LUẬN VĂN: Nghiên cứu công tác xây dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên
9,552
153
119
nghèo giảm từ 10% xuống 8,3%. Một số huyện thực hiện quỏ trỡnh chuyển dịch cơ
cấu
và luõn canh cõy trồng hợp lý đó cho thu hoạch cao như ở Hạ Lễ, Đào Dương (Ân
Thi)
từ 80 đến 100 triệu đồng / ha; Liên Nghĩa, Mễ Sở (Châu Giang) trên 50 triệu đồng
/ ha [3,
tr.10].
Đi đôi với quỏ trỡnh sản xuất, tỉnh đó quan tõm chỉ đạo công tác đổi mới tổ chức
quản lý, nâng cao chất lượng hoạt động của hợp tỏc xó nụng nghiệp. Đến nay đó cú
147/157 xó thực hiện và thành lập được 157 hợp tỏc xó mới. Đồng thời với kết quả
đó
đạt được, trong sản xuất nông nghiệp cũng bộc lộ những hạn chế như việc lựa chọn
giống
mới và tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp chưa cao, số lượng và
chất
lượng sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu hàng hoá xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế
nông thôn chưa đều. Một số hợp tỏc xó mới thành lập cũn mang tớnh hỡnh thức,
hoạt
động không có hiệu quả. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nụng nghiệp cũn
nghốo nàn. Cơ sở chế biến nông sản thực phẩm hầu như chưa có, cơ chế, chớnh sỏch
thu
mua và tiờu thụ nụng sản thực phẩm cho nụng dõn cũn gặp nhiều khú khăn lúng
túng.
Công nghiệp địa phương từng bước được đầu tư mở rộng, tiểu thủ công nghiệp có
tiến triển, sản lượng công nghiệp 603 tỉ (năm 1996: 355 tỉ) tốc độ tăng 69,8%
(kế hoạch
trên 18%) đó xuất hiện dấu hiệu tăng trưởng đột biến, tạo cho nền kinh tế phát
triển
nhanh. Đang lập dự án và triển khai xây dựng khu công nghiệp Như Quỳnh, Phố Nối,
Thị
xó Hưng Yên, 14 dự án đầu tư trong và ngoài nước với số vốn trên 100 triệu USD
được
cấp giấy phép.
Dịch vụ phát triển đa dạng, tốc độ tăng 18% (kế hoạch trên 15%) hệ thống thương
nghiệp đang sắp xếp lại. Xuất khẩu tăng nhanh, xây dựng thêm khách sạn mới, từng
bước
khôi phục các di tích văn hoá, lịch sử tạo tiền đề cho du lịch.
Xây dựng kết cấu hạ tầng ở thị xó và một số thị trấn đó bắt đầu sôi động, xây
dựng
mới 3 trạm bơm, mở rộng và nâng cấp 14km đường, bắt đầu mở rộng đường 39A. Cải
tạo
một số đoạn đường do tỉnh, huyện quản lý và đường nông thôn, xây dựng xong phà
Yên
Lệnh. Xây dựng thêm một số trường học, nâng cấp bệnh viện, bắt đầu xây dựng đài
truyền hỡnh, xây dựng lại một số trạm trại nông nghiệp. Quy hoạch phát triển thị
xó
Hưng Yên, thị xó công nghiệp Phố Nối. Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của
tỉnh
đến năm 2010.
Công tác tài chính, tiền tệ, tín dụng được chấn chỉnh đổi mới. Tổng thu ngân
sách
82 tỉ, chi ngân sách 249 tỉ. Ap dụng những hỡnh thức huy động vốn, mở rộng tín
dụng
cho mọi thành phần kinh tế. Trên 60% lượt hộ nông dân được vay vốn sản xuất.
Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nhằm khai thác tiềm năng của địa
phương. Sắp xếp và thành lập các doanh nghiệp quốc doanh. Các hợp tác xó (HTX)
được
tổ chức lại, mô hỡnh hợp tác xó đa dạng và tự nguyện theo dạng cổ phần như hợp
tác xó
kinh doanh tổng hợp, dịch vụ thuỷ nông, điện, tiểu thủ công nghiệp, quỹ tín dụng
nhân
dân, dựa trên điều lệ mới đang vươn tới hoạt động có hiệu quả. Vai trũ tự chủ
của kinh tế
hộ trở thành động lực phát triển kinh tế gia đỡnh và cá thể được khuyến khích,
toàn tỉnh
đó có 59 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang hoạt động.
Khi tái lập tỉnh, Hưng Yên vẫn là tỉnh thuần nông, công nghiệp hầu như không có
gỡ đáng kể, kết cấu hạ tầng yếu kém, thiết bị công nghệ lạc hậu, nhận thức của
người dân
về phát triển kinh tế cũn hạn chế. Sau khi tái lập tỉnh, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp tiếp tục
chuyển theo hướng coi trọng các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao.
Việc thực
hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn được chú trọng và đạt kết quả khá, tiếp tục
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, áp dụng rộng rói tiến bộ sinh
học vào
sản xuất. Sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 550.000 tấn. Năng suất lúa tăng
từ 9,8 tấn
(1997) lên 11,93 tấn/ha năm 2000. Giá trị bỡnh quân trên 1ha canh tác tăng từ 28
triệu
năm 1997 lên 32 triệu năm 2000. Lương thực bỡnh quân đầu người tăng lên 520 kg
(2000) (năm 1997: 460kg). Là tỉnh đồng bằng đất đai phỡ nhiêu, Hưng Yên có nhiều
thuận lợi trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; phát triển nông nghiệp cây
ăn quả
đặc sản, cây xuất khẩu; tinh dầu đậu các loại tăng khá. Do nhu cầu sức kéo và
thị trường
nên số lượng đàn trâu, bũ giảm song chất lượng đàn bũ tăng lên. Chăn nuôi lợn,
gia cầm,
thuỷ sản tiếp tục phát triển. Chương trỡnh “Nạc hoá đàn lợn”, thu hút đông đảo
hộ nông
dân tham gia, nhiều mô hỡnh trang trại chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp
được
hỡnh thành và nâng lên.
Công nghiệp: Giá trị sản xuất trên địa bàn tăng nhanh. Bỡnh quân tăng 60,17%.
Giá trị sản lượng công nghiệp năm 2000 đạt 2.350 tỷ đồng (năm 1996: 355 tỷ).
Công
nghiệp địa phương từng bước được mở rộng, đầu tư chiều sâu nên khá phát triển.
Tăng
bỡnh quân 17,7%/năm tiểu thủ công nghiệp làng nghề được quan tâm khuyến khích,
hỗ
trợ đầu tư, nhiều mô hỡnh năng động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, hợp tác
liên kết
kinh tế phát triển. Khu vực ngoài kinh tế nhà nước tăng bỡnh quân 12%/năm [3,
tr.2].
Ngày 24/6/1999 Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 1088/1999/QĐ-UB
hướng dẫn việc thực hiện thủ tục xin cấp phép đầu tư và Quyết định số
1089/1999/QĐ-
UB về qui định quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỉnh ngoài trên
địa bàn
Hưng Yên, quyết định này góp phần làm thay đổi diện mạo KT-XH của tỉnh. Tỉnh đó
quy
hoạch 03 khu công nghiệp Phố Nối – Như Quỳnh – Thị xó Hưng Yên, có nhiều dự án
đầu tư vào các lĩnh vực mà tỉnh khuyến khích như: chế biến nông sản, chế biến
thức ăn
gia súc, sản xuất da giày, may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ, sản xuất nguyên vật
liệu, xây
dựng trung tâm dạy nghề và các loại hỡnh dịch vụ. Bỡnh quân đầu tư 2,8 lần/năm,
11 dự
án nước ngoài, 31 dự án tỉnh ngoài, số vốn đăng ký là 165 triệu USD, trong đó 11
dự án
đó hoạt động (04 dự án nước ngoài, 07 dự án tỉnh ngoài). Thực sự tạo động lực
thúc đẩy
kinh tế Hưng Yên, trong 4 năm nộp ngân sách trên 120 tỷ, thu hút 2300 lao động
[5,
tr.15].
