Luận văn: Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam
5,091
771
79
47
11%. Đến hết tháng 2 năm 2003 thì tỷ lệ này là 11,11%, và tỷ lệ sở hữu ở cả 5
công ty có
tỷ lệ sở hữu vượt quá 20% trước khi niêm yết cũng đều được điều chỉnh giảm xuống
theo
đúng tỷ lệ không chế là 20%, tỷ lệ sở hữu ở các công ty khác tăng lên đối chút,
song nhìn
chung vẫn không có nhiều biến động.
Theo số liệu thống kê được gần đây nhất, đến tháng cuối tháng 7 năm 2003, thì số
công ty niêm yết đã tăng lên thêm 2 công ty là HAS và VTC, tổng số phiếu niêm
yết cũng
đã tăng lên nhưng tỷ lệ không đáng kể và mức sở hữu của các nhà đầu tư nước
ngoài vào
TTCK Việt Nam vẫn là 11.03%, không có sự thay đổi lớn.
Bảng 6: Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài (đến 20/7/2003)
(Đơn vị : cổ phiếu).
Mã CK
Khối lượng CP
đang lưu hành
Tổng khối lượng
được phép nắm giữ
Khối lượng nắm
giữ hiện thời
Tỷ lệ sở hữu
REE 22,500,000 4,500,000 0 20.00%
SAM 18,000,000 3,600,000 1,746,050 10.30%
HAP 2,003,700 401,600 318,430 4.14%
TMS 2,191,000 440,000 0 20.00%
LAF 1,782,340 381,968 0 20.00%
SGH 1,766,300 353,260 289,460 3.61%
CAN 3,499,880 700,000 0 20.00%
DPC 1,587,280 317,456 219,156 6.19%
BBC 5,250,000 1,120,000 169,240 16.98%
TRI 3,776,500 758,060 132,360 16.51%
GIL 2,524,270 510,000 149,800 14.13%
BTC 1,261,345 252,269 164,569 6.95%
BPC 3,600,000 760,000 759,500 0.01%
BT6 5,882,690 1,176,538 1,149,038 0.47%
GMD 14,984,020 3,435,691 3,007,951 2.49%
AGF 4,029,130 835,826 47,736 18.86%
SAV 4,350,000 900,000 881,100 0.42%
TS4 1,500,000 300,000 0 20.00%
KHA 1,900,000 380,000 309,000 3.74%
HAS 1,200,000 240,000 239,500 0.04%
VTC 1,786,440 359,548 338,548 1.17%
48
Mã CK
Khối lượng CP
đang lưu hành
Tổng khối lượng
được phép nắm giữ
Khối lượng nắm
giữ hiện thời
Tỷ lệ sở hữu
Tổng 105,374,895 21,722,216 9,921,438 11.03%
(Nguồn: TTGDCK Tp.Hồ chí Minh, 2003)
4. Tình hình giao dịch của người nước ngoài trên TTCK
Trước khi đi vào phân tích tình hình giao dịch của người nước ngoài trên
TTCK Việt Nam chúng ta cần phải lưu ý một thực tế quan trọng là: theo qui
định của Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ thì tổ
chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 20% cổ phiếu đang lưu hành
của một tổ chức phát hành, trong đó một tổ chức đầu tư nước ngoài được nắm
giữ tối
đa 7% và một cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 3%. Qui định
mới này thu hẹp phạm vi và mức độ người nước ngoài được đầu tư mua cổ
phiếu của doanh nghiệp Việt Nam so với các qui định về cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước (cho phép người nước ngoài được mua tối đa 30%). Trong
số 21 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán thì có tới 5 công ty người
nước ngoài đã sở hữu từ 20-30% c
ổ phần. Để tuân thủ các qui định mới về
chứng khoán và thị trường chứng khoán này, mà phải chờ các cổ đông nước
ngoài hiện tại bán cổ phiếu của mình cho tới khi tỷ lệ sở hữu dưới 20%. Điều
này đã hạn chế một phần giao dịch cổ phiếu của người nước ngoài trên thị
trường chứng khoán. Mãi đến tháng 7 mới có quyết định 146/2003/QĐ-TTg
ban hành ngày 17/7/2003 qui
định lại tỷ lệ người nước ngoài được nắm giữ
tối đa là 30%.
Bảng 7: Tình hình đầu tư của người nước ngoài đến 30/7/2003
(Đơn vị : cổ phần).
