Luận văn: PHƯƠNG THỨC SO SÁNH TRONG CA TỪ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
8,431
97
145
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
Tình tôi là giọt thuỷ ngân
Dù nghiền chẳng nát, dù lăn vẫn tròn (Ca dao)
Cặp từ hô ứng bao nhiêu...bấy nhiêu, ví dụ:
Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu (Ca dao)
d. Yếu tố so sánh: đƣợc xem là quan trọng nhất và không thể thiếu của
cấu trúc so sánh vì đó là chuẩn của so sánh, và không có chuẩn thì không
thành so sánh. Sự xuất hiện của yếu tố này là kết quả quá trình quan sát, liên
tƣởng của ngƣời nói. Theo Nguyễn Thế Lịch, yếu tố này có một số cấu trúc sau:
- Nêu lên tên gọi sự vật đƣợc dùng làm chuẩn. Ví dụ: má đào, tóc mây, mũi
dọc dừa, mặt chữ điền, con mắt lá răm, lông mày lá liễu, ngón tay búp măng…
- Miêu tả chi tiết thuộc tính của sự vật đƣợc dùng làm chuẩn, ví dụ:
- Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất dậm hương và rộn tiếng chim (Tố Hữu)
- Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương (Ca dao)
- Thể hiện nhiều sự vật khác nhau, ví dụ:
- Hồn tôi giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh (Nguyễn Bính)
- Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu (Ca dao)
Theo khảo sát của Nguyễn Thế Lịch, không phải cấu trúc so sánh nào
cũng hội tụ cả 4 yếu tố trên, và tác giả đã đƣa ra 4 cấu trúc so sánh không
hoàn chỉnh nhƣ sau:
a. Vắng yếu tố phƣơng diện, ví dụ:
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp mật, như đường mía lau (Ca dao)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
b. Vắng yếu tố phƣơng diện và yếu tố quan hệ, ví dụ:
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt (Xuân Diệu)
c. Vắng yếu tố đƣợc so sánh, ví dụ:
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi (Hồ Xuân Hƣơng)
Theo tác giả, cấu trúc vắng yếu tố đƣợc so sánh đã tạo ra vô vàn các thành
ngữ so sánh kiểu nhƣ: cao như núi, ngọt như mía lùi, đỏ như son…, giúp cho việc
tiếp nhận trở nên dễ dàng vì phƣơng diện so sánh đƣợc nói thành lời rõ ràng.
d. vắng yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố phƣơng diện, ví dụ:
- Như diều gặp gió
- Như nước vỡ bờ (Thành ngữ)
Tiếp thu những ý kiến kể trên, quan niệm của luận văn về cấu trúc so
sánh nhƣ sau:
Một cấu trúc so sánh hoàn chỉnh bao gồm 4 yếu tố theo mô hình sau:
A + x + tnss + B
(Trong đó:
- A: Yếu tố đƣợc so sánh
- x : Yếu tố phƣơng diện so sánh
- tnss: Yếu tố biểu thị quan hệ so sánh - từ ngữ so sánh
- B: Yếu tố so sánh)
Ví dụ: Tóc trắng như vôi
(A) (x) (tnss) (B)
Bên cạnh mô hình cấu trúc so sánh hoàn chỉnh kể trên, tác giả còn có
thể tạo ra những biến thể bằng việc thêm, bớt hoặc đảo trật tự các yếu tố trong
cấu trúc.
1.2.3. Các kiểu so sánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
Tác giả Đào Thản nhìn nhận phép so sánh ở mặt nội dung và phân chia
dựa vào mục đích so sánh. Theo đó, tác giả đã đƣa ra 8 kiểu so sánh nhƣ sau:
- So sánh để giải thích,ví dụ:
Ở nông thôn, nước ví như sông mà chủ nghĩa xã hội như thuyền, nước
sông lên thì thuyền đi lại dễ dàng. (Hồ Chí Minh)
- So sánh để miêu tả,ví dụ:
Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt. (Ngô Tất Tố)
- So sánh để đánh giá, ví dụ:
Thế địch như lửa, thế ta như nước. (Hồ Chí Minh)
- So sánh để biểu lộ tình cảm, ví dụ:
Chúng ta hãy phấn đấu như mùa xuân, với nhiệt tình như ánh nắng.
