LUẬN VĂN: Sự thay đổi trong sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện nay
5,337
451
37
LUẬN VĂN:
Sự thay đổi trong sự điều tiết kinh
tế của nhà nước tư sản hiện
Lời mở đầu
hủ nghĩa tư bản với tư cách là một phương thức sản xuất xã hội từ khi ra đời cho
đến nay, nó đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Mỗ giai đoạn phát triển nó
đều dựa
trên nền tảng của giai đoạn trước nó, nó vừa kế thừa của giai đoạn trước, vừa là
sự
vươn lên hoặc phủ định lại giai đoạn trước. Trong quá trình phát triển đó ta đã
thấy
rằng sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu khách quan, vai
trò của
nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Bởi vì, xã hội mới mà chúng ta muốn xây
dựng trong chủ nghĩa tư bản là một nhà nước tư sản hiện đại – phải tính đến một
cách
đầy đủ những đặc điểm mới về số lượng và chất lượng của sự phát triển xã hội
hoặc
nói rộng hơn của nền văn minh tri thức, phát triển cao nhất về con người tri
thức, của
những khoa học kỹ thuật hiện đại. Nhưng để đáp ứng và đièu khiển nền kinh tế xã
hội
mà khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng phát triển, tình hình chính trị thế
giới
ngày càng phức tạp, bất ổn của chủ nghĩa tư bản hiện đại đó thì nhà nước tư sản
hiện
đại phải tự đièu chỉnh vai trò của mình trong sự điều tiết nền kinh tế. Sự điều
tiết caủ
nhà nước tư sản hiện đại đó phải dựa trên những mối tương quan khách quan giữa
lực
sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự điều tiết kinh tế đó cũng chính là nội dung của
Đề
án Kinh tế chính trị này. Do trình độ và kiến thức càn hạn chế, trong bài viết
này tôi
chỉ đề cập đến những vấn đề chính của “sự thay đổi trong sự điều tiết kinh tế
của
nhà nước tư sản hiện”,
c
Chương 1
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản
1. Chủ nghĩa Tư bản.
Trong qúa trình ra đời và phát triển, chủ nghĩa tư bản đã thực hiện được sự
phát triển về phân công lao động, hiệp tác lao động, tập trung hoá và liên hiệp
hoá sản
xuất. Kết quả là biến nhiều qua s trình kinh tế riêng lẻ thành quá trùnh kinh tế
thống
nhất hữu cơ với nhau.
Cùng với phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình xã hội hoá sản xuất cũng
đạt những bước tiến lớn, với trình đọ cao. Hiệp tác đơn giản, công trường thủ
công,
nền đậi công nghiệp cơ khí là những giai đoạn phát triển xã hội hoã sản xuất tư
bản
chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất và xã hội hoá sản xuất đã đưa năng suát lao động
tăng
lên chưa từng có trong lịch sử. Nhờđó sự hoạt động của quy luật giá trị thặng
dư, quy
luật tích luỹ cùng với các quy luật kinh tế khác, đã làm cơ chế thị trường vận
động và
phát triển. Chủ nghĩa tư bản vqcàng có nhiều điều kiện và khả năng lợi dụng
nhưng
thành tựu khoa học kỹ thuật để phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao
động,
sử dụng có hiệu quả hơn nữa c ơ sở vật chát kỹ thuật đã đựoc tạo ra. C.Mác đã
nhận
xét xác đáng rằng tronh vòng chưa đầy một thế kỷ thống trị của mình, chủ nghĩa
tư
bản đã tạo đước một sức sản xuất khổng lồ bằng tất cả các thế hẹ loài người
trước đó
đã tạo ra.
Bên cạnh mặt tích cực nói trên, chủ nghĩa tư bản trong qua trình phát sinh và
phát triển của nó đã gây ra khoong ít hậu quả. Chủ nghĩa tư bản là thủ phạm gây
ra
hàng trăm cuộc chiến tranh, đángchú ý là hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
nhát và
lần thứ hai. Trong quá trình công ngiệp hoá và chạy dua vũ trang, chủ nghĩa tư
bản
làm cho môi trường bị ô nhiễm. Chủ nghĩa tư bản cũng phải chịu trách nhiệm về
nạn
nghèo đói, bệnh tật của hàng trăm triệu người, nhất là của các nước phát triển.
