LUẬN VĂN:Một số giải pháp thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng
9,246
386
43
gia của các công ty phát hành mà còn cần tới sự hỗ trợ của các chuyên gia từ các
công
ty chứng khoán hoặc các TGTC khác với tư cách là tư vấn và trợ giúp phát hành.
1.2. Nghiệp vụ trợ giúp phát hành.
Đây là nghiệp vụ của các công ty chứng khoán và các trung gian tài chính khác.
Nghiệp vụ trợ giúp phát hành bao gồm hai loại: Đại lý phát hành và tư vấn phát
hành.
Đại lý phát hành: các công ty chứng khoán hoặc các trung gian tài chính khác
đứng ra mua số chứng khoán của công ty phát hành và đem bán lại cho nhà đầu tư
trên
thị trường. Trong nghệp vụ này, công ty trợ giúp phát hành là người gánh chịu
rủi ro
trong việc bán chứng khoán nhưng bù lại họ được hưởng phần chênh lệch từ giá mua
và
bán chứng khoán.
Tư vấn phát hành: là các công ty trợ giúp phát hành đơn thuần là tư vấn cho công
ty phát hành về các vấn đề quan trọng trong hoạt động phát hành và được hưởng
một
khoản phí dịch vụ do công ty phát hành trả.
1.3. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
Đây là việc các công ty chứng khoán làm trung gian giữ người mua và người bán
chứng khoán. Môi giới là việc đưa người cần bán một loại chứng khoán nào đó với
giá
đưa ra đến với người mua loại chứng khoán đó với giá đó. Trên thị trường có rất
nhiều
cung và cầu về chứng khoán, nhưng để họ gặp nhau ở một mức giá, với một khối
lượng
cụ thể là công việc rất khó khăn đối với mỗi cá nhân cần mua và bán. Để giảm bớt
chi
phí này, các nhà môi giới là người nắm chắc được những ai cần mua và cần bán với
số
lượng và giá cả cụ thể. Từ đó, họ làm trung gian để môi giới, liên hệ cho những
người
này gặp nhau và để bù đắp cho việc dàn xếp này, người môi giới chứng khoán được
hưởng một khoản phí hay là hoa hồng trong môi giới giao dịch.
1.4. Nghiệp vu kinh doanh chứng khoán.
Đây là nghiệp vụ của các công ty chứng khoán tiến hành giao dịch mua bán
chứng khoán bằng tài khoản của mình và tự gánh chịu rủi ro. Chỉ có công ty chứng
khoán mới được phép thực hiện nghiệp vụ này.
Mục đích của nghiệp vụ này là thu lợi nhuận và làm ổn định thị trường. Tại thời
điểm thị trường đang lên cơn sốt về giá chứng khoán, ngoài các biện pháp khác,
thì
công ty chứng khoán tham gia bán chứng khoán để bình ổn giá cả, nhằm giảm sự
căng
thẳng của thị trường cũng như để kiếm lời. Trong những thời điểm suy giảm, giá
chứng
khoán giảm thì các công ty chứng khoán mua vào để tăng sự sôi động của thị
trường. Vì
vậy công ty chứng khoán là lực lượng dự bị làm đối trọng với các áp lực thị
trường.
2. Các nghiệp vụ khác liên quan.
2.1. Nghiệp vụ tín thác đầu tư chứng khoán.
Đây là việc các cá nhân, tổ chức cùng gom vốn và thành lập một công ty hoặc
dưới dạng các quỹ và họ uỷ thác quyền sử dụng vốn cho hội đồng quản trị công ty
tín
thác đầu tư hoặc uỷ ban quản lý tín thác đầu tư. Số lượng vốn góp trên được đầu
tư vào
chứng khoán, lãi và vốn gốc sẽ được thanh toán cho các cổ đông khi kết thúc hợp
đồng.
2.2. Tư vấn đầu tư.
Đây là nghiệp vụ của các công ty chứng khoán, các công ty tài chính khác. Hoạt
động tư vấn đầu tư là việc cung cấp thông tin, cách thức, đối tượng chứng khoán,
thời
hạn, khu vực…các vấn đề có tính qui định của luật pháp về hoạt động chứng khoán.
Các loại dịch vụ tư vấn bao gồm:
+ Tư vấn đầu tư mua bán chứng khoán .
+ Tư vấn quản lý doanh mục đầu tư.