Dịch vụ: Khá phát triển, tốc độ tăng trưởng bỡnh quân 15,48%. Các ngành kinh
tế dịch vụ phát triển đa dạng, hàng hoá phục vụ cho đời sống phong phú, giá cả
ổn
định, giá kinh doanh dịch vụ tăng 18%. Xuất khẩu khuyến khích các thành phần
kinh
tế tham gia tốc độ tăng khá: 20,6%/năm, tỷ trọng hàng xuất khẩu sản phẩm công
nghiệp, nông nghiệp của tỉnh tăng từ 3 triệu USD năm 1997 lên 10 triệu USD năm
2000. Kim ngạch xuất khẩu đạt 32 triệu USD, tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu
tăng
hơn các năm trước, tăng thêm 19 dự án đầu tư nước ngoài và tỉnh ngoài, đưa tổng
số
dự án đầu tư trên địa bàn lên 42, với vốn đăng ký 165 triệu USD. Các mặt hàng
chủ
yếu tăng nhanh: may, điện tử, giầy thể thao, hàng thủ công
mỹ nghệ.
Hệ thống thương nghiệp được tổ chức sắp xếp lại, mở rộng qui mô cải tiến phương
thức phục vụ đáp ứng tốt hơn nhu cầu cuộc sống của nhân dân. Tỉnh đó chỉ đạo
khôi phục
các di tích lịch sử - văn hoá tạo điều kiện thu hút khách tham quan du lịch.
Kết cấu hạ tầng: được nâng cấp đầu tư mới khá đồng bộ, góp phần quan trọng thúc
đẩy phát triển KT-XH. Các tuyến tỉnh lộ huyết mạch 206, 200, 205, đê Sông Hồng,
đường trục chính thị xó Hưng Yên, đường trong khu công nghiệp, bến phà Yên Lệnh,
bến xe, bến cảng được khẩn trương xây dựng, nhiều tuyến huyện lộ đang được nâng
cấp:
202, 203, 204, 208. 150 km đường tỉnh, huyện được nâng cấp dải nhựa với số vốn
138 tỷ
bằng 30% tổng số vốn ngân sách tập trung, gấp 3 lần trước lúc tái lập tỉnh. Giao
thông
nông thôn có nhiều khởi sắc, nâng cấp, cải tạo 300 km đường các loại với kinh
phí 63 tỷ
đồng. Dự án giao thông nông thôn (WB2) đang tích cực triển khai với mức vốn 50
tỷ
đồng.
Đến năm 2000 toàn tỉnh đó xây mới 15 trạm bơm, tiếp tục nâng cấp một số trạm
bơm chống úng. Tăng cường cơ sở vật chất cho các ngành giáo dục – y tế. Xây mới
1.230
phũng học kiên cố cao tầng. Đang nâng cấp bệnh viên Đa khoa tỉnh, một số bệnh
viện
tuyến huyện, nhiều trạm xá gắn với trung tâm kế hoạch hoá gia đỡnh được xây mới,
bổ
sung trang thiết bị điều trị.
Bưu chính viễn thông được đầu tư nhanh đồng bộ, hiện đại đáp ứng kịp nhu cầu
phát triển của tỉnh. Bưu điện được trang bị hiện đại hoá các tổng đài điện tử,
phát triển
thêm 5000 máy thuê bao, tính đến năm 2000 bỡnh quân 1,52 máy/100 dân, điện thoại
đến
100% xó và 98% thôn. Phát triển nhanh các dịch vụ mới, xây dựng 89 điểm bưu điện
cư
xá làm tốt các công tác phát hành báo chí.