Có thể nói, loài ngưòi đã sống lâu dài trong nền sản xuất nhỏ và lạc hậu phân
tán và thủ cực, với năng suất vô cùng tháp kém, không đảm bảo duy trì tái sản
xuất
giản đơn. Từ đầu thé kỷ XVI đến nay, lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa tư
bản với
nhngx đặc trưng khác về chất so với sản xuất nhỏ. Sự thắng lợi này diễn ra đầu
tiên ở
nước Anh rồi lần lượt sang các nước khác. Nền sản xuất lớn hiện đại đã và đang
là
niềm mơ ứoc của hàng trăm nước trên hành tinh chúng ta.
2.Chủ nghĩa đế quốc
Khi xác định địa vị của chủ nghĩa đế quốc trong lịch sử V.I.Lênin cho rằng
chủ nghĩa đế quốc là một giai đoạn đặc biệt của chủ nghĩa tư bản, tính chất đặc
biệt
đó thể hiện trên ba mặt sau đây :
2.1.Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển qua hai giai đoạn :tự do
canh tranh và đế quốc chủ nghĩa. Gìai đoạn đế quốc chủ nghĩa còn gọi là độc
quyền,
là giai đoạn cao nhất và là giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản,
2.1.1.Sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Khi nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa đế quốc Lênin đã nói “... tự do canh
tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này khi phát triển tới
một mức
đọ nhất định lại dẫn tới độc quyền. ..”
Như vậy sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền là một tất yếu vì : do
thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho lực lứợng sản xuất phát triển,
hình
thành ngày càng nhiều nghành mới, có trình độ tích tụ cao, đòi hỏi những hinh
thức
kinh tế tổ chức mới, đó là những xí nghiệp lớn, do năng súât đã nâng cao tỷ suất
và
khối lượng giá trị thặng dư nên đã mỏ rộng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy
sưj
phát triển sản xuất lớn, tăng tích luỹ tư bản và sản xuất. Hơn nữa khả năng cạnh
tranh
để giành lợi nhuận cao được đo bằng sự tiến bộ của khoa học, các xí nghiệp lớn
ra
sức cải tiến kỹ thuật, làm cho các xí nghiệp nhỏ phá sản, các xí nghiệp có trình
độ kỹ
thuật kém phát triển liên kết với nhau, do vậy chỉ còn một số ít những nhà tư
bản lớn
lắm điạ vị thống trị trong nghành hay trong một số nghành công nghiệp. Cùng với
quá
trình tập trung sản xuất thì tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng hình thành công
ty cổ
phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của tổ chức độc quyền. Mặt khác các công ty, xí
nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục cạnh tranh với nhau thì vô cùng khốc
liệt,
khó phân thắng bại mà hậu quả thiệt hại về kinh tế là rất lớn, vì thế nẩy sinh
xu hướng
thoả hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền.
