Luận văn Thạc sĩ Chăn nuôi: Ảnh hưởng của khẩu phần ăn bổ sung Bột lá chè đại ( Trichanthera gigantea) đến năng suất chất lượng thịt của gà Mía lai Lương Phượng tại Thái Nguyên
1,422
712
66
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây ngành chăn nuôi có xu hướng phát trin mạnh
mẽ đặc biệt là ngành chăn nuôi gia cầm, ngành chăn nuôi gia cầm đang giữ một
vai trò quan trọng trong việc cung cấp các sản phẩm có giá trị như: thịt,
trứng…,
cho nhu cầu của người dân. Ngày nay cùng với sự phát trin của nền kinh tế, đời
sống xã hội ngày càng nâng cao, nhu cầu về thực phẩm đòi hỏi lớn hơn, ngon
hơn. Do đó, đã thúc đẩy chăn nuôi nói chung và ngành chăn nuôi gia cầm nói
riêng phát trin với tốc độ nhanh. Xu hướng phát trin chăn nuôi theo hình thức
công nghiệp đang có xu hướng phát trin mạnh mẽ.
Việc nghiên cứu tận dụng nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương góp phần
giảm chi phí thức ăn chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát trin chăn nuôi, 2020).
Khai thác nguồn thức ăn mới không cạnh tranh với con người là một trong
những chiến lược góp phần tạo nên sự phát trin bền vững trong nông nghiệp
mà trong đó cây thức ăn là một trong những đại diện tiềm năng. Tiềm năng của
cây thức ăn gia súc gia cầm trong việc tạo ra một nguồn đạm rẻ và phong phú
nhất do lá cây là nơi tổng hợp các acid amin từ các nguyên liệu ban đầu sẵn có
trong tự nhiên như nước, CO
2
, nitơ trong không khí.
Cây chè đại (Trichanthera gigantea) là một trong những cây thức ăn gia
súc được nhập vào Việt Nam năm 1990 từ Colombia với năng suất chất xanh
53 tấn/ha/năm (CIPAV, 1996), hàm lượng protein thô trong VCK từ 22 -26%
(Nguyễn Thị Thu Cúc, 2018), gần tương đương hàm lượng CP trong khẩu phần
nuôi gia cầm. Một số nghiên cứu cho thấy đã được trồng và phát trin tốt ở 3
miền Bắc, Trung, Nam (Nguyễn Xuân Bả và Lê Đức Ngoan, 2003). Ở Việt
Nam cây chè đại (Trichanthera gigantea) được trồng rải rác cùng với các ăn
quả, lượng sinh khối từ lá cây thu về cũng đã góp phần giảm chi phí thức ăn
chăn nuôi tại nông hộ, tuy nhiên năng suất lá cây phần lớn không đồng đều do
2
điều kiện trồng tận thu chủ yếu bị tác động bởi diện tích đất trồng mà chưa coi
trọng nhân tố ánh sáng. Một số kết quả nghiên cứu sử dụng lá cây (Trichanthera
gigantea) ở dạng bột và tươi trong khẩu phần vật nuôi như chim Cút, vịt Xiêm,
gà đẻ... (Văn Thị Ái Nguyên, 2017) đã cho kết quả và cho thấy đã góp phần
giảm chi phí thức ăn chăn nuôi mà không gây ảnh hưởng đến năng suất. Tuy
nhiên, việc sử dụng lá cây chè đại (Trichanthera gigantea) nói riêng chỉ đạt
được hiệu quả tốt tác động tích cực đến năng suất chăn nuôi của loài, giống khi
ở một tỷ lệ sử dụng thích hợp.
Với các lý do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Ảnh hưởng của khẩu phần ăn bổ sung Bột lá chè đại ( Trichanthera
gigantea) đến năng suất chất lượng thịt của gà Mía lai Lương Phượng tại
Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Xác định được ảnh hưởng của bột lá chè đại (BLCĐ) đến khả năng sinh
trưởng của gà Mía x Lương Phượng.
Xác định được ảnh hưởng của BLCĐ đến khả năng thu nhận và chuyn
hóa thức ăn của gà Mía x Lương Phượng.
Xác định ảnh hưởng của BLCĐ đến chất lượng thịt gà Mía x Lương
Phượng
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp cho khoa học thức ăn và dinh
dưỡng gia cầm những thông tin cơ bản về việc sử dụng bột lá chè đại trong
chăn nuôi gà thịt.