7 tháng đầu năm
2003
STT
Chứng
khoán
Số lượng
được phép
nắm giữ
Số lượng
mua
Số lượng
bán
Số lượng
mua
Số lượng
bán
01
REE
4500000 4583070 694200 0 694200
02
SAM
2400000 1160400 0 1077100 0
49
03
HAP
401600 54200 6000 21900 0
04
TMS
440000 369000 52700 227900 10700
05
LAF
381968 579254 0 0 0
06
SGH
353260 70000 6300 34200 1300
07
CAN
700000 777420 72400 0 72400
08
DPC
317456 79800 0 5000 0
09
BBC
1120000 850260 0 445700 0
10
TRI
758060 662079 72279 530079 72279
11
GIL
340000 231100 15000 207100 8000
12
BTC
252269 77200 0 67200 0
13
BPC
760000 0 0 0 0
14
BT6
1176538 5000 0 5000 0
15
GMD
3435691 10400 0 10000 0
16
AGF
835826 734200 0 354900 0
17
SAV
891300 22700 0 22700 0
18
TS4
300000 300000 0 0 0
19
KHA
380000 385000 0 5000 0
20
HAS
240000 289800 50300 289800 50300
21
VTC
359548 351048 12500 351048 12500
Tổng số 20343516 11591931 981679 3654627 921679
(Nguồn: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh, 2003).
Bảng 7 đã đưa ra một bức tranh tương đối tổng thể về tình hình đầu tư
của người nước ngoài từ khi mở cửa TTCK Việt Nam đến ngày 30/7/2003 (số
liệu thống kê mới nhất thu thập được). Số liệu cho thấy trong 3 năm qua số
lượng cổ phiếu người nước ngoài mua cao gấp trên 10 lần số lượng bán ra.
Điều đó chính tỏ rằng cho đến nay người nướ
c ngoài chủ yếu là những người
đầu tư dài hạn, họ chủ yếu mua vào và nắm giữ chứ không bán ra. Thực tế
trên càng được khẳng định nếu chúng ta xem xét thêm một số thực tế: Người
nước ngoài không được mua của 5/21 công ty niêm yết do mức nắm giữ vượt
quá giới hạn tại thời điểm niêm yết. Và trường hợp của REE, trong thời gian
qua số lượng bán chiếm tới 76% tổng s
ố cổ phiếu người nước ngoài bán ra
trong 7 tháng đầu năm nay, nếu bỏ qua các giao dịch bán cổ phiếu của Công
ty REE thì mức chênh lệch giữa số lượng mua và bán là khoảng 45 lần.
50
Về cơ cấu ngành nghề, có thể thấy người nước ngoài đã đầu tư vào hầu
hết các lĩnh vực được phép. Nếu người nước ngoài có nắm giữ cổ phiếu của
6/19 công ty tại thời điểm niêm yết thì đến nay họ đã nắm giữ cả 20/21 công
ty, chỉ có trường hợp Công ty Bao bì Bỉm Sơn (BPC) chưa có người nước
ngoài đầu tư. Một số công ty được ng
ười đầu tư nước ngoài tập trung đầu tư,
ví dụ như công ty BBC, TRI, GIL là những công ty chưa có người nước ngoài
đầu tư từ đầu nhưng sau chưa đầy hai năm niêm yết cổ đông nước ngoài đã
chiếm lần lượt là 17%, 16%, 14% cổ phiếu lưu hành. Mức nắm giữ của
người đầu tư nước ngoài đối với cổ phần của Công ty TMS cũng đã tăng từ
5% lên đến mức tối đa là 20%.
Về người đầu tư, hiện nay TTCK Việt Nam có hơn 14.500 tài khoản giao
dịch (tính đến 20/6/2003) trong đó có hơn 90 nhà đầu tư có tổ chức, trong đó
có hơn 35 tổ chức đầu tư nước ngoài, còn số lượng nhà đầu tư cá thể nước
ngoài khoảng hơn 100. Các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường phần
lớn là người cư trú tại Việt Nam, do qui mô thị trườ
ng còn bé, các chính sách
đối với nhà ĐTNN còn chưa thực sự rõ ràng, cơ chế mở tài khoản lưu ký,
giao dịch cho nhà ĐTNN còn phức tạp nên chưa thu hút được đông đảo nhà
ĐTNN, đặc biệt là người không cư trú tại Việt Nam.
Theo bảng số liệu và phân tích trên, như vậy là cả hai loại người đầu tư
nước ngoài này (cá nhân và tổ chức) đều có đặc điểm chung là đầu tư lâu dài.
