Luận văn nghiên cứu chế biến rượu vang dừa
2,377
363
62
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 1
CHƯƠNG I ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tổng quan
Tất cả những bộ phận của dừa như: thân dừa, cơm dừa, gáo dừa, lá dừa, nước
dừa…. đều được sử dụng rông rãi trong đời sống hằng ngày. Trong đó nước dừa có
chứa gần như toàn bộ dưỡng chất cần cho cơ thể, nhiều vitamin nhóm B và chất
khoáng, nước lọc thực vật, acid amin, protein, glucose…Do đó, nước dừa thường
dùng
làm nước giải khát rất tốt, là nguồn thực phẩm bổ dưỡng cung cấp năng lượng cho
cơ
thể.
Trong thực tế đã có khá nhiều sản phẩm được chế biến từ quả dừa giúp cho người
nông dân tăng thêm thu nhập như: kẹo dừa, thảm xơ dừa, sữa dừa, cơm dừa nạo sấy,
nước dừa đóng lon.v.v…Hiện nay, tại các nhà máy cơm dừa nạo sấy cũng như các
điểm bán cơm dừa ở các chợ cho ra một lượng nước dừa rất lớn. Tuy nhiên, lượng
nước dừa này chỉ được sử dụng một phần trong chế biến thực phẩm, phần lớn còn
lại
chưa được tận dụng một cách hiệu quả. Mặt khác, nước dừa khi đổ xuống đất sẽ làm
đất chai; đổ xuống ruộng trồng lúa thì lúa xanh tốt nhưng không trổ bông vì có
đạm
thực vật; đưa xuống sông, hồ sẽ ảnh hưởng xấu đến môi trường. Từ thực trạng
trên,
việc “Nghiên cứu chế biến rượu vang dừa” sẽ góp phần tăng thêm thu nhập cho
người dân, giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường và cũng góp phần làm đa
dạng
hoá sản phẩm rượu vang đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
2. Mục tiêu thí nghiệm
Đạt được sản phẩm rượu vang dừa từ nước dừa thông qua phương pháp lên men
truyền thống, sản phẩm có hương vị thơm ngon.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài tiến hành các thí nghiệm sau:
- Khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng chất khô hòa tan trong dịch lên men, tỉ lệ
nấm men đến quá trình lên men và chất lượng sản phẩm.
- Khảo sát ảnh hưởng pH của dịch lên men đến quá trình lên men.
- Khảo sát ảnh hưởng của chất làm trong đến quá trình làm trong rượu.
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 2
CHƯƠNG II LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1. Nguyên liệu dùng trong nghiên cứu
1.1 Nguyên liệu nước dừa
Dừa được trồng nhiều ở Ấn Độ, Philippines, Srilanka, Mã Lai, Indonesia, Trung
Mỹ, quần đảo Cu Ba, quần đảo Nam Thái Bình Dương… Thảm thực vật trên các đảo
và bờ biển vùng Nam Thái Bình Dương chủ yếu là dừa.
Tại Việt Nam, dừa được trồng nhiều nhất ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long
như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu, Tiền Giang…Các giống dừa
trồng ở Việt Nam như: dừa ta, dừa Bị (dừa Bung), dừa Dâu, dừa Tam Quan, dừa
Nhím, dừa Xiêm, dừa Ẻo, dừa Sáp, dừa Thơm.
Nước dừa tươi (khoảng 7 tháng) là nước giải khát rất tốt, được dùng trong trường
hợp bị bệnh đường ruột, tiêu chảy, mữa để chống mất nước. Nước dừa tươi còn dùng
làm môi trường nuôi cấy mô vì có chứa chất điều hoà sinh trưởng và nó cũng là
nguyên liệu rẻ tiền để bảo quản hoa tươi… (Nguyễn Bảo Vệ, 2005).