3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Góp phần nâng cao thu nhập cho hộ nông dân, phát trin kinh tế xã
hội bền vững tại địa phương.
Kết quả của đề tài còn là những khuyến cáo hữu ích cho các trang trại
chăn nuôi, từ đó giảm chi phí thức ăn, tăng hiệu quả trong chăn nuôi.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Phân loại thực vật, ngun gc và đặc đim thực vật học của cây chè
đại (Trichanthera gigantea)
1.1.1.1. Nguồn gốc
Cây chè đại (Trichanthera gigantea) thuộc họ Acanthaceae, họ phụ
Acanthoideae, bộ Trichanthereae, loài Trichanthera gigantea, tên khoa học là
Trichanthera gigantea có nguồn gốc ở chân đồi Andean của Colombia, nhưng
cũng được tìm thấy ở dọc bờ sông và khu vực đầm lầy từ Costa Rica đến miền
Bắc nước M và các rừng mưa từ Trung M đến Peru và lưu vực Amazon,
vùng đồng cỏ trên các đảo ở vùng cửa sông Amazon. Mutis là người đầu tiên
mô tả về cây (Trichanthera gigantea). Vào năm 1801, Humboldt và Bonpland
cho rằng cây này là một loài trong giống Ruellia và được phân lớp Ruellia
gigantea (tất cả các loài thuộc giống Ruellia đều là cây thân thảo) trích theo
Văn Thị Ái Nguyên (2017).
Hình 1.1. Chè đại (Trichanthera gigantea) đưc mô tả lần đầu vi tên gọi
Ruellia gigantean
1.1.1.2. Đặc đim thc vật hc ca cây (Trichanthera gigantea)
Theo mô tả của Leonard (1951) cây (Trichanthera gigantea) là cây thân
bụi hoặc có cây cao đến 5 m. Cây có tán tròn, nhánh bậc 2, lá hình cánh quạt
dài đến 26 cm và rộng 14 cm thuôn nhọn về chót lá, bản hp, cuống lá dài 1-5
4
cm, hoa nở theo chu k. Mỗi quả của cây (Trichanthera gigantea) có 35-40
hạt, có 1.123 quả/kg và 4.050.000 hạt/kg (Acero, 1985). Tuy nhiên do hạt cây
thường khó hoặc hiếm khi nảy mầm, tỷ lệ trồng bằng hạt chỉ đạt 0-2% (CIPAV,
1996) nên người ta thường chọn cách nhân giống bằng hom. Theo McDade
(1983) nguyên nhân là do cây không tự thụ phấn khi nhụy hoa không có hạt
phấn. Rễ là một trong những bộ phận giúp cây (Trichanthera gigantea) có th
nhân giống, phần thân trưởng thành tại vị trí gần đất sẽ hình thành rễ, các rễ
này khi tiếp xúc với đất sẽ hình thành cây mới (Gomez và Murgueitio, 1991)
(Từ Quang Hin và cs (2002).
Bên cạnh rễ, người ta còn dùng hom đ nhân giống cây Trichanthera
gigantea. Khi sử dụng các đoạn hom có đường kính 4 cm, dài 50 cm đ nhân
giống thì tỷ lệ nảy mầm có th đạt 95% (Acero, 1985). Nhưng khi sử dụng các
đoạn hom có đường kính lớn hơn (3,2-3,8 cm) và chiều dài ngắn hơn (20-30
cm) đ nhân giống thì tỉ lệ mọc mầm có th sẽ thấp hơn 50% (Jaramillo và
River, 1991).
Thích nghi sinh thái
Cây Trichanthera gigantea có khoảng thích nghi sinh thái rộng thích nghi
tốt với khí hậu nhiệt đới ẩm và lượng mưa hàng năm từ 1.000 đến 2.800 mm
(Acero, 1985; Jaramillo và Corredor, 1989), nhưng nơi có lượng mưa hàng năm
khoảng từ 5.000 đến 8.000 mm/năm cây (Trichanthera gigantea) vẫn có th
phát trin (Murgueitio, 1989). Cây phát trin tốt trên đất khô kém màu mỡ và
có tính acid (pH là 4,5) nhưng cần phải thoát nước tốt (Acero, 1985). Ở Việt
Nam cây Trichanthera gigantea cho thấy khả năng phát trin tốt ở nơi có khí
hậu nóng ẩm của miền Bắc hay ở Miền Trung với lượng mưa hàng năm 3.415
mm, nhiệt độ 21-29
0
C, ẩm độ 79-91% (Nguyen Xuan Ba and Le Duc Ngoan,
2003) và thích hợp cả với Miền Nam với lượng mưa hàng năm 1.600-1.700
mm, nhiệt độ trung bình 26-28
0
C và ẩm độ 78- 88% .
