LUẬN VĂN:Một số giải pháp thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng
9,242
386
43
IV. Quá trình chuẩn bị cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
1. Khuôn khổ pháp lý.
Đầu năm 1990, việc nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và phân tích các điều
kiện ra đời cho thị trường chứng khoán Việt Nam đã được thực hiện. Trên cơ sở đó
một
số bản đề án hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam đã được xây dựng và
trình
Chính phủ xem xét. Năm 1994 ban chỉ đạo soạn thảo pháp lệnh về thị trường chứng
khoán bao gồm đại diện của Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp…đã được
thành lập để thống nhất đầu mối, triển khai xây dựng đề án về thị trường chứng
khoán
và soạn thảo một số văn bản pháp qui liên quan.
1.1. Thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)
UBCKNN được thành lập từ ngày 28/11/1996, là cơ quan thuộc Chính phủ, có
chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Nhiệm vụ của UBCKNN:
Xây dựng hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Tổ chức xây dựng, phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Cấp, đình chỉ hay thu hồi giấy phếp hoạt động của các định chế tài chính hoạt
động
trên thị trường chứng khoán.
Tổ chức giáo dục, đào tạo và cấp chứng chỉ cho mọi đối tượng tham gia thị
trường
chứng khoán.
UBCKNN có trụ sở đặt tại Hà Nội và một cơ quan đại diện tại Tp Hồ Chí Minh .
Sơ đồ: Tổ chức bộ máy UBCKNN Việt Nam
Các uỷ viên kiểm nhiệm
- Một thứ trưởng Bộ khế
hoạch
- Một thứ trưởng Bộ tài
chính
C
ơ
quan đ
ạ
i di
ệ
n Tp -HCM
Văn phòng
Vụ phát triển
TTCK
Vụ quản lý kinh
doanh ch
ứ
ng khoán
Vụ quản lý phát
hành ch
ứ
ng khoán
V
ụ
quan h
ệ
qu
ố
c
V
ụ
t
ổ
ch
ứ
c cán
Chủ tịch
Phó chủ
t
ị
ch
Sơ đồ: TTCK Việt Nam và các tổ chức liên hệ.
Nghị định 48/1998 NĐ-CP là khung pháp lý cơ bản đầu tiên về thị trường chứng
khoán Việt Nam, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng
và
phát triển thị trường chứng khoán. Nghị định này đã nêu lên một số nguyên tắc cơ
bản
về quản lý và phát hành chứng khoán ra công chúng, về thị trường giao dịch tập
trung,
phạm vi kinh doanh của các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, sự tham gia của các
nhà
đầu tư nước ngoài, những hành vi hạn chế, cấm trên thị trường chứng khoán Việt
Nam.
Những văn bản trên đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành và phát triển
thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.2. Qui chế phát hành.
Uỷ ban chứng khoán Nhà
Cơ quan tư vấn
Công ty CK1
Công ty CK2
Công ty CK3
Dân
chúng
Ngườ
i
tiế
t
k
i
ệ
m
Nhà
đầu
tư
Doanh
nghiệ
p
Quỹ
đầu
tư
Quỹ
bảo
hiểm
Quỹ
tươn
g hỗ
Kho
bạc
Nhà
n
ư
ớ
c
Chính
quyền
địa
ph
ươ
n
Trung tâm thông
tin
- Thông tin
-
Thanh toán
Trung tâm giao
dịch chứng
khoán
Công ty kiểm
toán
*******
Phát hành cổ phiếu, tức là công ty bán cổ phần thu tiền hoặc các tài sản khác
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. ở đây có hai vấn đề cần xem xét: Loại
lượng hàng hoá đem bán và phương thức bán. Trong đó chú ý đến phương thức bán
(phát hành) gồm các phát hành rộng (ra công chúng) và phát hành hẹp (có địa
chỉ).
Phát hành hẹp: số lượng người mua không lớn và chỉ phát hành cho các công ty
đầu tư.
Phát hành rộng: có đặc điểm ngược với phương thức phát hành hẹp.
Ta có sơ đồ của quy trình phát hành rộng:
Trên đây là quy chế phát hành chứng khoán ra công chúng. Để cho các công ty
cổ phần tận dụng hết khả năng và cơ hội huy động vốn thì ngoài luật DN hiện hành
cần
hoàn thiện luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để thị trường chứng
khoán
hoạt động có hiệu quả.