(Hồ Chí Minh)
- So sánh liên tiếp, ví dụ:
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu (Ca dao)
- So sánh phát triển, ví dụ:
Thân em như tấm lụa đào
Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai (Ca dao)
- So sánh hơn - kém, ví dụ:
Ngọc nào bằng tay em (Tố Hữu)
- So sánh đặc biệt
Đây là kiểu so sánh mà hai vế đƣợc thể hiện hoàn toàn cân đối về hình
thức và nội dung. Kiểu so sánh này diễn đạt những tình huống hoặc sự kiện
(không dùng để diễn đạt thuộc tính) mà tính cân đối là điều kiện để nhận dạng
sự so sánh. Ví dụ:
Cây khô xuống núi cũng khô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo (Ca dao)
Tác giả Hữu Đạt khi phân loại các kiểu so sánh đã dựa vào cả hai tiêu
chí hình thức và nội dung của nó. Theo đó, chúng ta có các kiểu so sánh sau:
- So sánh ngang bằng, ví dụ:
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa (Lƣu Quang
Vũ)
- So sánh hơn - kém, ví dụ:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh (Nguyễn Du)
- So sánh bậc cao nhất, ví dụ:
Đại đội thanh niên đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất. (Phạm Tiến Duật)
Tựu trung lại, mục đích quan trọng của so sánh là phát hiện ra đƣợc sự
đồng nhất hay khác biệt về các thuộc tính giữa hai sự vật đem ra so sánh. Do
đó, có thể phân chia so sánh thành hai kiểu nhƣ sau:
a. So sánh đồng nhất, bao gồm:
- So sánh tƣơng tự:
So sánh tƣơng tự thƣờng có những từ so sánh như, như là, như thể, tỉ
như, giá như, tựa như, tựa, kém gì, hơn gì, khác gì... mang tính chất giả định,
ví dụ:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai (Ca dao)
- So sánh ngang bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
Ở kiểu so sánh này thƣờng có các từ so sánh bằng, là... mang tính
khẳng định, ví dụ:
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con chèo hái mỗi ngày (Đỗ Trung Quân)
b. So sánh dị biệt, bao gồm:
- So sánh dị biệt hơn, gồm:
+ So sánh dị biệt hơn tuyệt đối: thƣờng có những từ so sánh nhất (A),
nhì (B), tam, tứ..., thứ nhất (A), thứ nhì (B)... Thông thƣờng, trong dạng kết
cấu này A, B đƣợc xếp theo thứ tự phân hạng đánh giá, ví dụ:
Nhất canh trì, nhì canh viên, tam canh điền. (Tục ngữ)
Tuy nhiên vẫn có những trƣờng hợp thứ tự này chỉ mang tính ƣớc lệ,
tức là ngƣời sáng tác quan tâm đến vần điệu nhiều hơn là thứ tự mức độ
“quan trọng” của đối tƣợng đƣợc liệt kê. Xếp một đối tƣợng nào đó theo thứ
tự nhất, nhì... còn tuỳ thuộc vào quan nệm chủ quan của ngƣời nói.
+ So sánh dị biệt hơn tƣơng đối: thƣờng có những từ chuyên dụng: hơn,
còn hơn..., ví dụ:
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người (Tục ngữ)
- So sánh dị biệt kém:
Để biểu thị quan hệ so sánh dị biệt kém, ngƣời ta thƣờng dùng các từ so
sánh nhƣ: thua, kém, không bằng, sao bằng, chẳng bằng, không tày..., ví dụ:
Đêm nằm ở dưới bóng trăng
Thương cha, nhớ mẹ không bằng thương em (Ca dao)...
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CA TỪ
1.2.1. Khái niệm "ca từ"
Trong âm nhạc, ca từ (lời của bài hỏt) giữ một vai trò quan trọng. Ca từ
bổ sung tính cụ thể cho hình tƣợng âm nhạc, hay nói cách khác, nó làm nhiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
vụ nhƣ là ngƣời hƣớng dẫn, mở đƣờng, “phiên dịch”, dẫn giải cho ngƣời
thƣởng thức bằng thứ ngôn ngữ phổ biến mà con ngƣời đã đƣợc học tập, rèn
luyện, nâng cao từ khi lọt lòng mẹ. Một ngƣời Việt Nam không biết ngoại
ngữ nghe một bài hát bằng tiếng Nga, hay tiếng của một nƣớc khác, cũng coi
nhƣ nghe một bản nhạc không lời, bởi ca từ đó không phải là tiếng Việt mà
ngƣời Việt Nam đã sử dụng thành thạo.