1.2 Thành phần dinh dưỡng của nước dừa
Bảng 1. Thành phần dinh dưỡng của nước dừa
Chất dinh dưỡng Đơn vị Giá trị (100g)
Nước g 94,99
Protein g 0,72
Lipid tổng số g 0,2
Tro g 0,39
Carbohydrate g 3,71
Chất xơ g 1,1
Đường tổng số g 2,61
(USDA National Nutrient Database for Standard Reference, Release 19 (2006))
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 3
Bảng 2. Thành phần chất khoáng của nước dừa
Chất khoáng Đơn vị Giá trị (100g)
Ca mg 24
Fe mg 0,29
Mg mg 25
P mg 20
K mg 250
Na mg 105
Zn mg 0,1
Cu mg 0,04
Mn mg 0,142
Se mg 1
(USDA National Nutrient Database for Standard Reference, Release 19 (2006))
Bảng 3. Thành phần vitamin của nước dừa
Vitamin Đơn vị Giá trị (100 g)
Acid ascorbic mg 2,4
Thiamin mg 0,03
Riboflavin mg 0,057
Niacin mg 0,08
Acid pantothenic mg 0,043
B
6
mg 0,032
(USDA National Nutrient Database for Standard Reference, Release 19 (2006))
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 4
Bảng 4. Thành phần acid amin của nước dừa
Acid amin Đơn vị Giá trị (100 g)
Tryptophan g 0,008
Threonine g 0,026
Isoleucine g 0,028
Leucine g 0,053
Lysine g 0,032
Methionine g 0,013
Cystine g 0,014
Phenylalanine g 0,037
Tyrosine g 0,022
Valine g 0,044
Arginine g 0,118
Histidine g 0,017
Alanine g 0,037
Acid aspartic g 0,07
Acid glutamic g 0,165
Glycine g 0,034
Proline g 0,03
Serine g 0,037
(USDA National Nutrient Database for Standard Reference, Release 19 (2006))
2. Nấm men
2.1 Đặc tính chung của nấm men
Quá trình lên men rượu được thực hiện nhờ loài Saccharomyces, loài này có tính
kỵ khí không bắt buộc, chúng có khả năng hô hấp và lên men, khả năng lên men của
chúng rất khác nhau. Sinh trưởng kỵ khí nghiêm ngặt ở Saccharomyces cerevisiae
chỉ
xảy ra ở một vài thế hệ, bởi vì sự tổng hợp sterol cần cho việc hình thành cấu
trúc
màng tế bào đòi hỏi phải có oxy. Nếu sterol và các acid béo chưa no được cung
cấp thì
nấm men có thể sinh trưởng trong điều kiện kỵ khí nghiêm ngặt trong tự nhiên
như:
trong đất, thực phẩm, rau quả. Nấm men sẽ sinh sản bằng nha bào trong điều kiện
nuôi
cấy không thuận lợi hoặc môi trường quá nghèo dinh dưỡng.
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 5
Tế bào nấm men có hình thái và kích thước khác nhau. Tuỳ loài, tuỳ giống, chúng
có thể hình cầu, hình bầu dục, hình trứng, hình quả chanh, hình ống. Tuỳ theo
loại,
giống và điều kiện sinh trưởng kích thước tế bào nấm men khác nhau rất nhiều,
chúng
có thể thay đổi trong khoảng 1,5 – 5,3 µm hay có khi dài hơn nữa, các loại nấm
men
thường dùng trong sản xuất rượu bia có kích thước khoảng 4 – 7 µm (Bùi Thị Quỳnh
Hoa).
Hình 1. Nấm men Saccharomyces
Bảng 5. Thành phần hoá học của nấm men
Các chất Thành phần (%)
Cacbon 49,8
Cao 12,4
Nitro 6,7
Hydro 3,54
P
2
O
5
2,34
K
2
O 0,04
SO
3
0,42
MgO 0,38
Fe
2
O
3
0,035
SiO 0,09
(Nguyễn Đức Lượng , 1996)
2.2 Dinh dưỡng của nấm men
Nấm men tiếp nhận thức ăn bằng con đường hấp thụ chọn lọc trên bề mặt tế bào
và sau đó khuếch tán vào bên trong. Màng và lớp bao bọc nguyên sinh chất của tế
bào
trong trường hợp này đóng vai trò là màng bán thấm, điều khiển các chất dinh
dưỡng
vào tế bào và thải ra môi trường xung quanh những sản phẩm của hoạt động sống.