Công ty phát hành
chứng khoán
(CP,Tp
Ch
ứ
ng ch
ỉ
đ
ầ
u
Hồ sơ xin
cấp giấy
phép PHCK
UBCKNN
Phát
hành
CP
Lần
đầu
tiên
Các
điều
kiện
phát
hànhC
P
Lần PH
Thêm
tổng
giá
trị
CP đang
Giá
trị
CPPH
tổng
giá
tr
ị
CP
Các
điều
kiện
để tổ
chứ
c
sử
dụng
Phát
hành
thêm
CP
Phát
hành
TP
Công bố
việc PH
(5
ngày)
Chào bán
(90
Đình
ch
ỉ
Thu
hồi
Gi
ấ
y
Nộp lệ
phí cấp
giấy
phép
Chế độ
báo cáo
(10 ngày
sau khi
k
ế
t thúc
Không cấp phép (hồ sơ không hợp
l
ệ
)
Cấp phép(45
ngày) Trừ Tp
Chính phủ
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(8)
(8)
1.3. Phương thức và quy mô hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán
Việt Nam.
Về quy mô thị trường giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh được tổ chức khá
khiêm tốn, phù hợp với chức năng , vai trò của nó trong giai đoạn đầu.
Về cơ cấu tổ chức:
Tất cả có hơn 80 các bộ công nhân viên làm việc tại trung tâm giao dịch chứng
khoán.
Về chức năng: đây là thị trường tập trung của các chứng khoán niêm yết được
phát hành ra công chúng. Các chức năng là: quản lý, điều hành và giám sát các
hoạt
động giao dịch nhằm đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động giao dịch an
toàn
công khai, công bằng và hiệu quả bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Hệ thống giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán là hệ thống giao dịch tự
động có khả năng xử lý 300 000 lệnh giao dịch/ ngày, với trang thiết bị và bảng
điện tử
tiêu chuẩn. Hệ thống này cho phép tiến hành theo hai phương thức: (1) Khớp lệnh
định
kỳ và (2) thoả thuận (áp dụng riêng cho các giao dịch với khối lượng lớn).
Về tầm quan trọng trung tâm giao dịch chứng khoán là tiền đề cho việc thành lập
sở giao dich chứng khoán Việt Nam và cũng là bước tất yếu trong giai đoạn đầu
hình
thành thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế
giới
việc thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ rút ngắn được thời gian chuẩn
bị các
điều kiện vật chất tiền đề, con người và khung pháp lý cho việc thử nghiệm thành
lập thị
trường chứng khoán ở Việt Nam.
Ban giám đốc điều hành
Hành
chính
nhân
sự
Quản
lý
thành
viên
Quản
lý niêm
yết
Quản
lý giao
dịch
Giám sát
thị
trường
Đăng ký lưu
ký thanh
toán bù trừ
Công
nghệ
tin
học
Nghiên cứu
thông tin
thị trường
2. Về hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chuẩn bị hàng phong phú và chất lượng là công tác then chốt trong việc tổ chức
thị trường chứng khoán. Vì vậy cần phải thúc đẩy và nắm bắt cụ thể tình hình
CPH,
khối lượng chứng khoán hiện có, cũng như khả năng thực tế và nguyện vọng của các
DN phát hành và niêm yết trái phiếu, cổ phiếu.
a) Trái phiếu: Trái phiếu được niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán bao
gồm trái phiếu Chính phủ và trái phiếu DN.
- Trái phiếu Chính phủ: được phát hành để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước
và phục vụ đầu tư phát triển. Bao gồm các loại như: tín phiếu kho bạc (< 1 năm),
traí
phiếu kho bạc (> 1 năm) hoặc trái phiếu công trình - và đều do Bộ tài chính phát
hành.
- Thị trường trái phiếu Chính phủ những năm gần đây có xu hướng tăng. Tuy
nhiên, do tính chất của tín phiếu kho bạc là thời gian ngắn nên rất kém hiệu quả
trong
việc tạo cầu hàng hoá chứng khoán. Đối với trái phiếu công trình phải duy trì
được liên
tục nếu không cũng rất nhanh hết thời hạn. Bên cạnh đó, việc phát hành trái
phiếu xây
dựng tổ quốc cũng góp nguồn cung cấp hàng hoá quan trọng cho thị trường chứng
khoán Việt Nam hiện nay. Dự kiến số lượng huy động khoảng 3000-4000 tỷ đồng
trong
năm 1999, với thời hạn 5 năm, in mệnh giá, không ghi tên có thể chuyển nhượng và
dễ
dàng thanh toán.