Lưới điện trên địa bàn tỉnh từng bước được cải tạo, phát triển theo quy hoạch
đáp
ứng nhu cầu phát triển KT-XH. Xây dựng đường dây và trạm 110Kv Phố Nối, xây mới
142 trạm biến thế, 96 km đường dây trung thế. Điện thương phẩm tăng 1,65 lần so
với
năm 1997. Xây mới giai đoạn 1 Đài phát thanh truyền hỡnh tỉnh, xưởng in báo Hưng
Yên, tăng cường cơ sở vật chất cho Văn hoá thông tin, thể dục thể thao, xây mới
22 trụ
sở làm việc các cơ quan tỉnh, chuẩn bị đầu tư cơ sở vật chất cho các huyện, thị
khu công
nghiệp được chỉ đạo chặt chẽ hơn, tăng cường công tác quản lý nhà nước về xây
dựng cơ
bản.
Tổng nguồn vốn đầu tư trên địa bàn 4 năm đạt 3.355 tỷ, dùng cho phát triển công
nghiệp 47%, nông nghiệp 23%, giao thông vân tải 16%. Đầu tư bằng vốn ngân sách
tập
trung tỉnh quản lý 400 tỷ, tập trung cho cơ sở hạ tầng, ưu tiên cho nông nghiệp
nông
thôn.
Công tác tài chính, tiền tệ, tín dụng: được chấn chỉnh đổi mới một bước. Qua 4
năm đều hoàn thành vượt mức kế hoạch thu năm sau cao hơn năm trước. Tổng thu
bỡnh
quân trên địa bàn 140 tỷ/năm. Thu ngân sách địa phương bỡnh quân năm 110 tỷ.
Tổng
chi ngân sách 347 tỷ/năm đáp ứng kịp thời có hiệu quả phát triển KT-XH, QP-AN
của
tỉnh. Tỉnh có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp vượt kế hoạch thu ngân sách
tái đầu
tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, kinh
doanh
xuất khẩu giải quyết nhiều lao động, được hỗ trợ vốn từ 30%-50% nên đó kích
thích các
doanh nghiệp phát triển. Công tác thanh tra tài chính được duy trỡ cùng với hệ
thống kho
bạc để kiểm tra chế độ chi tiêu hành chính sự nghiệp, chống lóng phí thực hành
tiết kiệm.
Áp dụng biện pháp huy động vốn, tổng vốn huy động tăng bỡnh quân 23% năm (năm
2000 là 780 tỷ, dư nợ 630 tỷ, dư nợ ngân hàng người nghèo trên 100 tỷ). Mở rộng
tín
dụng với cơ chế lói suất tiền gửi, tiền vay linh hoạt, tỷ trọng vốn trung và dài
hạn tăng
nhanh chiếm 36%, 75% lượt hộ nông dân vay vốn, tăng hộ giàu giảm hộ nghèo. Chất
lượng tín dụng được nâng lên, công tác tiền tệ đáp ứng hơn nhu cầu địa bàn.
Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Để thực sự giải phóng sức sản
xuất, phát triển lực lượng sản xuất, tỉnh thành lập mới doanh nghiệp nhà nước
nhằm phục
vụ cho xuất khẩu và nhu cầu thiết yếu, lấy hiệu quả KT-XH làm thước đo, sắp xếp
một
bước các doanh nghiệp có khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi để vươn lên. Thực
hiện thí
điểm cổ phần hoá 167 HTX, đó chuyển đổi xây dựng mới theo mô hỡnh đa dạng và tự
nguyện đóng góp cổ phần kinh doanh tổng hợp, chuyên khâu: dịch vụ thuỷ nông,
điện tiểu
thủ công nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân. 120 HTX đó đăng ký, nhiều HTX kinh doanh
có
hiệu quả. Kinh tế hộ, kinh tế cá thể, kinh tế trang trại được khuyến khích phát
triển. Toàn
tỉnh đó có 110 doanh nghiệp ngoài kinh tế nhà nước đang hoạt động và từng bước
mở rộng
qui mô sản xuất kinh doanh.
