Luận văn: Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam
5,100
771
79
57
trong nước; cho phép các quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài tham gia thị trường
chứng
khoán Việt Nam.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm giao dịch Chứng khoán, Sở
giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán.
+ Đưa hệ thống giao dịch tự động hiện đại tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
Tp. Hồ Chí Minh vào vận hành. Kết nối mạng diện rộng giữa hệ thống giao dịch của
Trung
tâm Giao dịch Chứng khoán với các công ty chứng khoán thành viên. Xây dựng hệ
thống
giám sát tự động kết nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký,
thanh toán.
+ Đảm bảo có hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập dễ
dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư. Mở rộng
phạm vi
thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ.
+ Tự động hoá hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Thực hiện dịch
vụ lưu ký cho các chứng khoán chưa niêm yết. Giảm thời gian thanh toán giao dịch
chứng
khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường. Thực hiện nối mạng giữa các
thành
viên lưu ký và Trung tâm giao dịch Chứng khoán để cung cấp chính xác, kịp thời
những
thông tin về người sở hữu chứng khoán.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán
+ Áp dụng biện pháp cưỡng chế thực thi quy định về quản trị công ty theo thông
lệ
quốc tế đối với các công ty niêm yết, các công ty chứng khoán, các công ty quản
lý quỹ
đầu tư và chế độ công bố thông tin theo luật định.
+ Tăng số lượng và nâng cao chất lượng nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán; các công ty chứng khoán phải thực thi quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
+ Mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ Lưu ký chứng khoán trong phạm vi cả
nước; chú trọng cấp giấy phép hoạt động Lưu ký chứng khoán cho các ngân hàng
thương
mại đủ điều kiện.
+ Nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của tổ chức phát hành, niêm
yết
và kinh doanh chứng khoán.
- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán
+ Tăng cường năng lực quản lý nhà nước bảo đảm sự quản lý linh hoạt, nhạy bén
đối với thị trường chứng khoán. Nhà nước thực hiện điều chỉnh, điều tiết thị
trường thông
qua các chính sách, công cụ kinh tế tài chính- tiền tệ như chính sách thuế, lãi
suất, đầu tư
và các công cụ tài chính khác.
58
+ Phối hợp chặt chẽ giữa Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước va các cơ quan hữu quan
trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp
ứng
yêu cầu của công tác quản lý thị trường chứng khoán.
+ Xây dựng và áp dụng các tiêu chí giám sát hoạt động của thị trường chứng
khoán; phát triển kỹ năng giám sát thích hợp để phát hiện được các giao dịch bất
thường;
nâng cao kỹ năng điều tra chuyên sâu các giao dịch nội gián, thao túng giá cả.
+ Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ
pháp luật của các thành viên thị trường và áp dụng nghiêm các chế tài dân sự,
hình sự đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Đẩy mạnh hoạt động và tăng cường vai trò của Hiệp hội ngành chứng khoán
trong việc hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước trên các phương diện: xây dựng khuân
khổ
pháp lý, đào tạo nhân lực, giám sát sự tuân thủ quy định pháp luật của các thành
viên
tham gia thị trường và phát triển thị trường chứng khoán.
- Tăng cường hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn xây dựng chính sách phát triển và quản lý
thị
trường; xây dựng khuôn khổ pháp luật cho thị trường chứng khoán; đào tạo đội ngũ
cán bộ,
công chức quản lý; từng bước mở cửa và hội nhập với các thị trường chứng khoán
thế giới
theo lộ trình đã cam kết.
- Tăng cường công tác đào tạo, nghiên cứu và thông tin tuyên truyền
+ Xây dựng và phát triển Trung tâm Nghiên cứu và Bồi dưỡng nghiệp vụ chứng
khoán và thị trường chứng khoán thành đơn vị có đủ điểu kiện và khả năng nghiên
cứu về
thị trường chứng khoán; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý thị trường chứng
khoán, hợp
tác với các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước trong hoạt
động
nghiên cứu, đào tạo cơ bản và nâng cao kiến thức về thị trường vốn.
+ Đa dạng hoá hình thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của
các đối tượng và thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về thị trường chứng
khoán cho
công chúng.