+ Tư vấn thông tin về hoạt động chứng khoán.
Mục đích của hoạt động tư vấn nhằm thúc đẩy các nhà đầu tư trên thị trường hiểu
biết về thị trường chứng khoán để đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư của mình có
hiệu
quả nhất.
2.3. Nghiệp vụ tín dụng chứng khoán.
Đây là nghiệp vụ của các công ty chứng khoán, các công ty tài chính khác nhằm
cho các nhà đầu tư vay tiền để mua chứng khoán. Vì không phải nhà đầu tư nào
cũng có
đủ tiền mới đi mua chứng khoán hoặc lúc nào cũng đủ tiền để mua một loại chứng
khoán mong muốn. Vậy nghiệp vụ này là để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư . Điều
kiện
của loại tín dụng này cũng như loại tín dụng thông thường tức là phải có năng
lực trả
nợ, phải có tài sản để thế chấp. Ngoài ra, các chứng khoán mua được phải dùng để
thế
chấp cho khoản vay của khách hàng cho đến khi các chứng khoán này được bán trên
thị
trường.
Tại một số nước, tỷ lệ cấp tín dụng chứng khoán của các tổ chức này cho khách
hàng được pháp luật giới hạn ở mức tối đa là 60 % tổng giá trị chứng khoán cần
mua.
Mục đích của nghiệp vụ này là nhằm thu lợi dựa trên mức hoa hồng thu được, kích
thích
các nghiệp vụ khác hoạt động và nhằm tạo sự sôi động, sự phong phú về cầu hàng
hoá
chứng khoán.
3. Các yếu tố kỹ thuật nghiệp vụ.
3.1. Phân tích chỉ số chứng khoán.
Đó là việc sử dụng các công thức toán học để tính toán và xác định độ biến động
của giá cả chứng khoán dựa trên tiêu chuẩn và điều kiện thị trường nhất định.
Đòi hỏi là
các chuyên gia về chứng khoán, có đầy đủ thông tin chính xác về thị trường, có
các kỹ
thuật thiết bị tiên tiến và đòi hỏi phải nghiên cứu thường xuyên, liên tục, sâu
sắc để đưa
các số liệu chính xác về các chỉ số chứng khoán và tình hình thị trường.
Vai trò:
+ Cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin trung thực nhất về tình hình thị
trường và có các quyết định đầu tư đúng đắn.
+ Giúp các cơ quan chứng khoán Nhà nước xác định được các giới hạn biến động
từ đó có thể đưa ra các chính sách phù hợp.
+ Giúp các nhà đầu tư chứng khoán đối phó với những thay đổi của thị trường
hiện tại cũng như trong tương lai.
3.2. Xác định giá chứng khoán.
Bao gồm việc xác định giá phát hành và giá bán trên thị trường. Nghiệp vụ này
ảnh hưởng đến khả năng hấp đẫn đối với nhà đầu tư cũng như khả năng thu hút vốn
của
doanh nghiệp. Đó là việc tính toán yếu tố có lợi nhuận chứng khoán tạo ra và các
yếu tố
rủi ro của chứng khoán đó. Ngoài ra, để mua chứng khoán trên thị trường, các nhà
đầu
tư, các tổ chức môi giới, kinh doanh và tư vấn đầu tư chứng khoán cũng phải xác
định
được mức giá cụ thể mua được của loại chứng khoán đó trên cơ sở đánh giá hiện
tại
cũng như tương lai về giá chứng khoán đó.
Ngoài các nghiệp vụ trên, còn có các nghiệp vụ như đánh giá rủi ro chứng khoán,
các loại chỉ số khác… giúp cho mọi đối tượng có thể tham gia thị trường chứng
khoán
một cách dễ dàng nhất.
Chương II
Thực trạng của thị trường chứng khoán việt nam
I. sự cần thiết của thị trường chứng khoán Việt Nam
1. Nền kinh tế Việt Nam hơn 10 năm đổi mới.
Chủ trương của Đảng và Nhà Nước ta đã đề ra trong Đại hội VI là phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những thành tựu đã đạt được của
công
cuộc đổi mới nền kinh tế hơn 10 năm qua đã chứng tỏ chủ trương trên là hoàn toàn
đúng
đắn.