Sau khi tái lập tỉnh, trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, Đảng bộ,
chính
quyền và nhân dân Hưng Yên luôn đoàn kết đồng thuận, chung sức đồng lũng xây
dựng
quê hương ngày càng giàu đẹp. Những năm đầu tai lap tỉnh nền kinh tế Hưng Yên đó
có
nhiều khởi sắc.
Đời sống văn hoá xó hội: Sau khi tái lập tỉnh đời sống nhân dân được cải thiện,
số
hộ giàu chiếm 17%, cơ bản xoá đói, giảm hộ nghèo từ 10% xuống 8,3%. Nhu cầu ăn,
ở,
đi lại, học hành, chữa bệnh, hưởng thụ văn hoá được đáp ứng tốt hơn.
Quan tâm chăm sóc thương binh, gia đỡnh liệt sĩ, những người có công với nước.
Vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa được trên 5 tỷ đồng, xây dựng và nâng cấp 150 nhà
tỡnh
nghĩa, 100% Bà mẹ Việt Nam anh hùng có nhà kiên cố, tặng 5.961 sổ tiết kiệm tỡnh
nghĩa cho các gia đỡnh chính sách, giúp đỡ người tàn tật, cô đơn, học sinh nghèo
vượt
khó. Đó thu hút thêm 2 vạn lao động vào chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp,
mở
rộng ngành nghề và phát triển công nghiệp. Đưa 850 hộ với 4.250 khẩu đi xây dựng
vùng
kinh tế mới, 100 người đi lao động nước ngoài.
Công tác bảo vệ sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Sắp xếp hệ thống điều trị, tăng
qui mô giường bệnh, nâng cấp trạm xá và bệnh viện Đa khoa. Coi trọng chăm sóc
sức
khoẻ cho nhân dân, tiêm chủng mở rộng cho trẻ em phũng chống dịch bệnh.
Sự nghiệp giáo dục phát triển, học sinh các cấp đều tăng, các cháu vào nhà trẻ
mẫu
giáo tăng 1,6%, học sinh phổ thông tăng 4,3%. Quan tâm chất lượng giáo dục toàn
diện
và các lớp đào tạo năng khiếu, số học sinh tốt nghiệp tăng, tiểu học 95%, phổ
thông cơ sở
93%, phổ thông trung học 88%. Tỉnh có nghị quyết khen thưởng khích lệ học sinh
giỏi,
thầy dậy giỏi, trường có học sinh đỗ đại học cao. Công tác giáo dục đang tạo sức
bật mới.
Khoa học công nghệ phát triển hướng vào ứng dụng tiến bộ về giống, biện pháp
canh tác, chế biến và bảo quản nông sản, thẩm định thiết bị và công nghệ mới,
tham gia
một số chương trỡnh nghiên cứu và khảo sát cấp nhà nước. Bảo vệ tài nguyên môi
trường
được quan tâm.
Hoạt động văn hoá văn nghệ đa dạng phong phú. Quan tâm xây dựng nếp sống
mới, gia đỡnh văn hoá, làng văn hoá, di tích lịch sử được bảo tồn tôn tạo, báo
chí thông
tin từng bước đổi mới cả nội dung, hỡnh thức theo hướng hiện đại.
Tiếp tục đổi mới chỉnh đốn Đảng bộ, coi trọng sinh hoạt chính trị tư tưởng trong
Đảng, tư tưởng đạo đức lối sống cho cán bộ đảng viên. Nâng cao chất lượng sinh
hoạt
Chi bộ, Đảng bộ, đẩy mạnh phê bỡnh và tự phê bỡnh thường xuyên định kỳ. Phấn đấu
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh. Chính quyền, đoàn thể vững
mạnh
theo 5 tiêu chuẩn mà Chỉ thị 05 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ đề ra.
Tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học – công nghệ (KH-CN)
theo định hướng đó được xác định trong Nghị quyết TW2 và Nghị quyết 03 TU. Giáo
dục
đào tạo là một bộ phận trọng yếu xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn
cách mạng
mới. Đẩy mạnh giáo dục toàn diện trên tất cả các ngành học, bậc học. Tạo được
đời sống
văn hoá cơ sở lành mạnh, nâng mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, coi trọng việc
xây
dựng gia đỡnh văn hoá và phát huy đạo lý tốt đẹp của gia đỡnh. Nêu cao vai trũ
gương mẫu
của ông bà cha mẹ, tạo ra mối quan hệ khăng khít giữa gia đỡnh nhà trường – xó
hội.
Phát triển không ngừng và nâng cao chất lượng hoạt động của thiết chế văn hoá cơ
sở. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hoá, nghệ thuật chuyên nghiệp, và
phong
trào quần chúng.
Nghiêm chỉnh chấp hành Chỉ thị số 27/CT-TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số
08 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về thực hiện nếp sống văn minh, thực hành tiết kiệm
đẩy lùi, tiến đến xoá bỏ tệ nạn xó hội và hoạt động phản văn hoá.
Đánh giá về những khó khăn, thuận lợi sau khi tái lập tỉnh, Hội nghị tỉnh uỷ lâm
thời lần thứ nhất họp trong hai ngày 20 và 21-1-1997 đó chỉ rừ: Những thuận lợi
cơ bản
đó là Hưng Yên là một vùng đất văn hiến, giầu truyền thống và tiềm năng. Đất đai
trù
phú, một số nghề truyền thống đang từng bước được khôi phục. Sau hơn 10 năm tiến
hành công cuộc đổi mới Hưng Yên bước đầu đó xây dựng được một số cơ sở vật chất.
Với vị trí nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phia Bắc, là cửa ngừ phia Đông của
Thủ đô
Hà Nội. Hưng Yên có thế mạnh lớn trong việc thu hút đầu tư trong nước và nước
ngoài,
dịch vụ và du lịch có nhiều triển vọng. Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên có truyền
thống đoàn
kết, ý chí quyết tâm xây dựng quê hương giầu đẹp. Việc tái lập tỉnh có ý nghĩa
quan trọng
giup Đảng bộ và chính quyền tỉnh có sự chỉ đạo sát sao hơn với thực tế địa
phương nhằm
khai thác thế mạnh, tiềm năng của tỉnh, bắt kịp với tỡnh hỡnh mới, cơ chế mới,
từ đó nhanh
chóng ổn định và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội của tỉnh. Bên cạnh
những thuận lợi,
Hưng Yên cũng đứng trước những khó khăn lớn sau khi tái lập tỉnh. Khó khăn lớn
nhất là
điểm xuất phát của tỉnh sau tái lập cũn thấp. GDP bỡnh quân đầu người năm 1966
khoảng
180 USD, thu nhập ngân sách trên địa bàn tỉnh chỉ đáp ứng 1/3 so với yêu cầu.
Trong nông
nghiệp, cùng với việc chuyển dịch cơ cấu, việc khảo nghiệm, đánh giá các loại
cây trồng
từng vùng, từng vụ chưa tốt, chưa gắn với quy trỡnh kỹ thuật đó hạn chế đến sản
xuất; hệ
thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp chưa phát triển đồng bộ; lực lượng lao động dư
thừa lớn, tỷ
lệ lao động được đào tạo có trinh độ kỹ thuật, tay nghề cũn thấp; bỡnh quân đất
nông nghiệp
trên đầu người thấp (đạt 580m2/người), ruộng đất đa phần cũn manh mún.
Ngành thương mại, dịch vụ và du lịch của tỉnh kém phát triển do chưa được đầu tư
quan tâm đúng mức. Du lịch hầu như chưa phát triển. Cơ sở vật chất của ngành
giáo dục
cũn nghèo nàn, thiết bị dạy và học cũn thiếu thốn, đặc biệt là đối với ngành học
mầm
non. Đội ngũ giáo viên thiếu và chưa đồng bộ. Nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân
dân
chưa được đáp ứng đầy đủ. Bộ máy và đội ngũ cán bộ cơ quan quản lý nhà nước, cơ
quan
sự nghiệp, các đơn vị kinh doanh của tỉnh vừa thiếu, vừa ít kinh nghiệm trên một
số lĩnh
vực.