- Về lãi suất phát hành có xu hướng giảm và phù hợp với lãi suất của các NHTM.
Bảng: lãi suất tín phiếu, trái phiếu bán lể qua hệ thống kho bạc.
Nguồn: kho bạc Nhà nước. Đơn vị: %
1991 1992 1993-1994 1995 1996 1997 1998
4-5 % 3 % 2% 1,75 % 1,4 % 1 % 0,97 %
b) Cổ phiếu và cổ phần hoá doanh nghiêp Nhà nước.
Theo luật công ty và luật DNNN Việt Nam thì chỉ có công ty cổ phần và DNNN
có quyền phát hành cổ phiếu. Hiện nay, có khoảng 200 CTCP và 5800 DNNN trong đó
chỉ có vài trăm DN có cổ phiếu. Và hiện nay, có khoảng hơn 50 NHCP và tổng số
vốn
điều lệ là 2200 tỷ đồng do các cổ đông đóng góp. Đa số các cổ đông là các NHTM,
tổng
công ty và một phần nhỏ là do cá nhân nắm giữ.
Về tư tưởng CPH bắt đầu từ Đại hội VI. Tính đến cuối năm 1998 đã có 116
DNNN đã CPH với tổng số vốn điều lệ ttrên 700 tỷ đồng; đến giữa tháng 9 có
khoảng
trên 154 DN đã CPH. Hiện nay (cuối 9/2000) có khoảng 470 DNNN đã hoàn thành
công việc CPH. Tuy còn chưa đạt chỉ tiêu mà Chính phủ đặt ra song kết quả trên
cũng
góp phần lớn để tạo “hàng hoá” cho thị trường chứng khoán nước ta hiện nay.
3. Vấn đề tạo nguồn nhân lực cho thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán đòi hỏi đổi ngũ nhân viên tinh thông nghiệp vụ, có bản
lĩnh phẩm chất tốt. ở Việt Nam, nói chung các yêu cầu này chưa được đảm bảo.
Về đào tạo cán bộ: Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các trường đại học, các
viện nghiên cứu đã tổ chức một số khoá đào tạo về thị trường chứng khoán. Tuy
nhiên,
vẫn còn mang tính chất phôi thai, chưa có hệ thống.
Ngày 5/12/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1038/1997/
QĐ-TTg về việc thành lập trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiêp vụ
chứng khoán và thị trường chứng khoán, Năm 1999, để đáp ứng nhu cầu đào tạo,
trung
tâm đã có chương trình đào tạo của mình, có nhiệm vụ trang bị kiến thức và kỹ
năng
cho tất cả những ai muốn nắm bắt về lĩnh vực này.
Chương III. Một số giải pháp, kiến nghị thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng
khoán Việt Nam
I. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam
Trên thế giới từ lâu đã tồn tại mô hình thị trường chứng khoán hai cấp: thị
trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp còn gọi là thị trường giao dịch phi tập trung (OTC-over the
counter). Thị trường này được hình thành và phát triển một cách tự phát từ nhiều
năm
nay, và giao dịch các loại chứng khoán chưa niêm yết. Mặc dù thị trường OTC là
sân
chơi khá phù hợp và hiệu quả đối với các DN Việt Nam, nhưng chính phủ ta vẫn
chưa
có khuôn khổ pháp lý cho loại hình thị trường này hoạt động.
Thị trường thứ cấp hay thị trường giao dịch tập trung tại trung tâm giao dịch
chứng khoán, giao dịch các loại chứng khoán dã niêm yết. Về cơ cấu tổ chức của
thị
trường chứng khoán tập trung thì tuỳ vào từng điều kiện cụ thể ở mỗi nước mà có
những đăc điểm khác nhau. Đối với nước ta, trong giai đoạn đầu hoạt động, cơ cấu
tổ
chức bao gồm:
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN).
Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK).
Hệ thống các công ty chứng khoán (CtyCK) và hiệp hội những nhà kinh
doanh chứng khoán.
Các quỹ đầu tư chứng khoán.
Các tổ chức nghiên cứu và tư vấn về chứng khoán.
Các cơ quan kiểm toán độc lập.
Các tổ phụ trách về thông tin trên thị trường chứng khoán.