- Kinh phí và cơ sở vật chất kỹ thuật cho thị trường chứng khoán: Nhà nước bảo
đảm
cơ sở vật chất, kỹ thuật và chi phí hoạt động cho các Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán,
Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Lưu ký. Đồng thời khuyến khích huy động các
nguồn lực trong nước, nguồn tài trợ của nước ngoài, nguồn của các tổ chức cá
nhân tham
gia thị trường để phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động phát
hành và
giao dịch chứng khoán.
59
II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆT NAM
TRONG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA TTCK
1. Những điều kiện thuận lợi
Có thể nói Việt Nam là một thị trường khá hấp dẫn đối với người nước ngoài do có
những điều kiện thuận lợi cả về mặt kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách. Những
điều kiện
thuận lợi đó có thể nêu cụ thể như sau:
1.1 Điều kiện chính trị ổn định
Trong một thời gian dài, Việt Nam được xem là một quốc gia có tình hình chính
trị
nội bộ rất ổn định, hứa hẹn tính nhất quán trong chính sách phát triển quốc giá
nói chung
cũng như trong chính sách đối với đầu tư nước ngoài nói riêng. Những nỗ lực của
Việt
Nam trong việc giữ gìn trật tự an toàn xã hội qua cuộc khủng hoảng Châu Á được
đánh giá
cao. Đặc biệt trong thời gian gần đây, tình hình ở nhiều nước bị chao đảo do nạn
khủng bố
và nội chiến thì Việt Nam được giới đầu tư đánh giá là một điểm đến an toàn.
Lượng
doanh nhân vào Việt Nam tìm cơ hội làm ăn và khách du lịch trong thời gian gần
đây tăng
mạnh. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi ở tầm vĩ mô mà Việt Nam cần
phải khai
thác một cách triệt để để thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu
tư qua thị
trường chứng khoán.
1.2. Tình hình kinh tế phát triển
Như đã phân tích ở phần trước, mặc dù còn nhiều thách thức trong việc phát triển
bền vững, nhưng tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam nhìn chung là thuận lợi.
Mức tăng
trưởng bình quân GDP hơn một thập kỷ qua là khá cao trong khi lạm phát được kiềm
chế ở
mức thấp. Việt Nam đã rất nỗ lực hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính –
tiền tệ châu Á và nhanh chóng phục hồi với mức tăng GDP trong các các năm 2000,
2001
và 2002 là 6,7%, 6,8% và 7%, và ước tính năm 2003 là 7,2%. Tỷ lệ tiết kiệm và
đầu tư đều
có xu hướng tăng đáng kể, bội chi ngân sách được kiểm soát ở mức dưới 5%. Với
những
điều kiện mới được tạo ra sau khi ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước,
Luật
doanh nghiệp… các thành phần kinh tế đều có những bước phát triển mới. Điều kiện
kinh
tế vĩ mô thuận lợi hứa hẹn mức lợi nhuận cao và ổn định cho các khoản đầu tư
phát triển,
tạo ra một lực “kéo” hấp dẫn đối với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là
nguồn FDI
và FPI.
1.3. Cải cách cơ cấu được chú trọng
Trong những năm gần đây cải cách cơ cấu được Chính phủ đặc biệt chú trọng với
sự giúp đỡ của các chuyên gia kinh tế từ các tổ chức quốc tế như IMF, WB, ADB và
Chính
60
phủ nhiều nước. Đây là một phần trong chiến lược phát triển kinh doanh quốc gia,
đồng
thời chuẩn bị cho việc hội nhập với quốc tế và khu vực. Trong công cuộc cải cách
cơ cấu
có 2 lĩnh vực đang được chú trọng và có tác động trực tiếp đến việc thu hút vốn
đầu tư
nước ngoài qua thị trường chứng khoán là:
- Cải cách hệ thống ngân hàng- tài chính với mục tiêu chủ yếu là tập trung huy
động mọi nguồn lực và sử dụng hiệu quả vào các dự án phát triển. Tổ chức và hoạt
động
của hệ thống ngân hàng thương mại được đặc biệt chú trọng nhằm xây dựng một hệ
thống
ngân hàng thương mại có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động hiệu quả, từng
bước mở
rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ ngang tầm với khu vực. M
ột hệ thống ngân hàng-
tài chính lành mạnh sẽ giúp cho việc chu chuyển vốn qua biên giới được dễ dàng,
an toàn
và hiệu quả, có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu về đầu tư của người
nước ngoài
vào Việt Nam.