Trong thời kỳ 1986 -1990 nền kinh tế nước ta có nhịp độ tăng trưởng bình quân
thấp (thấp hơn cả thời kỳ 5 năm trước đó). Cụ thể thời kỳ này chỉ tăng trưởng
3,9 % còn
thời kỳ 1981-1985 là 6,4 %.
Chỉ số lạm phát năm 1986 lên tới 774,4 %, năm 1990 lạm phát tuy đã được kiềm
chế nhưng vẫn ở mức cao (67%).
Từ năm 1991 đến nay nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc,
tốc độ tăng trưởng trong nhiều năm liền khá cao (hơn 8%/năm), lạm phát được kiềm
chế
ở mức độ cho phép, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Bảng: Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát. Đơn vị: %
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tốc độ tăng GDP 5,96 8,65 8,07 8,84 9,54 9,34 8,15 5,83 4.99 6,7
Tốc độ lạm phát 67,5 17,5 5,2 14,4 12,7 4,5 3,6 9,2 0,1 -
Để đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn. Nghị
quyết Đại hội VIII đã đề ra cho giai đoạn 1996-2000 đòi hỏi một nguồn vốn 40-45
tỷ
USD, bình quân mỗi năm phải đạt 8 tỷ USD để thúc đẩy CNH-HĐH nhằm từng bước
tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, góp phần chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
2. Nhu cầu về vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn.
Về quy mô vốn: Qua điều tra gần đây với 273 DN thì có khoảng 50 % có số vốn
chủ sở hữu trên 10 tỷ đồng và hầu hết là các DN Nhà nước.
Về cơ cấu vốn: Đối với khối DNNN thì tỷ lệ vốn vay trên tổng vốn kinh doanh
thường chiếm trên 70 %. Tỷ lệ vốn Nhà nước chiếm trên 30 % trong tổng số vốn.
Còn
các công ty cổ phần có tỷ trọng phần vốn tự có trong tổng số vốn kinh doanh cao
hơn
(60%). Tuy nhiên, họ cũng gặp khó khăn trong vấn đề vay Ngân hàng.
Về tình hình huy động vốn của các DN: Mục đích huy động vốn chủ yếu vào bổ
sung vốn lưu động và đổi mới công nghệ. Mà nguồn vay vốn chủ yếu lại từ vay vốn
ngắn hạn Ngân hàng, và lượng vay lại không được đáp ứng đầy đủ. Do vậy, hiệu quả
của đồng vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh của các DN bị hạn chế nhiều. Một xu
hướng khá phổ biến là huy động vốn trong nội bộ DN thông qua phát hành cổ phiếu,
trái
phiếu.
Theo thống kê, trong năm 2000, nhu cầu vốn hoạt động kinh doanh của các DN
cần khoảng 20 nghìn tỷ đồng Việt Nam, tính bình quân mỗi DN cần khoảng 84 tỷ
đồng.
Nếu tính đến 2005 con số này vào khoảng 30 nghìn tỷ đồng, trung bình mỗi DN cần
khoảng 100 tỷ đồng. Tóm lại, nhu cầu về vốn trung hạn, dài hạn của các DN là rất
lớn.
Với những khó khăn về lãi suất cao, khó khăn về thủ tục và điều kiện vay vốn,
nếu DN
chỉ huy động vốn từ các NHTM như hiện nay thì chắc chắn không thể đáp ứng được
nhu cầu về vốn hiện nay của các DN. Vậy cần thiết phải có một thị trường chứng
khoán
có tổ chức và được quản lý chặt chẽ để tạo kênh huy động vốn trung hạn, dài hạn
rất lớn
cho các DN, đặc biệt là những DN có nhu cầu về vốn lớn. Mặt khác, theo các tài
liệu
cho biết thì các nguồn vốn trong dân là không nhỏ, (trên 20 000 tỷ Đồng-TBKT
40/97).
Số vốn này chủ yếu là để gửi tiết kiệm hoặc tích trữ còn để đầu tư là rất thấp.
Vậy nếu
có thị trường chứng khoán sẽ kích thích dân chúng có ý thức tiết kiệm, đầu tư
sinh lợi từ
những khoản này.