5
1.1.2. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưng của cây chè đại
(Trichanthera gigantea)
Theo Preston (1992) cây Trichanthera gigantea là một trong số những
cây đa mục tiêu (multi-purpose tree) được trồng vì nhiều mục tiêu hữu dụng
cho con người như: cung cấp nguồn protein cho động vật, chống xói mòn, kho
chứa nguồn carbon dioxide (mà đại diện là sinh khối) và methane (sinh ra do
tiến trình phân hủy lá rụng trong đất). Trong khuôn khổ nghiên cứu chúng tôi
chủ yếu đề cập và k vọng ở mục tiêu cung cấp nguồn đạm cho vật nuôi. Cây
T. gigantea có hàm lượng đạm 15-22% phần lớn là đạm thô hữu dụng (Rosales,
1997) và hàm lượng canxi đặc biệt cao hơn so với các loại cây thức ăn khác
(Rosales và Galino, 1987). Điều này được cho là do có sự hiện diện của
cystoliths trong lá, đặc trưng của họ Acanthaceae. Chất cystoliths là các khối
khoáng nhỏ (small mineral concretions) xuất hiện bên trong những đường nhỏ
nằm ở bề mặt trên của lá, phần bên trên của cọng, trên nhánh của phát hoa và
trên đài hoa (trích dẫn của Nguyễn Thị Hồng Nhân và Hunh Thị Ngọc Trinh,
2012).
Nguyen Xuan Ba và Le Duc Ngoan (2003) cho biết: tùy thuộc vị trí địa
lý, đất đai và khí hậu mà thành phần hóa học cây Trichanthera gigantea có sự
biến động. Tại miền Bắc Việt Nam lá cây chè đại có hàm lượng DM: 12,8 -
16,5%; CP: 11,8 - 15,4%, miền Trung hàm lượng DM: 14%; CP: 12,4% và
miền Nam có hàm lượng DM và CP cao nhất 16,41% và 21,66%. Từ đó cho
thấy điều kiện khí hậu đã có tác động tích cực đến hàm lượng DM và CP tích
lũy lại trong lá cây T. gigantea.
1.1.3. Năng suất chất xanh và giá trị sử dụng của cây chè đại
Cây Trichanthera gigantea rất phù hợp với đất và khí hậu, thời tiết vùng
Tây Nguyên. Kết quả nghiên cứu Viện Khoa học k thuật Nông lâm nghiệp
Tây Nguyên cho thấy Trichanthera gigantea trồng tại Đắc Lắc sinh trưởng và
phát trin tốt, có khả năng chống chịu hạn trong điều kiện mùa khô không tưới
6
nước, năng suất sinh khối tương đối cao, từ 8 tấn - 13,5 tấn/ha/lứa cắt. Có th
trồng xen Trichanthera gigantea trong vườn cây ăn quả và vườn điều, tiêu, cao
su,... cây vẫn sinh trưởng và phát trin tốt, đồng thời đây là loại cây thức ăn
có
th chế biến phơi khô, ủ xanh làm thức ăn dự trữ cho gia súc. Theo phân tích
tại Phòng Nông hóa thổ nhưỡng thì lá cây Trichanthera gigantea có tỷ lệ VCK:
21,29%, trong vật chất khô, tỷ lệ protein thô rất cao lên tới 21,66%, lipit thô:
6,92%, xơ thô: 25,42%.
Lá tươi và bột lá Trichanthera gigantea bổ sung vào khẩu phần của gia
cầm, gia súc (bò sữa) đã góp phần giảm chi phí thức ăn nhưng không giảm năng
suất, chất lượng sản phẩm thịt, trứng, sữa. Lá cây T. gigantea có th thay thế
từ 15 - 30% thức ăn hỗn hợp (khoảng 3-6 kg lá tươi/con/ngày) trong khẩu
phần bò vắt sữa giúp tăng lợi nhuận từ 5-10% do giảm chi phí th ức ăn hỗn
hợp trong khi năng suất, chất lượng sữa và khối lượng cơ th của bò không bị
giảm.