2.1.2 Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Như đã phân tích ở trên chủ nghĩa tư bản là sự tập trung sản xuất và các tổ
chức độc quyền với hình thức kinh tế thống trị là công ty cổ phần, hình thành sở
hữu
tập thể của chủ nghĩa tư bản. Nhờ lắm được địa vị thống tri trong lĩnh vực sản
xuất và
lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định giá cả độc quyền cao hơn giá
cả
sản xuất đối với những hàng hóa mà họ bán ra và giá cả độc quyền thấp dưới gía
cả
sản xuất đối với những hàng hoá mà họ mua, qua đó mà họ thu được lợi nhuận độc
quyền. Những gía cả độc quyền cũng gặp phải giới hạn kinh tế đó là sự tồn tại
của
cạnh tranh nói chung, độc quyền vả cạnh tranh tồn tại song song và thống nhất
với
nhau một cách biện chứng
Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp, cĩng diễn ra
quá trình tích tuj và tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến hình thành các tô
chức
độc quyền trong ngân hàng. Ngân hàng đã chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế, xã
hội ,
nó kết hợp với tư bản công nghiệp do có cùng lợi ích kinh tế hình thành nên tư
bản tài
chính. Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sư hình thành một nhóm nhỏ độc
quyền chi phối toàn bô đời sống kinh tế và chinh trị của xã hội tư bản
Mặt khác ở các nước tư bản phát triển đã tích lữy được một khối lượng tư bản
lớn và nảy sinh tình trạng “thưa tư bản”, do không tìm được ơi đâu tư có lợi
nhuận
cao ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các nước này đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ
của
tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận, trong khi ở các nước kém phát triển dồi dào
nhiên
liệu, nhân công rẻ nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật nên đã hình thành sự xuất
khẩu tư
bản tư nước tư bản phát triển sang nước kém phát triển. Làm mở rộng quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, các nước tư bản phát triển ra sức bóc lột
nền
kinh tế ở các nước kem phát triển. Việc xuất khẩu về tư bản tang nên và mở rộng
phạm vi tất yếu dẫn đến phân chia thế giới về mặt kinh tế nghĩa là phân chia
lĩnh vực
đầu tư tư bản dẫn đến cuộc đấu tranh giành thị trường tiêu thụ, nguồn nguyên
liẹu và
lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao, cuộc đấu tranh khốc liệt tất yếu dẫn đến thoả
hiệp
để củng cố địa vị độc quyền của chúng, từ đó hình thành các liên minh độc quyền
quốc tế. Chủ nghĩa tư bản cũng do đó mở rộng lãnh thổ để khai thác và đầu tư dẫn
đến sự phân chia thế giới giữa các cường quốc lớn về lãnh thổ và thị trường.
2.2. Chủ nghĩa Tư bản là chủ nghĩa ăn bám thối nát
Sự thống trị của các tổ chức độc quyền đới với toàn xã hội làm cho chủ nghĩa
đế quốc co đặc tính ăn bám hay thối nát. Đặc tính đó một số biểu hiện sau:
Thứ nhất :xu hướng kìm hãm sự tiến bộ, các tổ chức độc quyền có thể không
cần cải tiến kỹ thuật mà vẫn thu được lợi nhuận độc quyền cao.Trong nhiều trường
hợp, bon độc quyền sợ các phát minh sáng chế làm cho chúng, mất địa vị độc quyền
hoặc phải đầu tư thêm nhiều tư bản, hoặc làm cho tư bản đô sộ của chúng mất giá
vì
hao mòn vô hình, nên đã tìm cách bác bỏ hoặc thủ tiêu cấc phát minh sáng chế.
Nhưng trong từng nghành, từng thời kỳ, ở những nước nhất định kỹ thuậth vẫn phát
triển do việc theo đuổi lợi nhuận độc quyền cao, và việc chạy dua vũ trang.
Thứ hai :tầng lớp ăn bám và số ngưòi không lao động ngày càng tăng. Do sự
tiến bộ của khoa học kỹ thuật, do nền sản xuất đựoc xã hội hoá cao, nên trực
tiếp
quản lý sản xuất dần dần được giao cho một số đốc công, kỹ sư, nhân viên kỹ
thuật
làm thêu đảm nhiệm, còn hầu hết bọn tư bản trờ thành kẻ thụ lợi, nghĩa là những
kẻ
chuyên sống vè tiền lãi cổ phần. Mặt khác, việc xuất khẩu tư bản, những số tiền
lời
khổng lồ từ các nơi ùn ùn chày về chính quốc, làm cho các tầng lớp htực lợi tăng
nên.
Bọn này ăn không ngồi rồi biến thành ký sinh trùng ăn bám vào các dân tộc bị áp
bức.