Ca từ mở cửa cho hình tƣợng âm nhạc đi vào lòng ngƣời thƣởng thức.
Sở dĩ nhƣ vậy, vỡ ngụn ngữ (bằng lời) là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con ngƣời. Có thể ví ca từ nhƣ đôi cánh nâng hình tƣợng âm nhạc
bay cao hơn, xa hơn. Trên thực tế, có nhiều tác phẩm âm nhạc, phần âm thanh
và phần ca từ tƣơng sinh nhƣ xác với hồn, làm nên sức sống của tác phẩm.
Nhƣng cũng có nhiều tác phẩm, khi bóc tách phần ca từ ra khỏi nền nhạc thì
nó vẫn thấm đẫm chất thơ, và đi vào lòng công chúng bởi tính trữ tình và
những ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà ngƣời nhạc sĩ gửi gắm trong tác phẩm của
mình. Thậm chí, những triết lí trong ca từ còn đƣợc thƣởng thức nhƣ những
câu châm ngôn sống bất hủ hoặc nhƣ những bài thơ. Trong nền âm nhạc Việt
Nam, Trịnh Công Sơn là một hiện tƣợng nhƣ vậy.
Với những vai trò và chức năng kể trên, ca từ là một phần không thể
thiếu trong âm nhạc. Vậy ca từ là gì? Theo Dƣơng Viết Á: “Trong loại hình
nghệ thuật âm nhạc, ngoài phần âm thanh đóng vai trò chính, còn phải dùng
đến ngôn ngữ, nói đúng hơn, đó là phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc (lời
ca trong ca khúc, hợp xƣớng; kịch bản trong nhạc cảnh, nhạc kịch; tên gọi,
tiêu đề của những bài hát, bản nhạc hoặc của từng chƣơng nhạc...). Tất cả
phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc, ta gọi chung trong một khái niệm: Ca
từ” [1, tr.13].
Với khái niệm nêu trên, áp dụng vào đề tài cụ thể nghiên cứu phƣơng
thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, luận văn giới hạn nghiên cứu
chỉ phần lời trong các ca khúc của ông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
1.2.2. Ngôn ngữ trong ca từ
Ngôn ngữ là chất liệu tạo nên ca từ. Giá trị của ca từ phụ thuộc vào
trình độ sử dụng ngôn ngữ của mỗi nhạc sĩ. Những ca từ có giá trị trƣớc hết
phải chuẩn về từ ngữ, đúng về ngữ pháp, chính xác về cú pháp, rõ ràng, trong
sáng về mặt diễn đạt... Trong nền âm nhạc Việt Nam, những nhạc sĩ có tên
tuổi cũng đồng thời là những ngƣời tạo ra những ca từ có giá trị mẫu mực,
nhƣ: Văn Cao, Huy Du, Đỗ Nhuận, Nguyễn Văn Tý... Họ là những ngƣời góp
phần quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và chuẩn hoá nó
để phục vụ sự phát triển của tƣ duy, sự phát triển của trí tuệ con ngƣời Việt
Nam.
Ngôn ngữ trong bài hỏt (ca từ) mang những đặc trƣng của ngôn ngữ
văn học, nhất là của ngôn ngữ thơ. Nhƣng thơ chủ yếu là để đọc, trong khi đó
lời ca chủ yếu là để hát và nghe theo giai điệu và tiết tấu nhất định. Rõ ràng
thơ và lời ca có hai cách tác động chủ yếu khác nhau: một bên thƣờng là thị
giác và một bên thƣờng là thính giác. Do sự khác nhau đó, ngôn ngữ trong bài
hỏt có những điểm khác so với ngụn ngữ trong thơ ca. Chẳng hạn:
Trong thơ ca, không nhà thơ nào lại viết liền một đoạn gồm toàn từ ngữ
tƣợng thanh, vì bài thơ viết ra để đọc (hoặc để nghe qua ngƣời khác đọc).