Để
cho tế bào dễ hấp thụ, các chất dinh dưỡng phải là những chất có nguyên tử lượng
thấp
và hoà tan trong nước, một phần các chất dinh dưỡng chuyển hoá các hợp chất cao
phân tử (protid, glucid, lipid…) trong tế bào và xây dựng thành tế bào mới.
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 6
Nấm men sinh sản trong môi trường nước đường, lọc tách men, rửa, ép bỏ nước
sẽ được men bánh hay gọi là men ép.
Nước trong nấm men gồm hai dạng: dạng tự do bám ở ngoài màng tế bào khoảng
28% và dạng kết hợp khoảng 47%. Thành phần các chất không phụ thuộc vào giống
nấm men.
Nấm men cũng giống như các cơ thể thực vật khác cần oxi, cacbon, nitơ,
phospho, kali, magiê…. trong đó:
* Oxy, hydro, cacbon
Oxy, hydro cung cấp cho tế bào từ nước của môi trường. Nguồn cung cấp cacbon
là các loại đường khác nhau. Ở những giai đoạn nhất định, nấm men còn sử dụng
nguồn cacbon của acid amin.
* Nitơ
Nấm men không có men ngoại để phân giải protid, cho nên không thể phân cắt
alblumin của môi trường thành chất có khả năng đồng hoá mà phải cung cấp nitơ ở
dạng hoà tan. Có thể là đạm hữu cơ hoặc vô cơ. Dạng hữu cơ thường được sử dụng
là
acid amin, pepton, amid, ure. Đạm vô cơ là muối amon khử nitrat, sulfat.
* Các vitamin
Vitamin B
1
(thiamin), B
2
(riboflavin), B
3
(acid pentotenic), B
5
(PP – acid
nicotic)…
* Chất khoáng
Chất khoáng có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động sống của tế bào nấm men. Trước
hết là phospho, có trong thành phần của nucleoprotein, polyphosphat của nhiều
enzyme và của sản phẩm trung gian của quá trình lên men rượu, chúng tạo ra mối
lên
kết có năng lượng lớn. Lưu huỳnh tham gia vào thành phần của một số acid amin,
albumin, vitamin và enzyme, một số nguyên tố vi lượng như magie, sắt có ảnh
hưởng
đến quá trình sinh lý, sinh hoá của nấm men. Magie tham gia vào nhiều phản ứng
trung gian của sự lên men. Sắt tham gia vào thành phần enzyme sự hô hấp và các
quá
trình khác. Nấm men chứa nhiều kali, nó thúc đẩy sự phát triển của nấm men tham
gia
vào sự lên men rượu, tạo điều kiện hồi phục phosphorin hoá của acid pyruvic.
Mangan
đóng vai trò tương tự magie (Bùi Thị Quỳnh Hoa).
2.3 Nấm men thường gặp trong sản xuất rượu vang trái cây
Saccharomyces vini
Đây là loại phổ biến trong lên men nước quả, chiếm 80% tổng số có trong nước
quả lên men. Khả năng kết lắng của nó phụ thuộc vào từng chủng: các tế bào dạng
bụi
hoặc dạng bông.
Nguồn cacbon của nấm men này là đường, cồn và acid hữu cơ, những tác nhân
sinh trưởng là acid pantotinic, biotin, thiamin và piridoxin.
Đa số các tế bào loại này hình ovan, có kích thước từ (3 – 8) x (5 – 12) µm.
Sinh
sản theo lối nảy chồi và tạo bào tử. Saccharomyces vini sinh ra enzym invectase
có khả
năng khử đường saccarose thành glucose và fructose. Vì vậy, trong lên men ta có
thể
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 7
bổ sung loại đường này vào dung dịch quả và hàm lượng rượu được bình thường.
Chủng này lên men chỉ đạt 8 – 10% hàm lượng rượu theo thể tích. Ở giai đoạn cuối
lên
men Saccharomyces vini kết lắng nhanh và làm trong dịch rượu.
Các chủng giống này có đặc tính riêng về khả năng chịu cồn, chịu sulfit, tạo
thành
các cấu tử bay hơi và các sản phẩm thứ cấp làm cho rượu vang có mùi vị đặc trưng
riêng biệt.