Thứ ba : quân sự hoá nền kinh tế, chạy đua vũ trang đe.Để đàn áp các phong
trao tiến bộ cuả dân nhân, để cướp giật thị trường và lãnh thổ thế giới bọn tư
bản tài
chính ra sức chạy đua vũ trang, quân sự hoá nền kinh tế và phát triển chủ nghĩa
quân
phiệt. Do đó các nghành công nghiệp trực tiếp phục vụ chiến tranh tăng nhanh,
các
nghành sản xuất dân dụng giảm bớt, khiến nền kinh tế cang mất cân đối.
Thư tư : sự phản động toàn diện về chính trị tư tưởng. ở đâu có sự thống trị
của tư bản độc quyền thì ở đó quyền sống của con người chủ nghĩa của các dân tộc
bị
chà đạp. Chúng đã chia rẽ giai cấp công nhân bằng cách tạo ra một tầng lớp công
nhân quý tộc, làm suy yếu phong trào cách mạng vô sản
Tất cả những biẻu hiện trên đây chưng tỏ rằng chủ nghĩa đế quốc đã trở thành lực
lượng kìm hãm sự tiến bộ của loài người.
2.3. Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản gãy chết.
Độc quyền chẳng những làm cho chủ nghĩa tư bản trỏ thành ăn bám hay thối
nát mà còn dẫn chủ nghĩa tư bản đến chôỗ gãy chết do những mâu thuẫn xã hội của
nó phát triển cực kỳ gay gắt,
- Mâu thuẫn giữa tư bản v à vô sản.
Đây là mâu thuẫn giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản,. Dưới ách thống trị của tư
bản
tài chính, giai cấp vô sản ngày càng bị bóc nột nặng nề về kinh tế và bị bóc nột
tàn
nhẫn về chính trị và tinh thần. Chính phủ các nước đế quóc không ngừng tiến công
vào quyền dân sinh dân chủ của giai cấp công nhân, đàn áp và tìm cách thủ tiêu
phong trào đấu tranh của họ. Tình hình đó làm cho mâu thuẫn giai cấp ngay cangs
sâu
sắc, đấu tranh ngày càng quyết liệt. Cách mạng vô sản, về khách quan trở thành
nhiệm vụ trực tiếp trước mắt của giai cấp vô sản.
- Mâu thuẫn giữa một nhóm bọn đế quốc và đông đảo quần chúng bị áp bức
trong hệ thống thuộc địa.
Sự thống tri và bóc lột tàn bạo của các nước đế quốc đối với hệ thống thuộc
địa làm cho quần chúng lao động và các dân tộc bị áp bức ngày câng không chuị
nổi,
phải đứng dậy đấu tranh. Cách mạng giải phóng dân tộc xuất hiện và phát triển
không
sức gì ngăn cản được. Cách mạng giải phóng dan tộc biến thuộc địa từ chỗ là hậu
bị
quân của chủ nghĩa đế quốc thành hậu quân của cách mạng vô sản, làm cho hậu
phương của chủ nghĩa đế quốc bị lung lay.
-Mâu thuẫn giữa đế quốc và đế quốc.
Khi nghiên cứu đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc ta đã thấy rằng
trong quá trình xuất khẩu tư bản, giành giật nguyên vật liệu cùng với việc phân
chia
thi trường “khu vực ảnh hưởng “ và phân chia lãnh thổ thế giới, các tập đoàn tư
bản
tài chính và các nhà nước độc quyền đã mâu thuân với nhau hết sức gay gắt. Trong
những điều kiện nhất định những cuộc đấu tranh gay gắt đó dẫn đến chiến tranh
thế
giới, gây nhiều đau khổ cho nhân loại.
Như vậy, ba mâu thuẫn này có những biểu hiện khác nhau, nhưng đều phát
triển cực kỳ gay gắt, tác động lẫn nhau, đang thúc đẩy chủ nghĩa đế quốc đi vào
con
đường suy sụp và không gì cứu vãn nổi.