1. Hoàn thiện trung tâm giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh.
Trung tâm giao dịch chứng khoán là bước phát triển tất yếu trong giai đoạn đầu
hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam và cũng là tiền đề cho việc thành lập
sở
giao dịch chứng khoán Việt Nam (SGDCK). Sỡ dĩ Việt Nam chưa thành lập SGDCK là
vì cơ chế vận hành của nó phức tạp bao gồm từ khâu đăng ký, niêm yết, giao dịch,
thanh
toán bù trừ và lưu ký chứng khoán đòi hỏi phải tuân thủ những quy định rất
nghiêm
ngặt,và cần có cơ sở hạ tầng tốt, trong đó bao gồm các yếu tố: cơ sở vật chất kỹ
thuật,
công nghệ, con người và khung pháp lý hoàn chỉnh đáp ứng được yêu cầu trong quá
trình vận hành.
Về thực chất, trung tâm giao dịch chứng khoán hoạt động như một SGDCK thu
nhỏ, có hình thức thích hợp hơn đối với giai đoạn đầu phát triển thị trường
chứng khoán
ở nước ta hiện nay. Và vì vậy hoạt động của TTGDCK cũng phải đáp ứng những yêu
cầu trên của UBCKNN.
Về số lượng TTGDCK cũng là vấn đề có nhiều tranh cãi. Hiện nay ngoài
TTGDCK Tp Hồ Chí Minh còn có nhiều ý kiến cũng như bản đề án thành lập TTGDCK
Hà Nội. Cần khẳng định rằng không phải cứ nhiều TTGDCK trên một nước là tốt. Tuy
nhiên, có thể mở thêm chi nhánh hoặc sàn giao dịch tại Hà Nội và được nối mạng
với
trụ sở chính.
Về các thành viên tham gia TTGDCK là các công ty chứng khoán được
UBCKNN cấp giấy phép hoạt động. Các công ty chứng khoán tham gia là các CtyCP
hoặc các công ty TNHH độc lập hình thành từ các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần,
công ty tài chính, Bảo hiểm hoặc các tổng công ty mạnh được UBCKNN cấp giấy phép
hoạt động.
Ngoài ra, để TTGDCK Tp Hồ Chí Minh hoạt động có hiệu quả thì cần quán triệt
các chức năng, nhiệm vụ: Tổ chức quản lý điều hành và hoàn thiện hệ thống giao
dịch…cũng như ngăn chặn, xử lý các hành vi không công bằng, gian lận. Công bố
thông
tin, đưa ra các chỉ số phân tích tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư, từ đó
tạo sức
mạnh cho sự phát triển thị trường chứng khoán.
2. Hoàn thiện cơ cấu các tổ chức liên quan.
Công ty chứng khoán và trung gian tài chính: Hầu hết ở các nước, các CtyCK,
các TGTC độc lập với hoạt động của Ngân hàng. Nhưng do đặc điểm của hệ thống tài
chính Ngân hàng nước ta chưa phát triển, nên không thể xây dựng một hệ thống các
CtyCK và các TGTC ngay từ đầu mà phải sử dụng ngay các tổ chức hiện tại và từng
bước có hướng chuyển đổi và bổ sung chức năng cho hựp lý. Mặt khác, chúng ta nên
mở cửa mời các CtyCK nước ngoài tham gia liên doanh với Việt Nam để học hỏi kinh
nghiệm và chuyển giao công nghệ. Ngoài ra, cần có các CtyCK Nhà nước, nhằm can
thiệp thị trường, bình ổn thị trường giao dịch chứng khoán thông qua các biện
pháp kinh
tế thay cho biện pháp can thiệp thị trường bằng biện pháp hành chính tổ chức.
Quỹ đầu tư: Đây là việc một tổ chức nào đó tập hợp vốn riêng lẻ để cùng đầu tư
vào một lô chứng khoán lớn có triển vọng, dưới hình thức là một CtyCP hay hợp
đồng
hợp tác liên doanh. Do là nghiệp vụ mới mẻ ở nước ta nên muốn hoạt động có hiệu
quả
nên dựa vào các tổ chức sẵn có như các công ty Bảo hiểm, các công ty tài chính…
Các công ty kiểm toán: Mặc dù không trực tiếp thuộc cơ cấu tổ chức bộ máy
TTCK, nhưng lại rất cần thiết cho hoạt động của TTCK. Ví dụ một công ty kiểm
toán ở
Việt Nam (Vaco) hoạt động với nội dung: tư vấn giúp các DN chấp hành đúng các
quy
chế hành chính, kế toán, thực hiện đúng nghĩa vụ đối với Nhà nước, kiểm định hợp
pháp của một số tài liệu, số liệu tài chính, xác nhận các báo quyết toán.