- Thúc đẩy khu vực tư nhân là một chính sách nhất quán được Chính phủ rất quan
tâm. Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh và đã thực
sự trở
thành mộ
t động lực đáng kể góp phần tăng trưởng GDP. Số doanh nghiệp tư nhân thành
lập mới tăng vọt sau khi Luật doanh nghiệp được ban hành. Chương trình cổ phần
hoá
doanh nghiệp nhà nước tuy có chậm lại trong mấy năm gần đây nhưng hứa hẹn sẽ có
những bước đột phá mới. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân chính là điều
kiện
thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư dưới nhiều hình thức,
trong đó có
cả hình thức đầu tư qua thị trường chứng khoán.
1.4. Chính sách đối với người đầu tư nước ngoài đã rõ ràng.
Có thể còn nhiều vấn đề phải bàn về mức độ mở cửa và ưu tiên cho đầu tư của
nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng các điều kiện liên quan
cho đến
thời điểm này đều đã được quy định rõ ràng. Các qui định này bao gồm:
- Ngành nghề người nước ngoài được tham gia góp vốn gồm: ngành dệt may, sản
xuất giày dép, chế biến da, sản xuất chế biế
n nông lâm thuỷ sản, ngành sản xuất hàng tiêu
dùng khác, ngành xây dựng và vật liệu xây dựng, ngành vận tải đường bộ, đường
thuỷ nội
địa, vận tải hàng hoá bằng Container, ngành sản xuất đồ dùng học tập, ngành sản
xuất đồ
chơi trẻ em, ngành thương mại dịch vụ khách sạn, ngành sản xuất cơ khí, các
doanh nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu thuộc các ngành hàng quy định trên.
- Mức tối đa người nước ngoài được nắm giữ cổ phiếu đang lưu hành của một tổ
chức phát hành (từ 20% nay vừa mới nâng lên 30%).
61
- Quy định qui trình thủ tục đầu tư và quản lý ngoại hối. Với các quy định hiện
hành, việc đầu tư của người nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam được
mô tả
như sau: người nước ngoài muốn đầu tư vào TTCK Việt Nam phải mở một tài khoản
giao
dịch tại một thành viên lưu ký nước ngoài (một ngân hàng thương mại nước ngoài
được
công nhân là thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán). Thành viên
lưu ký
nước ngoài liên hệ với Trung tâm giao dịch chứng khoán để xin mã số giao dịch,
đồng thời
là người đại diện cho người đầu tư đặt lệnh giao dịch thông qua công ty chứng
khoán. Số
ngoại tệ do người đầu tư chuyển vào để đầu tư chứng khoán được thành viên lưu ký
mua
lại. Khi người đầu tư muốn chuyển lợi nhuận về nước, thành viên lưu ký bán lại
ngoại tệ
cho người đầu tư và thực hiện chuyển tiền về nước sau khi người đầu tư thực hiện
xong
các nghĩa vụ về thuế, phí theo quy định.
- Các loại thuế, phí người nước ngoài có nghĩa vụ phải nộp khi đầu tư và rút
vốn.
Hiện nay, thuế lợi nhuận do đầu tư chứng khoán của cá nhân đầu tư nước ngoài
đang được
miễn như đối với cá nhân đầ
u tư trong nước, còn phí chuyển lợi nhuận và vốn về nước
đang được áp dụng ở mức 5% như đối với các giao dịch ngoại hối thông thường
khác.
Có thể nói rằng quy định như trên là rõ ràng, người nước ngoài hiểu rõ được
“luật
chơi”, nhưng còn nhiều hạn chế và bất cập trong quá trình thực hiện mà chúng ta
phải phân
tích ở phần tiếp theo.
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên, việc thu hút và quản lý vốn đầu tư nước
ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam còn có nhiều khó khăn và hạn chế cần
phải
được khắc phục từng bước. Có thể phân chia những khó khăn và hạn chế này theo
các
nhóm vấn đề.