Giai đoạn cuối cùng của quá trình lên men các tế bào Saccharomyces vini thường
già, không tiếp tục chuyển đường thành cồn và bị chết rất nhanh.
Saccharomyces uvacum
Loại này được tách ra từ nước quả nho, rượu và nước quả giúp bào tử lên men tự
nhiên, về hình thái nó không khác với các loài khác. Khả năng sinh bào tử khá
mạnh
trong môi trường thạch – malt. Các chủng của loài này có thể lên men đạt 12 – 13
0
cồn
trong dịch nước nho.
Saccharomyces chevalieri
Nấm men này được tách ra từ nước nho lên men tự nhiên, từ rượu vang non được
gây men từ nước dừa. Saccharomyces chevalieri thuần chủng lên men nước nho có
thể
tạo 16
0
cồn. Nó thường lẫn với Saccharomyces vini.
Saccharomyces ovifromis
Được tách ra từ nước nho tự lên men, những loài nấm men này ít hơn so với
Saccharomyces vini. Giống thuần chủng phát triển tốt trong nước nho và các loại
nước
quả khác, có khả năng chịu được độ cồn cao, lên men kiệt đường và có thể tạo
thành
tới 18
0
cồn. Các yếu tố sinh trưởng của loài này giống như Saccharomyces vini. Dùng
chủng thuần khiết của giống này lên men dịch quả có hàm lượng đường cao để chế
vang khô cho kết quả tốt.
Trong quá trình lên men, giống này tạo thành trên dịch quả. Saccharomyces
ovifromis lên men được glucose, fructose, saccarose, maltose, manose và 1/3
rafinose;
nó không lên men được lactose và pentose. Điều khác cơ bản của Saccharomyces
ovifromis với Saccharomyces vini là không lên men được galactose và men nổi trên
bề
mặt dịch lên men tạo thành màng.
Nhìn chung, hai giống men rượu vang Saccharomyces ovifromis và
Saccharomyces vini có nhiều chủng loại được dùng trong sản xuất. Nhiều chủng men
rựơu có nhiệt độ thích hợp là 18 – 25
0
C, ở 35
0
C sự sinh sản của nó bị ức chế, ở 40
0
C
sự sinh sản của nó bị ngừng hoàn toàn, ở nhiệt độ 16
0
C sự sinh sản và lên men bị kéo
dài. Các điều kiện hoá lý, thành phần chất lượng dịch quả, cũng như pH của môi
trường có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sống của nấm men (Bùi Thị Quỳnh Hoa).
3. Thành phần của rượu vang
Thành phần rượu vang gồm các nhóm sau đây:
3.1 Cồn
Cồn là thành phần quan trọng nhất của rượu vang và người ta uống rượu trước hết
là vì có cồn ethylic làm cho rượu mạnh, uống vào gây hiện tượng sinh lý gọi là
say.
Cồn ethylic có mùi thơm, vị hơi ngọt giống đường do đó những rượu không có đường
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 8
như rượu trắng khi uống vào vẫn có vị ngọt. Độ cồn phổ biến của rượu vang là 10
–
12
0
. Dưới 10
0
rượu hơi lạt, 13 - 14
0
thì độ cồn hơi cao, uống vào sẽ chóng say, không
uống được nhiều và nguời ta uống rượu vang không phải chỉ vì có cồn. Nếu cồn
thấp
có thể cho thêm cồn ethylic tinh khiết.
3.2 Đường
Hàm lượng đường ở rượu vang nho đỏ là 2 - 3 g/l và đường trong rượu vang chủ
yếu là fructose, glucose và một ít galactose. Nếu cho thêm đường saccharose vào
trước
khi lên men thì toàn bộ thủy phân thành đường khử. Vì vậy, nếu phát hiện
saccharose
trong rượu vang thành phẩm là đường pha thêm.
Tùy theo lượng đường khử còn lại trong rượu vang đã lên men xong mà người ta
phân biệt rượu vang:
- Vang khô : lượng đường dưới 10 g/l.
- Vang nửa khô: lượng đường từ 20 - 30 g/l.
- Vang nửa ngọt: lượng đường từ 45 - 65 g/l.
- Vang ngọt: lượng đường từ 80 - 110 g/l.