Tuy nhiên xét về quy mô thì hầu hết c
ổ phiếu người nước ngoài đã mua và
đang nắm giữ thuộc về một nhóm nhỏ các nhà đầu tư có tổ chức được thực
hiện thông qua các công ty quản lý quỹ. Số cổ phiếu do các nhà đầu tư cá thể
nắm giữ còn rất ít. Điều này cũng hợp với xu hướng chung của các nước trong
khu vực và phản ánh một thực tế là các tổ chức đầu tư có tổ chức và kh
ả năng
nghiên cứu tốt hơn, nắm được nhiều thông tin để quyết định đầu tư, trong khi
các nhà đầu tư cá thể bị hạn chế cả về khả năng thông tin, phân tích lẫn khả
năng tài chính, nhất là đối với một thị trường mới và thiếu thông tin như thị
trường Việt Nam. Đồng thời, thực trạng về cơ cấu người đầu tư nướ
c ngoài
51
cũng đưa ra một thông điệp cho việc thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài
trong thời gian tới: đó là cần phải cải thiện chất lượng thông tin thị trường để
thu hút được các nhà đầu tư cá thể, đồng thời cần có những biện pháp để theo
dõi hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đặc biệt là lĩnh
vực chứng khoán.
5. Đánh giá chung tình hình đầu tư nước ngoài qua Thị trường Chứng
khoán Việt Nam
Thực trạng đầu tư của người nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam
trong hơn 3 năm qua cho thấy một thực trạng là nguồn vốn và số lượng người đầu
tư nước
ngoài chưa nhiều, chưa có có tác động thực sự tới sự phát triển kinh tế đất
nước. Tuy
không có số liệu chính xác, nhưng theo ước tính thì tổng số vốn FPI ròng thu hút
được qua
thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ mới chưa đầy 110 tỷ đồng, một con số nhỏ bé.
Trong
danh mục thống kê của chính phủ cũng chưa có nguồn vốn FPI này, các tài liệu
thống kê
chính thức nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng không hề thấy đề cập
đến, nói
đến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là ai cũng nghĩ tới đó là đầu tư trực tiếp
FDI.
Điều này cũng là hợp lý đối với một thị trường chứng khoán vừa mới được thành
lập,
quy mô còn nhỏ bé, khó khăn trong việc thu hút người đầu tư nói chung và trong
đó người đầu tư
nước ngoài cũng phải là ngoại lệ. Thị trường chứng khoán Việt Nam lại là một thị
trường mới đi
vào hoạt động trong một thời gian ngắn nên về cơ sở pháp lý cũng như cơ chế vận
hành, công bố
thông tin còn nhiều bất cập, nên mức độ quan tâm và hiểu biết của người đầu tư
nước ngoài cũng
như trong nước còn nhiều hạn chế.
Cho đến nay, đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa được
thống kê và tính đến trong cơ cấu nguồn vốn nước ngoài, và thực tế là nó chưa có
được một tác
động thực sự nào lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Nguyên nhân cơ bản là tổng
giá trị của thị
trường chứng khoán Việt Nam hiện nay cũng chỉ mới chiếm chưa được tới 2% GDP của
Việt
Nam, và thị trường chứng khoán Việt Nam cũng không có tác động lớn tới nền kinh
tế quốc
dân.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và thị
trường
chứng khoán nói riêng, thì nguồn vốn FPI sẽ dần trở thành một nguồn vốn quan
trọng
trong trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Sự xuất hiện của
nguồn
vốn này là một điều rất đáng kích lệ, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài
chính Việt
Nam. Trong tương lai cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
thì
nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán vào Việt Nam sẽ tăng lên
và
52
chiếm một tỷ trọng nhất định trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư nước ngoài, góp phần
tăng
cường nguồn vốn đầu tư nước ngoài để bổ sung cho các nguồn khác đáp ứng nhu cầu
vốn
đầu tư toàn xã hội.
53
CHƯƠNG III:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM
THỰC TẾ CHO THẤY, CHO ĐẾN NAY, Ở TẤT CẢ CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN
VÀ NHIỀU NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN ĐỀU CÓ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
HOẠT ĐỘNG, ĐÓ LÀ VÌ VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA TTCK TRONG NỀN KINH
TẾ VÀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA CÁC QUỐC GIA. MẶC DÙ TTCK VIỆT NAM
QUY MÔ CÒN NHỎ BÉ, CHƯA TÁC ĐỘNG NHIỀU ĐẾN NỀN KINH TẾ QUỐC
DÂN VÀ CHƯA THỂ HIỆN ĐƯỢC HẾT VAI TRÒ CỦA NÓ NHƯNG THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM CÓ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN. CHÚNG TA ĐÃ CÓ
MỘT HỆ THỐNG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN, CÓ NHIỀU DOANH NGHIỆP CỔ
PHẦN HOÁ, QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN CÓ THỂ THÚC ĐẨY LẪN NHAU VÀ VỐN TRONG DÂN TÍCH TỤ NHIỀU
CŨNG LÀ ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM.