Nhƣng với lời ca, vì để hát lên và để nghe theo giai điệu và tiết tấu của âm
nhạc, một đoạn lời ca chỉ gồm những từ ngữ tƣợng thanh bỗng nhiên lại có
hồn, có sức sống. Sở dĩ có sự khác biệt này là do công cụ, phƣơng tiện diễn tả
chủ yếu của âm nhạc là âm thanh với giai điệu, tiết tấu, hoà thanh... Với
những phƣơng tiện đó, âm nhạc có một khả năng vô cùng to lớn trong việc tái
hiện cuộc sống thông qua thế giới âm thanh. Chính nhờ đặc trƣng này, âm
nhạc cho phép sử dụng những mô phỏng âm thanh trong cuộc sống xã hội và
tự nhiên để phản ánh hiện thực.
Tóm lại, ngôn ngữ trong tỏc phẩm ca từ là ngôn ngữ nghệ thuật đƣợc
chọn lọc, tinh luyện, giàu hình ảnh, nhạc điệu, đƣợc tổ chức một cách đặc thù
nhằm phản ánh cô đọng đời sống và biểu thị tinh tế mọi cung bậc tâm trạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
xúc cảm của con ngƣời. Nếu coi âm nhạc là một sản phẩm trí tuệ của nhân
loại thì ca từ là một bộ phận không thể thiếu của sản phẩm đó. Khi soạn ca từ,
ngoài những tình cảm xuất phát từ trái tim, ngƣời nhạc sĩ còn cần có sự đầu tƣ
của trí tuệ để lựa chọn ngôn ngữ một cách tinh tế, làm nên những khúc ca có
giá trị. Có thể nói một trong những giá trị của ca khúc là ở phần ca từ của tác
phẩm.
1.2.3. Hình tƣợng trong ca từ
Cũng nhƣ các loại hình nghệ thuật khác, âm nhạc phản ánh cuộc sống
thông qua hình tƣợng. Từ một ca khúc cho đến một bản giao hƣởng, một vở
nhạc kịch..., với những mức độ khác nhau, đều là những hình tƣợng nghệ thuật
phản ánh hiện thực, những bức tranh về cuộc sống con ngƣời trong một giai
đoạn lịch sử nhất định, thông qua cách nhìn riêng biệt và sự nhạy cảm của nhạc
sĩ.
Hình tƣợng nghệ thuật là một bức tranh vừa cụ thể vừa khái quát về
cuộc sống, về con ngƣời, đƣợc xây dựng bằng những biện pháp nghệ thuật
của nghệ sĩ. Trong ca từ, bức tranh đó đƣợc hiểu là bức tranh về tâm trạng của
những con ngƣời xã hội, và qua bức tranh đó, hoàn cảnh cũng đƣợc phản ánh
một cách sống động, rõ nét. Trong lời ca, tâm trạng có thể gắn với một hoàn
cảnh, một tình huống hoặc một câu chuyện, do đó tác giả vẫn có thể miêu tả,
tƣờng thuật (về cảnh, về việc). Nhƣng cảnh phải đƣợc gắn với tình, việc phải
đƣợc gắn với ngƣời, với cảm xúc. Trong những ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ
Đặng Thế Phong nhƣ Giọt mưa thu hay Con thuyền không bến..., lời ca hầu
nhƣ đều miêu tả (tả cảnh), song mỗi câu, mỗi từ đều trĩu nặng tình ngƣời và
nỗi lòng của “cái tôi” trữ tình.
Muốn có đƣợc sự cảm thông và sự rung động từ phía ngƣời nghe, hình
tƣợng ca từ trong tác phẩm âm nhạc phải có tính điển hình, tức là phải có sự
liên kết hữu cơ giữa cái riêng và cái chung, sự thống nhất thẩm mĩ giữa cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
cảm tính cụ thể và cái bản chất. Nếu nặng về cái chung, nhẹ về cái riêng, chỉ
thấy cái bản chất mà bỏ rơi cái cảm tính cụ thể, hình tƣợng trong ca từ sẽ trở
thành một chuỗi những khái niệm khô khan. Nhƣng nếu coi nhẹ cái chung mà
nặng về cái riêng, chạy theo cái cá biệt mà không nói lên đƣợc cái phổ biến,
có tính quy luật thì hình tƣợng trong ca từ sẽ trở nên lạc lõng, xa lạ với số
đông, với quần chúng. Vì vậy ngƣời nghệ sĩ phải biết sống thực sự với tình
cảm của con ngƣời thời đại, hoà nhịp đập trái tim mình với quần chúng nhân
dân thì mới sáng tạo đƣợc những tác phẩm nghệ thuật chân chính. Có nhƣ thế,
“cái tôi - nghệ sĩ” mới hoà chung với “cái ta - nhân dân”, cho dù trong trƣờng
hợp nghệ sĩ chỉ nói về cái tôi:
Ai về thủ đô tôi gửi vài lời
Tây Hồ mờ xa là nhà tôi đó
Ai về thành đô tôi gửi vài lời
Cho nhẹ lòng tôi năm tháng không nguôi
(Sẽ về thủ đô - Huy Du)
Đó là tâm trạng riêng của Huy Du: nhớ Hà Nội, nhớ quê hƣơng với biết
bao kỉ niệm. Thế nhƣng ngƣời nghe nhƣ thấy trong đó có nỗi lòng của mình,
bởi: ai xa quê hƣơng mà không nhớ thƣơng, vƣơng vấn; ai là ngƣời Việt Nam
yêu nƣớc đi kháng chiến mà không mong ngày về thủ đô - ngày tƣợng trƣng
cho chiến thắng.