3.Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
3.1Quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản độc quyền thành chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền ra đời trong một thời kỳ lịch sử hết sức ngắn ngủi,
hình thức độc quyền tư nhán tư bản chủ nghĩa không đáp được yêu cầu phát triển
của
lực lưọng sản xuất, từ đó sự phát triển tất yếu của sự thống trị của các tổ chức
độc
quyền đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Việc chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là do:
Tích tụ và tập trung tư bản cang lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng cao,
dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý
nền
sản xuất. Khi đó lực lượng sản xuất xã hội hoá ngày càng cao mâu thuẫn gay gắt
với
hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa do đó tất yếu đòi hỏi một hình mới
của
quan hệ tư bản chủ nghĩa để lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển trong điều
kiện còn
sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà
nước.
Sự phát triển của phân công lao động xã hội làm xuất hiện một nghành mà các
tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư
lớn, thu hồi vốn chậm. Nhà nước Tư sản trong khi đảm nhiệm kinh doanh những
nghành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh những các
nghành khác có lợi,
Sự thống trị của độc quyền làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa giai cấp Tư sản
với giai cấp vô sản và nhân dân lao động nhà nước phải có những chính sách để
xoa
dụi những mâu thuẫn đó như :trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân,
phát
triển phúc lợi xã hội ,
Sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những phong
trào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với cấc đối thủ trên thi trường thế
giới. Tình
hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết của các quan hệ chính trị và kinh tế quốc
tế, nhà
nước tư sản có vai trò quan trọng để giải quyết các quan hệ đó.
3.2.Đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Từ sự phân tích những ngưyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước ở trên đã cho ta thấy rằng :
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức
độc quyền tư nhân với mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế
thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ
nghĩa tư bản. Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước tư sản xuất
hiện
như một chủ sở hữu tư bản, một nhà tư bản xã hội , đồng thời là người quả lý xã
hội
bằn pháp luật và bộ máy bạo lực to lớn.
Nhà nước tư sản xuất hiẹn kết hợp về nhân sự với các tổ chức độc quyền được
thực hiên thông qua các dảng phái tư sản thống tri và trức tiếp xay dựng đội ngũ
cho
bộ máy nhà nước. Cùng với các đảng phái tư sản là các hội chủ xí nghiệp, nó trở
thành lực lượng chính trị to lớn, cung cấp kinh phí cho các đảng phái tham gia
vào
việc lập pháp.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời dẫn đến sự hình thành của sở hữu
tư bản độc quyền nhà nước, nó đan kết vào sở hữu độc quyền tư nhân, bao gồm
những hoạt động sản và bất động sản của nhà nước, những doanh nghiệp trong công
nghiệp và trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế –xã hội , như giao thông vận
tải, giáo
dục, y tế. Phạm vi mức độ phát triển của sơ hữu tư bản nhà nước tuỳ thuộc vào
lợi ích
của giai cấp Tư sản thống trị.
Do sự phát triển của trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đã vuợt qua sự
điều tiết của cơ chế thi trường vf độc quyền tư nhân đòi hỏi phải được bổ sung
bằng
sự điều tiết của nhà nước. Nhưng sự điều tiết này lại có mặt tích cực và hạn chế
:thị
trương, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước. Nó như một tổng thể những
thiết
chế kinh tế của nhà nước, điều tiết sự vận động của toàn bộ nên kinh tế quốc
dân,
toàn bộ của quá trình sản xuất xã hội .
Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nảy sinh như một tất yếu kinh
tế, đáp ứng yêu cầu xã hội hóa cao độ của lưc lượng sản xuất trong khuôn khổ chế
độ
tư bản, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc
quyền
nhưng vẫn vấp phải những giơi hạn mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản không thể vượt
qua khỏi.