2.1.Về mặt vĩ mô
Bên cạnh những tiến bộ đã đạt được, người đầu tư nước ngoài nói chung vẫn lo
ngại về tình hình cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính rườm ra và nạn tham nhũng
lan tràn ở
Việt Nam. Nhiều người cho rằng, những hạn chế nêu trên ảnh hưởng đến hiệu quả
đầu tư
nói chung. Đặc biệt nạn tham nhũng cộng với việc ban quản lý doanh nghiệp không
công
bố thông tin đầy đủ và kịp thời cho cổ đông đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của
công chúng
đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài còn e ngại việc Ban lãnh đạo công
ty có thể
sử dụng đồng vốn đầu tư của họ và lợi nhuận của công ty vào những mục đích không
bình
thường.
62
2.2. Thị trường chứng khoán còn nhỏ bé về quy mô
Cho đến nay thị trường mới có 22 công ty niêm yết với tổng giá trị cổ phiếu niêm
yết là gần 1,1 nghìn tỷ đồng tính theo mệnh giá, trong đó cổ phiếu do nhà nước
nắm giữ
chiếm gần 1/3. Trong tương lai gần, số công ty niêm yết sẽ tăng do tốc độ cổ
phần hoá
được đẩy mạnh và có thêm thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
nhưng quy mô của thị trường chưa thể tăng nhanh và mạnh trong tương lai gần và
chưa
thực sự có ảnh hưởng tới nền kinh tế. Bên cạnh đó, chính sách của Chính phủ cũng
chưa
thể mở cửa hoàn toàn cho người đầu tư nước ngoài do điều kiện và trình độ quản
lý vĩ mô
chưa theo kịp. Vì những lý do trên “khoảng sân” dành cho đầu tư nước ngoài chưa
thật lớn
và còn thiếu sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư lớn, nhất là các quỹ đầu tư có
quy mô toàn
cầu.
2.3. Thiếu thông tin
Mặc dù mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, nhưng việc
tìm kiếm thông tin về thị trường chứng khoán Việt Nam của người nước ngoài còn
gặp
nhiều khó khăn và bất cập vì một số lý do sau:
- Thiếu thông tin bằng tiếng nước ngoài. Các công ty niêm yết và chưa niêm yết
thông thường chỉ chuẩn bị tài liệu bằng tiếng Anh để phục vụ cho việc giới
thiệu, quảng
cáo, chào hàng, chưa nhằm mục đích thu hút cổ đông nước ngoài. Các bản cáo bạch,
báo
cáo định kỳ và đột xuất gửi Trung tâm Giao dịch chứng khoán và Uỷ ban Chứng
khoán
nhà nước chưa được dịch sang tiếng Anh phục vụ công chúng đầu tư nước ngoài. Bản
thân
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch Chứng khoán cũng chưa tổ chức
cung cấp các thông tin nêu trên qua trang Web. Hệ thống dịch vụ thông tin chuyên
nghiệp
chưa phát triển. Trong bối cảnh đó, người nước ngoài muốn có thông tin về thị
trường
chứng khoán Việt Nam hoặc tìm hiểu về một công ty để đầu tư phải đến Việt Nam
trực
tiếp tìm hiểu hoặc mua thông tin qua một số công ty đầu tư đang có hoạt động tại
Việt
Nam. Chi phí tìm kiếm thông tin cao làm ảnh hưởng đến mức độ quan tâm của người
đầu
tư nước ngoài, nhất là nhà đầu tư cá thể.
- Hệ thống và chế độ kế toán Việt Nam còn có nhiều điểm khác với hệ thống chuẩn
mực kế toán quốc tê (IAS) và thường không được giải thích cặn kẽ trong các báo
cáo tài
chính của các công ty, do đó còn khó hiểu đối với người nước ngoài, nhất là
những người
chưa có hiểu biết nhiều về hệ thống kế toán Việt Nam.