Năng suất chất xanh của Trichanthera gigantea trồng bằng hom thân với
mật độ hàng cách hàng 60cm, cây cách cây 60 cm, đạt từ 50 - 60 tấn/ha. Người
ta thường thu hoạch 3 lần/năm, đợt đầu tiên thu hoạch sau trồng 6 tháng và
năng suất đạt từ 18-20 tấn/ha, tái sinh đợt 1 thu hoạch sau đợt cắt đầu tiên là
3
tháng và năng suất đạt từ 17-18 tấn/ha, tái sinh đợt 2 thu hoạch sau đợt cắt 1
là
3 tháng và năng suất chỉ đạt từ 15-16 tấn/ha (Văn Thị Ái Nguyên, 2017)
Trichanthera gigantea là loại cây trồng mới sử dụng làm thức ăn cho gia
súc, được nhập vào Việt Nam năm 1990 từ nước Colombia, đây là loại cây thân
bụi, lá to, năng suất khá cao, rất giàu protein, khoáng và vitamin. Hiện nay,
cây
Trichanthera gigantea được trồng nhiều ở miền Tây Nam Bộ, Tây Nguyên và
vùng núi phía Bắc nước ta đ làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thỏ và cá. Kết
quả cho thấy sử dụng loại cây này đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt trong chăn
nuôi.
7
Cây Trichanthera gigantea có hàm lượng nước trong lá cao, từ 80-85% khi
lá ở độ tuổi 30-45 ngày, vì vậy lá mềm mại nhưng lại khó phơi khô; tỷ lệ protein
thô trong VCK của lá dao động từ 18-26% tùy thuộc vào tuổi của lá; trong
protein hầu hết là protit, nitơ phi protit rất ít; tỷ lệ lipit thấp, khoảng 2-3%
VCK;
tỷ lệ xơ thô thấp, khoảng 10-18% VCK tùy theo tuổi của lá; tỷ lệ khoáng rất
cao (20-25% VCK), hàm lượng canxi cao hơn rất nhiều so với các loại cây thức
ăn khác, do đó có th sử dụng bột lá T. gigantea như một nguồn cung cấp can
xi cho vật nuôi. Tỷ lệ protein và khoáng trong VCK của lá cao đã làm cho tỷ lệ
dẫn xuất không chứa nitơ (DXKN) thấp hơn so với một số loại lá khác, nó dao
động từ 30-40% VCK. Tỷ lệ lipit và DXKN trong VCK đều thấp dẫn đến năng
lượng của bột lá thấp. Đây là điều cần lưu ý khi phối hợp bột lá vào khẩu phần
ăn của vật nuôi; bổ sung thêm dầu, mỡ đ bù đắp năng lượng thiếu hụt là yêu
cầu bắt buộc khi bổ sung bột lá vào khẩu phần ăn của gia cầm. Bằng phương
pháp tiêu hóa dạ cỏ đ xác định tỷ lệ tiêu hoá đối với lá cây Trichanthera
gigantea thấy rằng tỷ lệ phân giải chất khô là 77%.
Cây Trichanthera gigantea có th thu hoạch lứa đầu vào lúc 4-6 tháng
sau khi trồng, năng suất đạt 15,64 đến 16,74 tấn/ha (thân lá tươi) với mật độ
trồng 40.000 cây/ha (với khoảng cách 0,5m x 0,5m). Sản lượng sinh khối (lá
tươi và thân) đạt trên 50 tấn/ha/năm; khi trồng với mật độ 17.690 cây/ha
(khoảng cách 0,75m x 0,75m) và khoảng cách cắt (KCC) 1,5 - 3 tháng một lần,
năng suất bình quân đạt 17 tấn/ha/lứa ở năm thứ 2 trở đi. Sản lượng sinh khối
(lá tươi và thân) đạt trên dưới 100 tấn/ha/năm. Cây T. gigantea có khả năng tái
sinh mạnh mẽ, ngay cả trong điều kiện thu hoạch nhiều lần mà không cung cấp
phân bón. Điều này cho thấy quá trình tổng hợp nitơ có th xảy ra ở phần rễ
thông qua hoạt động của mycorrhiza hay những vi sinh vật khác.