Nhằm nâng cao vai trũ và năng lực lónh đạo của Đảng, tỉnh uỷ đó có Chỉ thị số
03-CT/TU về đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức
cơ
sở đảng đạt trong sạch vững mạnh. Tổ chức cơ sở đảng yếu kém từ 4,9% năm 1997
cũn
3,7% năm 1999. Năm 2000 có 408 tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) đạt trong sạch vững
mạnh (TSVM), đạt 79%, tăng 29 cơ sở so với năm 1999. Trong đó TCCSĐ tiêu biểu
được Tỉnh uỷ biểu dương 51, tăng 7 cơ sở so với năm 1999. TCCSĐ yếu kém từng mặt
12 cơ sở (2,4%). Có 5 TCCSĐ đạt TSVM từ 5 năm trở lên được Tinh uỷ biểu dương:
Đảng bộ Công ty may Hưng Yên; Đảng bộ xó Thuần Hưng (Khoái Châu); Đảng bộ xó
Quảng Châu (Tiên Lữ); Đảng bộ xó Phan Sào Nam (Phủ Cừ); Đảng bộ xó Tân Quang
(Văn Lâm). Năm 2001 co 424 TCCSĐ đạt trong sạch vững mạnh (81,38%), trong đó có
thành tích tiêu biểu được tỉnh biểu dương, khen thưởng 65 cơ sở; huyện, thị uỷ,
đảng uỷ
trực thuộc biểu dương khen thưởng 195 cơ sở; loại khá 87 cơ sở (16,70%); loại
yếu kém
10 cơ sở (1,92%). Trong đó Thị xó Hưng Yên có 39 tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) trên
47
TCCSĐ đạt trong sạch vững mạnh; huyện Tiên Lữ có 36/46; huyện Phủ Cừ có 26/36;
huyện Ân Thi có 33/50; huyện Kim Động có 33/47; huyện Khoái Châu có 41/55; huyện
Yên Mỹ có 35/42; huyện Mỹ Hào có 36/41; huyện Văn Lâm có 33/41; huyện Văn Giang
có 28/31 Đảng uỷ Quân sự có 6/6; Đảng uỷ Công an có 23/23 và Đảng uỷ các cơ quan
tỉnh có 55/59 TCCSĐ đạt trong sạch vững mạnh. Tổng số đảng viên đủ tư cách phát
huy
tác dụng tốt có 35.561 đạt 85,5%. Đảng viên đủ tư cách cũn hạn chế từng mặt có
5.656
chiếm 13,6%. Đảng viên vi phạm tư cách có 283 chiếm 0,7%. Đảng viên không đủ tư
cách phải đưa ra khỏi đảng 89 chiếm 0,21%. Kết quả kiểm tra của Uỷ ban kiểm tra
các
cấp có 45 tổ chức cơ sở đảng và 303 đảng viên vi phạm từng mặt [56, tr.20].
Tuy cũn nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần quyết tâm cách mạng, Đảng bộ và
nhân dân tỉnh Hưng Yên đó phát huy truyền thống vẻ vang của quê hương cách mạng
và
những thành tựu đạt được trong 10 năm đổi mới, để nhanh chóng vượt qua những khó
khăn thách thức của một tỉnh sau tái lập, cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi
mới.
1.2. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA ĐẢNG BỘ VỀ CÔNG TÁC XÂY
DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, được sự đồng ý của Bộ chính trị, Ban chấp
hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đó triệu tập Đại hội đại biểu đảng bộ Tỉnh
lần thứ
XIV.
Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XIV được tiến hành từ ngày 11
đến ngày 13 tháng 11 năm 1997. Dự Đại hội có 250 đại biểu đại diện cho hơn
45.000
đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội có nhiệm vụ đánh giá một năm sau khi tái lập
tỉnh, xây
dựng phương hướng nhiệm vụ ba năm 1998-2000 và bầu Ban chấp hành Đảng bộ. Từ
thực tiễn sau một năm tái lập tỉnh, đánh giá những kết quả đó đạt được, những
yếu kém
cũn tồn tại, Đại hội đó tổng kết một số kinh nghiệm bước đầu:
Một là, từ điểm xuất phát thấp,trên cơ sở đường lối chính sách của Trung ương và
các Nghị quyết của Tỉnh uỷ, tất cả các cấp, các ngành đều phải đầu tư nghiên
cứu, tỡm ra
bước đi thích hợp, nhằm tạo ra sự đột biến trên một số lĩnh vực. Nếu không tạo
ra được
sự đột biến thỡ Hưng Yên không theo kịp các tỉnh trong khu vực.
Hai là, đứng trước những khó khăn và thử thách gay gắt, những đũi hỏi bức súc
của cuộc sống ở một tỉnh vừa tái lập, các cơ quan đầu nóo ở địa phương phải thật
bỡnh
tĩnh, tự tin và gương mẫu, biết tháo gỡ khó khăn. Mở rộng dân chủ trong đảng để
đoàn
kết và thống nhất, biết dựa vào dân, biết khơi dậy ý chí tự lập, tự cường,
truyền thống yêu
nước tạo thành nguồn sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn trở ngại.
Ba là, trong tiến trỡnh xây dựng và phát triển phải biết vận dụng quan điểm
“phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, phát
triển sức
sản xuất phải gắn liền với hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, mở rộng kinh tế thị
trường
phải đi đôi với tăng cường quản lý, kiên quyết và tỉnh táo, hạn chế những mặt
tiêu cực
như suy thoái về đạo đức, tham nhũng và các tệ nạn xó hội khác.
Đại hội đó đề ra mục tiêu, phương hướng, và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xó hội
ba năm 1998 – 2000. Về mục tiêu phấn đấu đến năm 2000, Đại hội chỉ rừ: Tập trung
mọi
lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, đưa công cuộc đổi mới phát
triển một
cách toàn diện, đồng bộ, tăng trưởng kinh tế nhanh, vững chắc và có hiệu quả đi
đôi với
giải quyết những vấn đề bức súc về xó hội, tăng cường an ninh quốc phũng, cải
thiện một
bước đời sống nhân dân, chống quan liêu, tham nhũng, lóng phí, tạo tiền đề vững
chắc
cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000.
Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh xác định:
Tiếp tục kiện toàn hệ thống chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Xây
dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có kiến
thức và
năng lực, có uy tín, đủ sức lónh đạo nhân dân Hưng Yên vượt qua khó khăn thử
thách,
đẩy mạnh quỏ trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá, xây dựng tỉnh giầu mạnh, xó
hội
cụng bằng văn minh [3, tr.14].
Công tác xây dựng Đảng tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là: tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong trong Đảng.
Coi
trọng giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng
viên. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, tăng cường bản chất giai cấp công nhân một mặt phải
tăng
cường số đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân, nhưng điều chủ yếu và quyết
định là xây
dựng quan điểm, chính sách, tổ chức và sinh hoạt của Đảng bộ thực sự dựa trên
lập trường,
quan điểm của giai cấp cụng nhõn, cú ý thức tổ chức, kỷ luật cao, đi tiên phong
trên mọi lĩnh
vực, có bản lĩnh và trí tuệ, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực sự vỡ dõn,
chống chủ nghĩa
thực dụng, vụ kỷ luật, bố phỏi trong Đảng.
Hai là: nõng cao trỡnh độ trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn. Học tập là
nghĩa vụ
bắt buộc đối với mọi cán bộ đảng viên và được quy định thành chế độ của cấp uỷ.
Đối với cán
bộ chủ chốt của tỉnh, huyện và thị xó phải cú kế hoạch học tập lý luận, chuyờn
mụn, ngoại ngữ
và tin học. Đông thời phải thường xuyên sâu sát cơ sở kịp thời nắm bắt tâm tư
nguyện vọng
của quần chúng nhân dân.