Lượng đường khử càng cao thì độ cồn phải cao để giữ cân đối. Độ cồn của rượu
khô chỉ từ 9 - 11
0
, rượu ngọt thì độ cồn từ 12 - 13
0
và hơn nữa.
Rượu vang còn nhiều đường khử. Đặc biệt khi độ cồn còn thấp rất dễ bị nhiều loại
vi khuẩn yếm khí cũng như hiếu khí phá hủy đường chuyển thành acid lactic, dấm
làm
mất mùi vị của rượu.
3.3 Acid
Là thành phần quan trọng của rượu vang, ngang với cồn. Rượu vang là thức uống
có độ chua cao (acid tổng số tới 4 – 5 g/l, pH từ 2,9 - 3,9) nhưng dễ uống vì vị
chua
của acid được cân đối bởi vị ngọt của cồn và glycerine, vị chát của polyphenol,
vị mặn
của muối.
Acid hữu cơ trong rượu vang còn có tác dụng là ngăn cản hoạt động của các vi
khuẩn làm hỏng rượu. Định lượng acid hữu cơ khó hơn acid vô cơ nhiều do đó người
ta chưa biết hết acid của rượu vang quả, nhất là ở miền nhiệt đới.
3.4 Tro và các muối
Có nhiều muối khoáng trong rượu vang quả phổ biến nhất là P, S, K, Na, Ca, Mg,
F
2
, I
2
….Mặc dù lượng thấp khoảng 1,5- 3 g/l rượu vang nhưng chất muối trong tro giữ
vai trò quan trọng.
- Làm tăng hương vị của rượu
- Làm tăng giá trị dinh dưỡng do trong rượu có nhiều chất muối hết sức cần thiết
cho cơ thể sống với một lượng nhỏ.
Những chất vi lượng như Fe hàm lượng bình thường chỉ vài mg/l và Cu là 0,2 –
0,3 mg/l. Nếu chỉ tăng vài mg/l cũng gây kết tủa làm rượu đục và mất hương vị.
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 9
3.5 Chất gây mùi thơm
Quả tươi, đặc biệt như quả nhiệt đới: xoài, dứa rất thơm. Đó là mùi thơm do các
chất nguồn gốc tecpen quyết định nhưng đại bộ phận các chất này bị phân hủy và
bị
khí CO
2
kéo theo trong quá trình lên men. Về phần mình, con men cũng sản sinh ra
những chất có mùi thơm trong đó có cồn cao phân tử và ester của chúng. Trong quá
trình rượu chín phát sinh ra một mùi thơm đặc biệt gọi là bukê (bouguet) do các
chất
oxi hóa khử gây ra, nhưng ở dạng khử oxi mới thơm, vì vậy giữ rượu vang quả
trong
bình nút kín hoàn toàn không có oxy một thời gian dài thì có mùi thơm. Nếu trong
bình có chỗ trống và nút không kín oxy lọt vào thì mùi thơm bị phân hủy rất
nhanh.
3.6 Vitamin
Nuớc quả có tiếng là giàu vitamin nhưng nó có bị phá hủy trong quá trình lên men
hay không? J. Riberô – Gayon viết như sau: “ Nói tóm lại, lên men rượu điều
chỉnh lại
phần vitamin của nước quả, có phần bổ sung thành phần đó. Chớ tưởng rằng lên men
phá hủy hết vitamin của nước quả. Thực ra, đó là kĩ thuật tốt để giữ lại các
vitamin
đó”.
3.7 Polyphenol
Hợp chất phức tạp chỉ có trong vỏ quả do đó khi chế biến bằng nước quả không
có xác (vang trắng) rất ít polyphenol. Ngược lại, khi cho lên men cả nước và xác
quả
thì trong rượu vang có nhiều polyphenol (vang đỏ).
Polyphenol bao gồm nhiều hóa chất khác nhau:
- Acid phenolic: acid benzoic, acid xinamin…
- Flavon làm cho rượu có màu vàng.
- Antoxian làm cho rượu có màu đỏ.
Tanin dễ kết bông với protein trong nước quả, cũng dễ oxi hóa làm cho rượu có
màu tối.