4.Chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Khi nói tới “hiện đại “ người ta thường nghĩ tới trình độ phát triển cao nhất có
thể đạt được và trong thực tế đã đạt tới.Thật ra “hiện đại “ có nghĩa là “thuộc
về hôm
nay”, nhưng đó là cách hiểu thông thưòng, chưa mang đầy đủ tính khoa học. Trong
những nghiên cứu về “chủ nghĩa tư bản hiện đại “, phần lớn các tác giả trực tiếp
hay
gián tiếp muốn nói tới chủ nghĩa tư bản mang bộ mặt mới của nó. Những đặc điểm
mới của nó gắn liền với những biến động về trình độ sản xuất cao chưa từng thấy
do
cách mạng khoa học mới đem lại. Noi cách khác “chủ nghĩa tư bản hiện đại “ là
chủ
nghĩa tư bản tự biến đổi trên cơ sở áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa
học
kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh của nó trên quy mô thế giới. Nhưng phương
hướng
chính của cách mạng khoa học kỹ thuật là tự động hoá tổng hợp của quá trình sản
xuất, kiểm tra và quản lý bằng cách áp dụng rộng rãihệ thống máy tính điện tử,
khám
phá và sử dụng những loại năng lượng mới, tạo ra và sử dụng ngững loại vạt liệu
xây
dựng mới, cốt lõi của nó là “tin học hoá” toàn bộ đời sống xã hội. Chủ nghĩa tư
bản
hiện đại –nhà nước tư sản hiện đại, một mặt gắn liền với lợi ích của tư bản lớn
( nhất
là của tư bản độc quyền) và mặt khác gắn với lợi ích cảu toàn xã hội tư sản,. Nó
không chỉ phục vụ gai cấp cầm quyền mầ còn phục vị toàn xã hội
Chủ nghĩa tư bản hiện đại bắt đầu sự vạn và phát triển của nó trên một cơ sở
vật chất kỹ thuật mới về chất kỹ thuật của xã hội sau nó đang được hình thành,
Với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, cùng vói sự xuất hiẹn của máy tính
điện
tử, lao đôngj trí óc ngày cang giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
lức
lượng sản xuất xã hội, sở hữu trí tuệ đang ngày giữ vị trí quan trọng trong mối
tương
quan với sỏ hữu tư bản và sở quyền lực.
Nhà nước phát triển những chức năng với một trung tam điều tiết vĩ mô, như
người tổ chức đời sống kinh tế xã hội. Nhà nước đã kết hợp thường xuyên, chặt
chẽ
với tư bản đọc quyền thành bộ máy thống nhất điều tiết kinh tế xã hội bằng một
hệ
thống các biện pháp kinh tế, hành chính. luật pháp …Nhà nước can thiệp vào mọi
nghành kinh tế, mọi linh vực tái sản xuất xã hội, mọi hoạt động kinh tế trong và
ngoài
nước nhằm thúc đẩy nghành kinh tế xã hội. Duy trì chủ nghĩa tư bản, thực hiện
chắc
năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước.
Hệ thống tài chính, tín dụng ngân hành phát triển chưa từng có, ảnh hưởng
quan trọng đến sự điều tiết vĩ mồ của nhà nước.
Trong giai đọan của chủ nghĩa tư bản hiện đại, các công ty bảo hiểm và các cơ
quan tài chích đã phát triển rất mạnh, ngân hàng và các cơ quan tài chính ngày
càng
được chuyên nghiệp hoá và phân công chi tiết, hình thành hệ thống tài chính lớn
mạnh. Các tập đoàn truyền thống phân hoá mạnh, màu sắc gia tộc nhạt dần, pháp
nhân có nhiều có cổ phiều ngày một nhiều, xu hướng liên kết giữa các tập đoàn
tài
chính tăng nhanh, hoạt động nghiệp vụ ngân hàng lơn cũng vượt khỏi ranh giới
quốc
gia trở thành các ngân hang xuyên quốc gia.
Các tổ chức độc quyền tư nhân phát triển mạnh mẽ, quy mô của chúng lớn hơn
trước rất nhiều, hoạt động kinh doanh của chúng đã vượt qua giới hạn của nghành
nghề, quốc gia, trở thành các công ty xuyên quốcgia
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phát triển chưa từng thấy, thế giới thực tại bước
vào quá trình toàn cầu hoá sản xuất, buôn bán quốc tế, xuất khẩu lao động,
chuyển