3. Thị trường chứng khoán là sự đòi hỏi khách quan của nền kinh tế nước ta.
Thứ nhất, thị trường chứng khoán góp phần giải quyết bài toán về sự thiếu vốn
trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Như trên, thị trường chứng khoán có thể đáp
ứng
được những nguồn vốn trung hạn, dài hạn rất lớn cho các DN. Việc hình thành và
phát
triển thị trường chứng khoán sẽ giúp Nhà nước ta có được một công cụ để phát huy
nội
lực đồng thời giúp nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Thứ hai, sự phát triển thị trường chứng khoán là tất yếu khách quan khi nước ta
chuyển sang cơ chế thị trường, vì cho phép các chủ thể kinh tế mở rộng quyền tự
chủ tài
chính với các hình thức huy động vốn da dạng.
Như vậy, việc thiết lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam là hết sức cần thiết,
nó có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế
xã hội
và đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho các luồng vốn ở trong và ngoài nước
lưu
chuyển thông suốt, góp phần tích cực vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn nền kinh
tế.
II. Những thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành và phát triển thị trường
chứng khoán
1. Thuận lợi.
Thứ nhất, nước ta có một hệ thống chính trị ổn định. Thu nhập của dân cư gần
đây được cải thiện rõ rệt. Uy tín của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân ngày càng
cao.
Đây là tiền đề vững chắc mà mọi nền kinh tế đều cần đến thể hiện thông qua mối
liên hệ
biên chứng giữa chính trị và kinh tế.
Thứ hai, nền kinh tế nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng, tăng trưởng cao và
liên tục trong những năm gần đây. Đây là tiền đề quan trọng cho các DN làm ăn có
hiệu
quả và có đủ điều kiện tham gia niêm yết chứng khoán. Mức tăng trưởng cao sẽ góp
phần tăng mức tiết kiệm, đầu tư trên cơ sở đó tăng mức cầu về chứng khoán trên
thị
trường.
Thứ ba, Đảng và Chính phủ ta đã có tầm nhìn đúng đắn và quan tâm thoả đáng
về thị trường chứng khoán. Như đưa ra chính sách đa dạng hoá các hình thức sở
hữu,
cải cách hệ thống tài chính, cải cách Ngân hàng, cải cách hệ thống các DNNN. Cụ
thể
ngày 28/11/1996 Uỷ ban chứng khoán Nhà nước được ra đời và đến ngày 20/7/2000
thị
trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động.
Thứ tư, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng, trong những năm cải cách và đổi
mới đã cho ra đời khá nhiều NHTM, các tổ chức Bảo hiểm và các định chế tài chính
khác. Đây là các nhân tố và điều kiện quan trọng đối với sự phát triển của thị
trường tài
chính nói chung và đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng.
Thứ năm, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng được bổ sung và ngày
càng hoàn thiện. Điều này đã tạo ra môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi cho
thị
trường chứng khoán Việt Nam. Các văn bản pháp luật quan trọng là: Nghị quyết số
75/CP ngày 28/11/1996 về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Nghị định
số: 48/1998 NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán… Đây
là những cơ sở pháp lý quan trọng và căn bản đối với quá trình xây dựng và phát
triển
thị trường chứng khoán ở nước ta.
Thứ sáu, chế độ kế toán DN mới được sửa đổi và ban hành, áp dụng gần gũi hơn
đối với các chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống kiểm toán, kể cả kiểm toán
Nhà
nước, phi Nhà nước, kiểm toán nước ngoài đã được hình thành và phát triển. Đây
cũng
là những mắt xích, đầu mối quan trọngkhông thể thiếu được trong quá trình hình
thành
và phát triển chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Thứ bảy, hệ thống thông tin liên lạc, truyền thông ở nước ta đang trên đà phát
triển mạnh. Chiến lược tăng tốc độ Bưu điện là điều kiện hỗ trợ quan trọng để
hình
thành và phát triển thị trường chứng khoán. Có thể nói, trình độ và năng lực của
ngành
tin học Việt Nam đã đủ khả năng tham gia vào tham gia vào việc xây dựng các
chương
trình của hệ thống giao dịch điện tử thị trường chứng khoán.
Cuối cùng, một yếu tố thuận lợi khác quan trọng đó là Việt Nam là nước phát
triển sau nên có thể tranh thủ học hỏi kinh nghiệm các nước đi trước. Nhờ chính
sách
kinh tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài, làm cho quan hệ kinh tế trong nước cũng
như
quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng thu được những kết quả rất đáng khích lệ.
Bên cạnh
đó, cũng có sự giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả của các quốc gia, các tổ chức quốc
tế.