1.1.4. Chất kháng dinh dưng
Nhân tố kháng dưỡng được định nghĩa là các cơ chất có trong thực liệu
thức ăn sinh ra từ quá trình chuyn hóa tự nhiên của loài và một số cơ chế khác
8
(như: sự bất hoạt của một số dưỡng chất, làm giảm các tiến trình tiêu hóa hoặc
hiệu quả chuyn hóa thức ăn) đưa đến những ảnh hưởng trái ngược với tiến
trình hấp thu dinh dưỡng. Nhân tố kháng dinh dưỡng không phải là đặc tính nội
tại của hợp chất mà tùy thuộc vào quá trình tiêu hóa của vật nuôi ăn chúng vào.
Các nhân tố kháng trypsin (trypsin inhibitors) bị phân hủy trong dạ cỏ loài nhai
lại nên những ảnh hưởng mà chúng gây ra chủ yếu được nhận thấy trên gia súc
dạ dày đơn (Cheeke và Shull, 1985). Các chất kháng dưỡng được tìm thấy trong
các nguồn protein thực vật là: các acid amin độc, acid oxalic, glycosides,
phytohemagglutinins, polyphenolics và triterpenes (Kumar, 1991).
Theo Văn Thị Ái Nguyên (2017), trong thử nghiệm sơ bộ định tính các
hợp chất kháng dưỡng (bằng các thử nghiệm sinh hóa sơ bộ) cho thấy không
có các alkaloids và các tanins trong cây Trichanthera gigantea và hàm lượng
saponin và steroid thì rất thấp. Trong thử nghiệm khác chính xác hơn cho thấy
hàm lượng phenol tổng số là 450 ppm và steroids là 0,062%. Khoảng biến động
về hàm lượng phenol tổng số (từ 450 đến 50,288 ppm) kéo theo sự biến động
về giá trị dinh dưỡng trong cây chè đại
1.1.5. Chế biến bột lá Trichanthera gigantea
Căn cứ vào những đặc tính của lá cây chè đại, người ta có nhiều phương pháp
chế biến khác nhau, nhưng dù chế biến bằng phương pháp nào cũng phải làm
nguyên liệu càng nhanh khô càng tốt. Đ sản xuất được bột cỏ có chất lượng tốt
nguyên liệu chế biến phải có tỷ lệ lá cao, lá nhanh khô và khi khô vẫn giữ được
màu
xanh; giàu protein, vitamin, caroten và xanthopyll, ít chất độc.
Có rất nhiều phương pháp làm khô lá cây chè đại nói riêng và bột lá cây
thức ăn nói chug, trong đó sấy khô cỏ sẽ là phương pháp ngắn nhất, tiếp sau đó
là phơi dưới ánh nắng mặt trời. Phơi dưới mái tôn cỏ sẽ lâu khô hơn so với hai
phương pháp trên. Tuy nhiên, băm nhỏ phơi dưới các hình thức đều làm cho cỏ
nhanh khô hơn so với phơi cả thân lá Đỗ Viết Minh và cs (2009) đã chứng
minh. Băm nhỏ phơi dưới mái che, thời gian rút ngắn hơn so với phơi cả thân
lá.
9
Băm nhỏ rồi phơi dưới ánh nắng mặt trời là một phương pháp phổ biến,
rẻ tiền và nhanh. Nhưng khi phơi cỏ dưới ánh nắng mặt trời thì hàm lượng
caroten bị mất đi nhiều hơn. Tuy nhiên, trong điều kiện của các nước nhiệt đới
thì phơi khô dưới ánh nắng mặt trời là biện pháp mang lại hiệu quả kinh tế nhất.
Vào mùa mưa hoặc tránh sự tổn hao caroten chúng ta có th phơi dưới mái tôn,
nhưng chi phí sẽ cao. Ngoài phơi dưới mái tôn, có th phơi dưới mái bạt bằng
cách tạo khung nhà di động theo khuyến cáo của (Đỗ Viết Minh và cs, 2009).