Ngoài ra, cần hoàn thiện các tổ chức nghiên cứu, các hoạt động tư vấn, các tổ
chức phân bổ thông tin…nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức cho TTCK hoạt động có hiệu
quả.
II. Hoàn thiện cơ chế tổ chức vận hành thị trường chứng khoán hiện nay ở nước
ta.
Hơn 5 năm nỗ lực và quyết tâm chuẩn bị tạo dựng những vấn đề cần thiết cho
TTCK Việt Nam ra đời. Một kênh huy động dẫn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế
đất
nước, đã hiện diện. Dù sao thì đó cũng chỉ là một cỗ máy, còn sự vận hành, công
năng
của nó đạt tới hiệu quả ra sao, thì đó còn là vấn đề lớn.
1. Về các giao dịch chứng khoán phi tập trung.
Hiện nay cơ chế vận hành này chưa được chú ý đúng mức ở nước ta. Mà ta đã
biết TTCK phi tập trung (OTC) là rất cần thiết cho điều kiện ban đầu của nền
kinh tế
Việt Nam hiện nay. Lý do:
Thứ nhất, theo quy định hiện nay, tổ chức phát hành phải đáp ứng một số điều
kiện nhất định như vốn điều lệ hơn 10 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh có lãi trong
hai
năm liền gần nhất tính đến ngày nộp hồ sơ xin phép phát hành… Trên thực tế nhiều
Dn
không đáp ứng được các điều kiện trên vẫn có nhu cầu trao đổi vốn, do đó cần
phải có
một thị trường để giao dịch những loại chứng khoán này.
Thứ hai, có nhiều DN đã có đủ các điều kiện trên, nhưng có thể có nhiều lý do
mà họ chưa thể niêm yết chứng khoán, nhưng chắc chắn đã hình thành nhu cầu trao
đổi,
giao dịch chứng khoán mà DN đã phát hành.
Thứ ba, đối với các loại TP, CP của các công ty mới CPH bán ra, tuy vậy nếu các
cổ đông muốn bán lại thì chắc chắn sẽ rất khó khăn vì chưa có thị trường.
Vậy việc sớm đáp ứng nhu cầu giao dịch trên thị trường giao dịch OTC là rất cần
thiết và tránh tâpj trung phiền hà làm ảnh hưởng đến giao dịch của các chứng
khoán đã
niêm yết.
2. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM) với thị trường chứng khoán.
Các NHTM Việt Nam có vai trò rất lớn tới quá trình hình thành và phát triển
TTCK. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa vận dụng hết năng lực tự thân của hệ thống hơn
50
NHTM này đẻ hỗ trợ cho TTCK. Vì vậy cần có chính sách tạo sự thông thoáng cho
các
NHTM hoạt động có hiệu quả trong TTCK.
Vấn đề bất cập hiện nay là việc lập công ty chứng khoán độc lập riêng mà không
tính đến tính chất từng nghiệp vụ. Ví dụ hoạt động kinh doanh chứng khoán cho
chính
Ngân hàng, hay bảo lãnh phát hành, nó liên quan đến vốn Ngân hàng nên việc thành
lập
các công ty chứng khoán độc lập riêng là cần thiết, còn loại hình khác không sử
dụng
đến tiền vốn, ít rủi ro, bản thân NHTM với tư cách là một định chế tài
chính-tiền tệ có
sẵn có sẵn bộ máy tổ chức thì có thể đảm nhiệm những nghiệp vụ trên. Lúc này lại
không cần đến công ty chứng khoán độc lập riêng. Vậy bất cập này cần phải xem
xét lại
trong giai đoạn tới.
Bên cạnh một khó khăn nữa cho các NHTM là muốn lập CtyCK, thì phải hoạt
động có lãi, nợ quá hạn dưới 50 %… Mặc dù các điều kiện này có thể không cần
thiết
lắm vì nhiều loại hình dịch vụ kinh doanh chứng khoán không thuộc tính chất kinh
doanh vốn tiền tệ, NHTM chỉ làm dịch vụ để thu hoa hồng… như loại hình dịch vụ
tư
vấn đầu tư chứng khoán, môi giới, quản lý doanh mục chứng khoán, lưu ký chứng
khoán, đại lý phát hành… nên cần có cơ chế nới lỏng so với việc NHTM mua bán
chứng khoán tự doanh hay bảo lãnh phát hành.