Những yếu tố này đã có những tác động tích cực đến việc hình thành và phát triển
thị
trường chứng khoán ở nước ta.
2. Những khó khăn và thách thức.
Đã nói đến thị trường thì phải nói đến hàng hoá cho thị trường đó. Song, trên
thực tế hàng hoá thị trường chứng khoán Việt Nam còn nghèo nàn về số lượng và
chủng
loại, những công ty cổ phần đủ điều kiện tham gia niêm yết tại trung tâm giao
dịch
chứng khoán (TTGDCK) còn hạn chế.
Hiện nay, có khoảng 43 công ty cổ phần có đủ điều kiện niêm yết chứng khoán
trên trung tâm giao dịch chứng khoán. Nếu so sánh với tổng số công ty cổ phần
hiện có
(tính đến thời điểm 19/7/2000 là khoảng 630 công ty) thì con số này khá khiêm
tốn
(chiếm khoảng 6 %). Trên thực tế rất ít các công ty đã niêm yết chứng khoán tại
trung
tâm giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh tính đến cuối tháng 9/2000, mới chỉ có
4
công ty tham gia niêm yết.
Hệ thống kiểm toán của nước ta tuy đã được hình thành và phát triển từng bước,
nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường chứng khoán kể cả về số
lượng và chất lượng, đặc biệt là khi qui mô của thị trường chứng khoán được mở
rộng.
Hiện nay, trên phạm vi cả nước có hơn 20 000 DN nếu chỉ cần 1/10 số DN này
đăng ký phát hành và cần đến kiểm toán, thì khả năng hiện tại của ngành kiểm
toán
trong nước (trong cả nước có 19 công ty kiểm toán độc lập nước nước ngoài) thì
sẽ cần
bao nhiêu thời gian để hình thành công việc này?
Cho đến nay, Việt Nam vẫn là nước có thu nhập bình quân thấp so với thế giới,
do vậy khi thực hiện cổ phần hoá (CPH) các DNNN theo đúng kế hoạch và tiến độ
đặt
ra là vấn đề không dễ dàng. Hay do tập quán thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn phổ
biến
trong công chúng và ngay cả đối với DN. Hệ thống thanh toán qua Ngân hàng hiệu
quả
chưa cao. Sự đỗ vỡ của một số NHTM, quỹ tiết kiệm đã làm giảm lòng tin của công
chúng. Với những vấn đề như vậy đã gây sự cản trở cho việc phát triển thị trường
chứng
khoán ở nước ta.
Đội ngũ cán bộ điều hành, quản lý thị trường chứng khoán còn non trẻ, thiếu cả
số lượng, kinh nghiệm và kiến thức nghiệp vụ. Để có đủ tri thức, kinh nghiệm và
một
đội ngũ cán bộ quản lý điều hành vững vàng, dày dạn là cả một thách thức lớn đối
với
ngành chứng khoán nước ta.
Mặc dù còn quá ít thời gian để thị trường chứng khoán Việt Nam có thể khẳng
định được vai trò trong đời sống kinh tế, nhưng dù sao cần phải thấy rằng, những
diễn
biến của trung tâm giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh thời gian qua đã bộc lộ
nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết.
Thứ nhất, hệ thống trung gian tài chính với tư cách là “hoạt chất” bôi trơn hoạt
động của thị trường chứng khoán đang được dư luận cho là vừa thiếu vừa yếu.
Những
mâu thuẫn phát sinh ở đây là, bối cảnh hàng hoá của thị trường chứng khoán còn
quá
nghèo nàn.
Thứ hai, thực tế hoạt động của thị trường chứng khoán cho thấy, quy mô của hệ
thống lưu ký còn quá nhỏ, đòi hỏi phải được mở rộng ra ở nhiều địa phương để đáp
ứng
nhu cầu của các nhà đầu tư. Điều này không hề đơn giản, vì đi kèm với nó cần
phải phát
triển hạ tầng kỹ thuật thông tin hiện đại, đòi hỏi chi phí không nhỏ, khó có thể
đáp ứng
trong điều kiện hoàn cảnh hiện nay.
Thứ ba, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi, như các công ty chứng
khoán , các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ được miễn thuế thu nhập DN
thêm một năm và được giảm 50 % trong 2 năm tiếp theo. Tuy nhiên những ưu đãi này
vẫn không thể hạn chế được những thua lỗ của họ.