Polyphenol chỉ có nhiều trong rượu vang đỏ, làm cho rượu có màu, có vị chát, và
tạo những điều kiện không thuận lợi cho khuẩn có hại (Vũ Công Hậu, 1983).
4. Sản phẩm phụ và sản phẩm trung gian trong quá trình lên men rượu vang
4.1 Sự tạo thành acid
Trong quá trình lên men rượu luôn tạo các acid hữu cơ bao gồm: acid acetic,
lactic, citric, pyruvic và succinic nhưng nhiều hơn cả là acetic và lactic.
* Acid acetic
Nó có thể tạo thành từ phản ứng oxy hoá khử giữa hai aldehyde acetic - một phân
tử bị oxy hoá, phân tử thứ hai sẽ bị khử:
CH
3
CHO + CH
3
CHO + H
2
O → CH
3
COOH + C
2
H
5
OH
* Acid lactic
Nó được tạo bởi pyruvat dehydronase theo phản ứng:
CH
3
CO.COOH + NAD.H
2
→ CH
3
CHOHCOOH + NAD
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 10
* Acid citric
Theo Lapphon được tạo từ aldehyde acetic phản ứng này được biểu diễn tổng quát
như sau:
9CH
3
OH + 4H
2
O → (CH
2
COOH)
2
(OH)
2
COOH + 6C
2
H
5
OH
* Acid succinic
Acid này được tạo thành có thể theo hai con đường: dehydro và trùng hợp hai
phân tử acid acetic với aldehyde acetic:
2CH
3
COOH + CH
3
CHO → COOHCH
2
COOH + C
2
H
5
OH
4.2 Sự tạo thành alcohol cao phân tử
Một trong những sản phẩm phụ quan trọng được tạo thành trong quá trình lên men
rượu, là các rượu có số nguyên tử cacbon lớn hơn hai (gọi chung là alcol cao
phân tử).
Các alcol này tuy ít nhưng lẫn vào cồn etylic sẽ gây ảnh hưởng xấu tới chất
lượng sản
phẩm. Đó là các alcol propylic, isoamylic, amylic… hàm lượng của chúng chỉ vào
khoảng 0,4 – 0,5% so với cồn etylic nhưng gây cho sản phẩm mùi hôi khó chịu. Các
alcol này có tên chung là dầu fusel và chỉ có mùi hôi khó chịu nên gọi là dầu
khét.
4.3 Sự tạo thành ester
Song song với việc tạo ra acid và alcol, dưới tác dụng của enzym esterase của
nấm men, các acid và alcol sẽ tác dụng lẫn nhau để tạo ra những este tương ứng.
Có
thể viết dưới dạng tổng quát sau:
R
1
CH
2
OH + R
2
COOH → R
2
COOCH
2
R
1
+ H
2
O
Ví dụ: khi alcol etylic kết hợp với acid acetic là sẽ nhận được este etylic hay
acetat etyl:
C
2
H
5
OH + CH
3
COOH → CH
2
COOC
2
H
5
+ H
2
O
Sự tạo thành este sẽ dễ dàng hơn khi các cấu tử tham gia phản ứng là các
aldehyde:
R
1
CHO + R
2
CHO → R
1
COOCH
2
R
2
Khi đó tất cả biến đổi của aldehyde sẽ được thực hiện mà không cần tiêu tốn năng
lượng.
Các aldehyde cũng có thể ngưng tụ với nhau để tạo ra chất mới, vừa có nhóm –
CHO vừa có chứa nhóm – OH.
CH
3
CHO + CH
3
CHO → CH
3
CHOHCH
2
CHO
Khi tác dụng với alcol etylic, aldehyde acetic sẽ biến thành dietyl acetat:
CH
3
CHO + 2C
2
H
5
OH → CH
3
CH(OC
2
H
5
)
2
+ H
2
O
Dựa vào các kết quả thu được trong phòng thí nghiệm cũng như trên thực tế sản
xuất, người ta nhận thấy rằng lượng sản phẩm phụ và sản phẩm trung gian tạo
thành
trong các quá trình lên men, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, chúng thay đổi theo
nhiệt
độ, pH, mức độ sục khí cũng như chủng nấm men và cả nguồn nguyên liệu.