013) cho biết, khi sử dụng bột lá sắn và bột cỏ
Stylo vào khẩu phần ăn của gà thịt Lương Phượng giai đoạn từ 1 - 70 ngày tuổi,
tỷ lệ nuôi sống ngang bằng hoặc cao hơn bổ sung 4% BLS và 4% bột cỏ Stylo
cao hơn 1,20% so với lô không bổ sung bột lá. Khối lượng lúc 70 ngày tuổi
lớn hơn ĐC với sự sai khác rõ rệt, với (P<0,05), cụ th: lô 4% BLS đạt 2035,0;
bô 4% bột cỏ Stylo là 1979,3 và lô ĐC 1888 g.
Văn Thị Ái Nguyên (2017) thực hiện nghiên cứu xác định mức bột lá
T.gigantea thích hợp trong khẩu phần gà Lương Phượng nuôi thịt, kết quả cho
thấy thay thế ở mức 5% T.gigantea (dạng tươi hoặc bột) vào KPCS tự phối trộn
đã giúp giảm chi phí thức ăn nhưng không ảnh hưởng đến năng suất và chất
lượng thịt của gà Lương Phượng 5- 12 tuần tuổi. Đặc biệt, mức sử dụng 5% bột
lá T. gigantea trong KPCS đạt hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi gà Lương
Phượng tại nông hộ.
20
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tưng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
Đối tượng thí nghiệm: Gà Mía x Lương Phượng từ 4 - 12 tuần tuổi.
Yếu tố thí nghiệm: bột lá chè đại (Trichathera gigantea).
Địa đim: Thí nghiệm nuôi gà được tiến hành tại trại chăn nuôi gia cầm
khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Thời gian tiến hành: Từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 6 năm 2020.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Xác định ảnh hưởng của bột lá chè đại đến khả năng sinh trưởng của gà.
Xác định ảnh hưởng của bột lá chè đại đến khả năng thu nhận và chuyn
hóa thức ăn của gà.
Xác định ảnh hưởng của bột lá chè đại đến chất lượng thịt gà và sơ bộ
hạch toán thu chi/ kg tăng khối lượng.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp b trí thí nghiệm
Mô tả thí nghiệm: Thí nghiệm được tiến hành trên đà gà từ tuần 4 đến
tuần 12, trong đó 2 tuần đầu úm gà sử dụng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, tuần
3 tập cho gà ăn thức ăn thí nghiệm, tiến hành theo dõi thí nghiệm trên đàn gà
từ tuần 4 đến tuần 12. Thí nghiệm được nuôi theo phương thức nuôi nhốt hoàn
toàn, chuồng hở. Mỗi lô gà thí nghiệm được nuôi với số lượng 30 con, lặp lại 3
lần, tổng số gà thí nghiệm/lô là 90 con.
Lô đối chứng sử dụng khẩu phần ăn là khẩu phần cơ sở (KPCS) không
có bột lá Trichathera gigantea, nguyên liệu gồm: bột ngô, khô đậu tương, bột
cá, dầu ăn, muối, bột đá, lysine, methionine.... Thí nghiệm có 4 lô (lô đối
chứng:
ĐC, thí nghiệm 1: TN1; thí nghiệm 2: TN2 và thí nghiệm 3: TN3), mỗi lô có