1.2.4. Chủ thể cảm xúc trong ca từ
Chủ thể cảm xúc trong một tác phẩm âm nhạc, trong ca khúc, xét đến
cùng, chính là tác giả của tác phẩm ấy. Nhƣng không phải bao giờ tác giả
cũng “nhập vai” trong tác phẩm để ca hát, yêu thƣơng, căm giận, mơ ƣớc...
Cách thể hiện “cái tôi - tác giả” trong tác phẩm rất phong phú và đa dạng.
Có khi “cái tôi - tác giả” đƣợc biểu hiện trực tiếp trong bài hát, trong ca
từ. Ca khúc Mười năm tổ quốc tôi đã lớn của Hồng Đăng là một ví dụ:
Khi tôi hát ngợi ca đất nước tôi anh dũng tuyệt vời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
Đang ngày đêm trên tuyến đầu diệt quân cướp Mỹ
Khi tôi hát ca ngợi Đảng của tôi như ánh mặt trời
Trên đường dài dân tộc tôi đi đến vinh quang...
Tình yêu tha thiết đối với quê hƣơng, niềm tự hào kiêu hãnh về tổ quốc
anh hùng, niềm tin vào tiền đồ tƣơi sáng của đất nƣớc... là những cảm xúc của
tác giả đƣợc biểu hiện trực tiếp trong tác phẩm. Trong trƣờng hợp này, “cái
tôi - nhân vật” trong tác phẩm trùng khít với “cái tôi - tác giả” của nhạc sĩ.
Cũng có khi tác giả không nói đến “cái tôi”, nghĩa là trong lời ca không
có từ tôi nhƣng ngƣời nghe vẫn thấy rõ và xác định đƣợc chủ thể cảm xúc
trực tiếp trong tác phẩm chính là tác giả. Nếu nhƣ trong ca khúc Mười năm tổ
quốc tôi đã lớn (Hồng Đăng), tác giả đồng thời là nhân vật trữ tình trong tác
phẩm, xuất hiện trực tiếp và rõ ràng thì trong ca khúc Cô gái mở đường (Xuân
Giao), nhân vật trữ tình (tác giả) lại ẩn mình đi. Do đó các câu trong ca từ đều
thuộc vào loại có chủ ngữ ẩn. Ví dụ:
Đi giữa trời khuya sao đêm lấp lánh
Tiếng hát ai vang động cây rừng
Phải chăng em cô gái mở đường
Không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát...
Ca khúc là lời của nhạc sĩ Xuân Giao trò chuyện với những cô gái mở
đƣờng. Tác giả đã bộc lộ tâm tình của mình và thể hiện sự yêu thƣơng, trân
trọng, ngợi ca những ngƣời con gái anh hùng. Trong toàn bộ ca khúc, “cái tôi
- tác giả” không hề xuất hiện nhƣng ta vẫn có thể nhận thấy sự hiện diện của
tác giả. Để thấy rõ hơn điều này, ta có thể viết lại những câu ẩn chủ ngữ thành
những câu có chủ ngữ nhƣ sau:
(Tôi) đi giữa trời khuya sao đêm lấp lánh
Tiếng hát ai vang động cây rừng
Phải chăng em cô gái mở đường
(Tôi) không thấy mặt người, (tôi) chỉ nghe tiếng hát...