- Lòng tin của công chúng đầu tư nước ngoài về nguồn số liệu do công ty hoặc cơ
quan quản lý Việt Nam cung cấp cũng cần được xem xét. Trên thực tế, nhiều số
liệu về
63
kinh tế vĩ mô của Việt Nam do Chính phủ và các tổ chức quốc tế đưa ra rất khác
nhau, nhất
là các số liệu liên quan đến mức tăng trưởng GDP, đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, xuất
nhập khẩu… Các hành vi trốn thuế, lậu thuế, tham nhũng ở các công ty của Việt
Nam cũng
tương đối nghiêm trọng. Vì vậy, nhiều người nước ngoài tỏ ra không tin tưởng vào
các
thông tin thị trường do công ty Việt Nam cung cấp và từ bỏ ý định đầu tư vào
Việt Nam,
hoặc có tâm lý chỉ đầu tư theo các nhà đầu tư có tổ chức có kinh nghiệm và bộ
máy nghiên
cứu về tình hình thị trường Việt Nam.
2.4. Chính sách của Việt Nam chưa nhất quán và chưa thông thoáng
Sự thiếu nhất quán và thiếu thông thoáng trong chính sách của Việt Nam liên quan
đến đầu tư của người nước ngoài trên TTCK Việt Nam thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất, theo Luật đầu tư nước ngoài thì bên người đầu tư nước ngoài có thể
sở
hữu đến 100% vốn, nhưng cổ phần của các bên không được tự do mua đi bán lại trên
thị
trường chứng khoán, trong khi cổ phần của người nước ngoài ở các doanh nghiệp
niêm yết
được mua bán tự do nhưng bị khống chế bởi tỷ lệ nắm giữ thấp. Điều đó có nghĩa
là một
người đầu tư trực tiếp khi muốn rút bớt vốn đầu tư để trở thành một nhà đầu tư
danh mục
chứng khoán (đầu tư FPI) sẽ khó thực hiện, vì họ phải tìm người đầu tư nước
ngoài thay
thế và chuyển nhượng cổ phần trên cơ sở có sự thoả thuận của đối tác và cơ quan
quản lý
Việt Nam. Ngược lại, một nhà đầu tư danh mục chứng khoán muốn trở thành người
đầu tư
trực tiếp để tham gia quản lý doanh nghiệp cũng khó khăn do bị khống chế bởi tỷ
lệ nắm
giữ, và do chưa có chế định rõ ràng liên quan. Trong trường hợp của Việt Nam, xử
lý được
vấn đề này đòi hỏi phải có thời gian vì liên quan đến việc chỉnh sửa luật và các
cơ chế
giám sát, quản lý liên quan, nhưng là vấn đề cần được xem xét để giải quyết khi
điều kiện
cho phép.
- Thứ hai, các quy định về mua cổ phần khi cổ phần hoá doanh nghiệp còn nhiều
điểm chưa thống nhất với các quy định về mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán.
Cách quy
định không thống nhất đã dẫn tới tình trạng hiểu nhầm hoặc diễn giải một cách
khác nhau, đồng thời gây lên một số khó khăn, nhất là khi một doanh nghiệp có tỷ
lệ sở
hữu của người nước ngoài lớn tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán.
2.5 Chi phí đầu tư cao
Trong khi quy mô thị trường còn nhỏ hẹp và cơ hội giành cho người đầu tư nước
ngoài chưa nhiều thì chi phí đầu tư cao sẽ tác động hạn chế đầu tư của người
nước ngoài.
Hiện nay chi phí đầu tư của người nước ngoài vào thị trường còn cao so với thông
lệ quốc
tế vì một số lý do sau:
64
- Việt Nam chưa triển khai giao dịch từ xa qua mạng điện tử cho người nước
ngoài.
- Chi phí tiếp cận và phân tích thông tin cao.
- Giao dịch qua thành viên lưu ký nước ngoài phải chịu mức phí cao.
Cho đến nay, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã cấp phép cho 3 thành viên lưu ký
nước ngoài, tuy nhiên tính độc quyền cùng với chính sách sàng lọc lựa chọn khách
hàng
trong hoạt động phục vu đầu tư nước ngoài vào TTCK đã dấn đến thành viên lưu ký
thu
các loại phí cao.