Theo Trần Thị Hoan (2012), các phương pháp chế biến khác nhau thì tỷ
lệ hao hụt các chất dinh dưỡng cũng khác nhau, đặc biệt là caroten giảm từ
37,49 - 45,39 %. Phơi cỏ dưới nắng hàm lượng caroten đạt 228,46 và dưới mái
tôn là 259,0 mg/kg. Bảo quản bột cỏ trong túi nilon buộc kín tránh được tổn
hao chất dinh dưỡng. Theo thời gian bảo quản thì hàm lượng một số chất, đặc
biệt hàm lượng caroten bị giảm sút lớn từ 228,46 mg/kg (bắt đầu bảo quản)
xuống 89,22 mg/kg (sau 9 tháng bảo quản). Chính vì thế, mà sử dụng bột cỏ
trong vòng khoảng 3 tháng.
Chế biến bột lá bằng phương pháp sấy: Lá Trichanthera gigantea được
sấy ở nhiệt độ 60
0
C là 1-2 giờ sau khi phơi lá đã héo. Cứ khoảng 15-20 phút/lần
mở tủ sấy cho thoát nhiệt 1 lần đ tránh mẫu bị hấp hơi làm đen lá. Sau khi phơi
hoặc sấy xong thì mang nghiền ở lưới 2mm. Các mẫu bột cỏ chế biến bằng 2
phương pháp trên có mùi thơm và màu xanh lục. Trung bình 4,2 - 4,6 kg lá tươi
cho 1 kg bột lá (Nguyễn Thị Hồng Nhân và Hunh Thị Ngọc Trinh, 2012).
Chế biến bột lá bằng phương pháp phơi: Lá cây Trichanthera gigantea
sau khi thu hoạch được phơi trong cùng mốc thời gian cho đến khi lá khô giòn,
bóp vụn được (khoảng 10% ẩm độ), nghiền thành bột. Bột lá sau khi nghiền
được trải đều trên mặt nilon đ tỏa hết nóng, sau đó mới được cho vào túi buộc
lại đ bảo quản.
1.2. Sắc tố trong bột lá thực vật
10
1.2.1. Giới thiệu chung về sắc t
* Nguồn gốc ca sắc tố
Thực vật tươi là nguồn rất tốt đ cung cấp chất chống oxy hóa như
vitamin, carotenoid, flavonoid và các phenolic phức tạp khác (Murcia và cs,
2010). Rất khó đánh giá vai trò sinh học của sắc chất ở trong thực vật, nhưng
người ta đã biết chlorophyll là sắc chất quan trọng nhất đối với thực vật.
Chlorophyll và carotenoid là những chất quan trọng cho chức năng quang
hợp. Một vài sắc chất quan trọng khác là flavonoid có vai trò chủ yếu trong
tương tác giữa thực vật và động vật như tín hiệu đ thụ phấn và phát tán hạt.
Sắc chất tồn tại ở các bộ phận khác nhau của thực vật, flavonoid và
carotenoid tồn tại ở hầu hết các mô thực vật như lá, củ, hoa, quả và hạt nhưng
anthocyanin hay chlorophyll chỉ tồn tại ở một số bộ phận nhất định. Chlorophyll
ở thực vật có hai loại đó là chlorophyl a màu xanh nhạt và chlorophyl b màu vàng
xanh. Số lượng loại này phụ thuộc vào loài thực vật, điều kiện ánh sáng và điều
kiện dinh dưỡng khoáng magie. Hàm lượng chlorophyl a thường gấp từ 2-4 lần
so với chlorophyll b (Dzugan, 2006).
Carotenoid tồn tại ở sắc lạp và lục lạp ở màng tế bào thực vật. Chỉ có
một vài loại carotenoit là tiền vitamin A, còn những chất khác không có
hoạt tính như vitamin A. Sắc chất trong carotenoid được chia thành 2 nhóm:
Caroten màu đỏ da cam và xanthophyll vàng da cam.
Caroten (C
40
H
56
) là
một loại cacbua hydro chưa bão hòa, chỉ tan trong dung
môi hữu cơ. Trong
thực vật thường có 4 loại tiền vitamin A là: β, α, δ và γ caroten. Trong đó β
caroten chiếm trên 90 % trong tổng số các carotenoit ở thực vật. Các carotenoit
không chỉ cung cấp tiền vitamin A mà còn có tiềm năng chống oxy hóa, chống
ung thư.
Carotenoid là sắc tố tự nhiên tạo ra màu vàng, da cam, đỏ của rất nhiều
các loại quả (gấc, chanh, đào, mơ, cam, nho...), rau (cà rốt, cà chua,...), nấm
và