Thứ tư, khi thành lập thị trường chứng khoán, mong muốn của các nhà quản lý là
mở rộng kênh huy động vốn dài hạn cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, qua 3 tháng
hoạt
động mới chỉ có 4 công ty niêm yết. Một số công ty chưa niêm yết khi được hỏi lý
do
đều trả lời rằng, nếu có nhu cầu vốn thì vay vốn của Ngân hàng rẻ hơn.
Qua phân tích những mâu thuẫn trên để thấy rằng con đường ổn định và phát
triển thị trường chứng khoán theo đúng nghĩa của nó là không hề bằng phẳng.
III. Những điều kiện cần thiết để hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam
1. Điều kiện kinh tế.
Đây là nền tảng đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động và được quyết
định lớn bởi các chính sách kinh tế của Nhà nước. Hiến pháp 1992 xác định “Nhà
nước
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều
thành phần với các hình thức đa dạng dựa trên chế độ sở hưũ toàn dân, sở hữu tập
thể và
tư nhân.”
Hiện nay Việt Nam có khoảng hàng nghìn DN các loại, cá khoảng 700 DN đã
được cổ phần hoá. Trong những DN đã cổ phần hoá có rất nhiều DN có khả năng phát
hành và niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Với một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, phát triển ổn định và với hệ thống tiền
tệ
tỷ giá ổn định, hệ thống thị trường vốn ngắn hạn đã được thiết lập và hoạt động
trôi
chảy sẽ góp phần lớn cho thị trường chứng khoán với tư cách là thị trường vốn
trung và
dài hạn hoạt động có hiệu quả.
Mấy năm qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam khoảng 8%/ năm. Đây là kết quả
điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước, là sự cố gắng của tất cả các cấp, ngành,
của toàn
thể nhân dân lao động Việt Nam. Tuy nhiên, do xuất phát điểm còn thấp nên chúng
ta
còn gặp nhiều khó khăn. Nếu cứ duy trì tốc độ từ 8-10%/ năm, thì trong vòng 15
năm,
thì thu nhập bình quân sẽ tăng gấp đôi và sẽ cho phép thị trường chứng khoán
Việt Nam
phát triển mạnh. Chính thị trường chứng khoán đáp ứng một nhu cầu rất lớn về vốn
dài
hạn cho các DN. Đây cũng chính là yếu tố tác động trở lại tới nền kinh tế, giúp
nền kinh
tế phát triển cao hơn, nhanh hơn.
2. Điều kiện pháp lý.
Tất cả các loại chứng khoán đư ra bán hay mua trên thị trường đều phải tuân theo
một khung pháp lý tiêu chuẩn theo luật định. Các vấn đề sở hữu chứng khoán, đều
phải
được chứng nhận của các cơ quan môi giới. Vì vậy hệ thống thị trường chứng khoán
đòi
hỏi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
Mặc dù có nhiều luật lệ ràng buộc trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, còn
phát sinh nhiều biểu hiện tiêu cực như: gian lận, đầu cơ gây rối thị trường,
trục lợi cá
nhân…làm giảm niềm tin của nhà đầu tư. Nếu kéo dài có thể gây khủng hoảng thên
thị
trường chứng khoán. Do vậy, việc xây dựng hệ thống pháp lý là điều kiện quan
trọng
tạo hành lang pháp lý cho thị trường chứng khoán phát triển và là tiền đề cho
việc duy
trì lòng tin và bảo vệ công chúng đầu tư.
3. Điều kiện kỹ thuật tổ chức.
Thứ nhất là, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho sự phát triển thị trường chứng
khoán. Tức phải xây dựng hệ thống giao dịch, hệ thống xử lý dữ liệu, hệ thống
thông tin
và hệ thống thanh toán bù trừ, lưu trữ chứng khoán với mô hình và mức độ tự động
hoá
ban đầu thích hợp.
Thứ hai là, các tổ chức hoạt động trên thị trường chứng khoán. Đây là yếu tố có
ý
nghĩa rất quan trọng. Các tổ chức như các công ty bảo lãnh phát hành chứng
khoán, các
công ty môi giới, các công ty tư vấn, các quỹ đầu tư. Ngoài cần phát triển các
nhà đầu
tư cá tổ chức. Đây là các chủ thể chiếm tỷ trọng lớn trong việc phát triển cầu
thị trường.