Tóm lại, bên cạnh những thuận lợi, việc thu hút và quản lý vồn đầu tư nước ngoài
còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Nguyên nhân của những khó khăn hạn chế còn
nhiều,
nhưng chủ yếu vẫn là do thị trường mới hoạt động, còn nhỏ bé do đó còn chứa
nhiều điều
mâu thuẫn, chồng chéo và bất cập trong chính sách lẫn tổ chức vận hành. Việc
khắc phục
những hạn chế để tạo môi trường thông thoáng cho đầu tư vào cũng như kiểm soát
tốt dòng
vốn đòi hỏi phải có nhiều thời gian và bước đi thích hợp.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA
TTCK VIỆT NAM
1. Mục tiêu và nguyên tắc
Từ những bài học kinh nghiệm ở các nước trong khu vực và điều kiện thực tế của
Việt Nam có thể thấy rằng việc thu hút nguồn vốn nước ngoài qua thị trường chứng
khoán
là một yêu cầu khách quan và phải được thực hiện theo một số nguyên tắc nhất
định:
- Việc thu hút và quản lý vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán phải luôn
bám sát mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội của đất nước và định hướng phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam, nhằm góp phần tăng cường nguồn vốn đầu tư để bổ sung cho
các
nguồn khác đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội. Cùng với sự phát triển của
thị trường
tài chính, nguồn FPI phải trở thành một bộ phận không thể tách rời trong cơ cấu
nguồn vốn
đầu tư
vào Việt Nam và có sự gắn kết chặt chẽ với nguồn đầu tư FDI.
- Nguồn FPI phải được hướng vào một số ngành nghề ưu tiên theo định hướng của
Chính phủ. Ngoài những ngành nghề hiện nay người nước ngoài được phép mua cổ
phiếu
như dịch vụ, công nghiệp nhẹ… đầu tư FPI còn được mở rộng sang những ngành nghề
mới
mang tính đột phá, sử dụng công nghệ khoa học ký thuật mới.
- Chính sách thu hút, quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán
phải từng bước hướng tới thông lệ quốc tế, đảm bảo tính hiệu quả và tạo tiền đề
để hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
65
- Thu hút cũng phải đi đôi với quản lý vốn. Bài học khủng hoảng của các nước
trong khu vực cho thấy việc quản lý để đảm bảo được quy mô nguồn vốn vào và cơ
cấu
nguồn vốn ra là hết sức quan trọng và nếu không có chính sách thích hợp thì đến
một lúc
nào đó việc chu chuyển vốn thông qua biên giới sẽ trở thành nguyên nhân gây
khủng
hoảng tài chính. Nguồn vốn vào phải phục vụ cho các mục đích phát triển và giảm
thiểu
các tác động tiêu cực tới việc huy động nguồn vốn trong nước, tắc động đến tỷ
giá và phải
đảm bảo có cơ cấu hợp lý trong tương qua với các nguồn vốn nước ngoài khác như
vay
thương mại và FDI. Đồng thời bên cạnh việc thu hút phải đặc biệt chú trọng đến
các biện
pháp đối phó với khả năng chuyển vốn ra nhanh và đột ngột c
ủa các nhà đầu tư nước
ngoài. Khi tình hình trong nước gặp khó khăn, các nhà lập chính sách chủ động
trong điều
hành chính sách kinh tế vĩ mô, giảm tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn và chủ động
trong việc
giám sát các dòng vốn một cách có hiệu quả.
2. Một số giải pháp
Trên cơ sở điều kiện thực trạng nền kinh tế Việt Nam cũng như rút kinh nghiệm từ
các bài học của các nướ
c trong khu vực, một số giải pháp sau đây có thể được xem xét áp
dụng.
2.1. Cải thiện môi trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Đây là giải pháp mang tầm vĩ mô nằm trong chiến lược chung về phát triển kinh tế
và có tác dụng không những chỉ đối với nhà đầu tư FPI mà còn đối với việc thu
hút các
nguồn vốn khác như FDI và vay thương mại. Giải pháp này vừa mang tính cấp bánh
vừa
mang tính lâu dài với một số nội dung chính là:
- Ổn định và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách duy trì
tăng trưởng kinh tế, cam kết với chính sách mở cửa và cải cách cơ cấu, đồng thời
cải tiến
các thủ tục hành chính, chống tham nhũng. Các biện pháp, chính sách này đã làm
cho
người đầu tư nước ngoài tin tưởng hơn vào khả năng sinh lời và an toàn khi đầu
tư vào
Việt Nam.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán nói
chung và các quy định về đầu tư nước ngoài nói riêng. Đây là giải pháp vừa phục
vụ mục
đích phát triển thị trường về lâu dài, nhưng đồng thời có tác dụng làm tăng lòng
tin tưởng
của công chúng đầu tư nước ngoài. Bên cạnh việc sửa đổi việc sửa đổi Nghị định
48/1998/NĐ-CP đang tiến hành, Việt Nam cần có những động thái bắt tay vào xây
dựng
Luật chứng khoán như thành lập Ban soạn thảo, chuẩn bị tài liệu, kêu gọi sự giúp
đỡ của
quốc tế trong việc xây dựng Luật chứng khoán…
66
2.2. Phát triển thị trường về quy mô, tăng số công ty niêm yết
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các Công ty niêm yết hấp dẫn hơn nhiều nhờ có
độ an toàn và minh trong quản trị công ty cao hơn hẳn đối với các công ty chưa
niêm yết.
Độ an toàn lại càng quan trọng hơn trong một môi trường kinh doanh còn non trẻ
như ở
Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài đã quen với những TTCK có quy chế chặt chẽ
thường muốn đầu tư vào những công ty Việt Nam được niêm yết hơn là những công ty
chưa niêm yết trên TTCK. Lý do là ở những công ty này giám đốc có trách nhiệm
lớn hơn,
chế độ báo cáo tài chính và kiểm toán chặt chẽ hơn nhiều.
Muốn mở rộng cơ cấu có sức hấp dẫn này cần có những ưu đãi thực sự để các công
ty muốn được niêm yết, hoặc phải mở rộng các quy định về trách nhiệm để áp dụng
cho
các công ty chưa niêm yết. Hiện nay, nhiều công ty chưa niêm yết không mu
ốn niêm yết vì
không phải chịu các quy định chặt chẽ về quản trị doanh nghiệp và chế độ báo cáo
áp dụng
cho các Công ty niêm yết, hoạt động của họ dễ dàng hơn rất nhiều. Sự khác biệt
giữa các
quy định áp dụng cho 2 loại công ty này là một yếu tố đáng kể.
Thêm vào đó, các công ty còn phải đáp ứng nhiều tiêu chí nữa trước khi có thể
phát
hành cổ phiếu ra công chúng trên TTCK. Có thể kể ra một số tiêu chí nh
ư có số vốn điều lệ
tối thiểu là 10 tỉ VND (tương đương 660.000 USD); kinh doanh có lãi trong 2 năm
liên tục
gần nhất; các thành viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc có kinh nghiệm; có
kế hoạch
khả thi để sử dụng tiền thu từ việc phát hành cổ phiếu; ít nhất 20% vốn cổ phần
bán ra cho
hơn 100 nhà đầu tư bên ngoài; các cổ đông sáng lập giữ tối thiểu 20% vốn cổ phần
trong ít
nhất 3 năm kể từ ngày chấm dứt phát hành; và phải có bên bảo lãnh phát hành khi
mệnh
giá cổ phiếu phát hành vượt quá 10 tỉ VND . (Điều 6 Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày
11/7/1998 của Chính phủ về Chứng khoán và thị trường chứng khoán).
Một số tiêu chí trên đây đã trở thành trở ngại làm các công ty không muốn niêm
yết. Một giải pháp để thu hút thêm đầu tư là cải thiện và mở rộng phạm vi TTCK
bằng
cách thu hút và tạo đi
ều kiện để các công ty chưa niêm yết niêm yết trên thị trường. Ví dụ
như một số công ty có thể có vốn cổ phần khá lớn nhưng vẫn chưa đáp ứng được mức
vốn
điều lệ cần có để đăng ký, nếu thay đổi tiêu chí này để tính đến vốn cổ phần của
công ty thì
sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết. Thay đổi quy định về tiêu
chí niêm
yết có th
ể khuyến khích nhiều công ty xin niêm yết, qua đó làm tăng thêm sự quan tâm của
các nhà đầu tư vào thị trường.
Nói tóm lại,như đã phân tích ở các phần trước, quy mô của thị trường càng lớn
thì
“sân chơi” dành cho các nhà đầu tư càng rộng, người đầu tư càng nhiều thì thị
trường càng
trở nên hấp dẫn. Nói cách khác nếu các điều kiện chính sách không thay đổi thì
quy mô