XUẤT PHÁT TỪ VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA TTCK ĐỐI VỚI NỀN KINH
TẾ, UỶ BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC ĐÃ TẬP TRUNG XÂY DỰNG “CHIẾN
LƯỢC VÀ LỘ TRÌNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ĐẾN NĂM
2010”. NGÀY 5/8/2003, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ CŨNG ĐÃ KÝ QUYẾT ĐỊNH SỐ
163/2003/QĐ-TTG PHÊ DUYỆT “CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010”.
CHIẾN LƯỢC RA ĐỜI VỚI MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN CẢ VỀ QUY MÔ HOẠT ĐỘNG NHẰM TẠO RA KÊNH HUY ĐỘNG VỐN
TRUNG VÀ DÀI HẠN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN, GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM; DUY TRÌ TRẬT TỰ, AN TOÀN, MỞ RỘNG
PHẠM VI, TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ QUẢN LÝ, GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG NHẰM
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI ĐẦU TƯ; TỪNG BƯỚC
NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ.
54
1. Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam
Theo Chiến lược phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam của chính phủ, quan
điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán của Việt Nam là:
- Phát triển thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế,
từng bước
hội nhập với thị trường tài chính khu vực và thế giới.
- Xây dựng thị trường chứng khoán thống nhất trong cả nước, hoạt động an toàn,
hiệu quả góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy tiến trình cổ
phần hoá
các doanh nghiệp nhà nước.
- Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật, tạo điều kiện để thị trường chứng
khoán hoạt động và phát triển; đảm bảo quyền lợi, lợi ích hợp pháp và có chính
sách
khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
- Bảo đảm tính thống nhất của thị trường tài chính trong phạm vi quốc gia, gắn
việc
phát triển thị trường chứng khoán với việc phát triển thị trường vốn, thị trường
tiền tệ, thị
trường bảo hiểm.
2. Định hướng phát triển thị trường Việt Nam
Theo “Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010”
được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xây dựng và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, định
hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, mở rộng quy mô của thị trường chứng khoán tập trung, phấn đấu đưa
tổng giá trị thị trường đến năm 2005 đạt mức 2-3% GDP và đến năm 2010 đạt mức
10-
15% GDP.
- Tập trung phát triển thị trường trái phiếu, trước hết là trái phiếu Chính phủ
để huy
động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển.
- Tăng số lượng các loại cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
nhằm tăng quy mô về vốn cho các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh
của các công ty niêm yết.
Thứ hai, xây dựng và phát triển các Trung tâm giao dịch Chứng khoán, Sở giao
dịch Chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán nhằm cung cấp các dịch vụ giao
dịch,
đăng ký, lưu ký và thanh toán chứng khoán theo hướng hiện đại hoá.
- Xây dựng Trung tâm giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch
Chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin trên
thị
trường tự động hoá hoàn toàn.
55
- Xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà
nội; chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường Giao dịch Chứng
khoán
phi tập trung (OTC).
- Thành lập Trung tâm Lưu ký độc lập cung cấp các dịch vụ đăng ký chứng khoán,
lưu ký và thanh toán cho các hoạt động giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch
Chứng
khoán và Trung tâm giao dịch Chứng khoán; mở rộng phạm vi lưu ký các loại chứng
khoán chưa niêm yết.
Thứ ba, phát triển các định chế tài chính trung gian cho thị trường chứng khoán
Việt Nam.
- Tăng qui mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các công ty
chứng khoán. Phát triển các công ty chứng khoán theo hai loại hình : Công ty
chứng khoán
đa nghiệp vụ và Công ty chứng khoán chuyên doanh nhằm tăng chất lượng cung cấp
dịch
vụ và khả năng chuyên môn hoá hoạt động nghiệp vụ.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có
đủ
điều kiện thành lập các công ty chứng khoán, khuyến khích các công ty chứng
khoán thành
lập các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố lớn,
các khu vực
đông dân cư trong cả nước.
- Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán cả về quy mô và chất
lượng hoạt động. Đa dạng hoá các loại hình sở hữu đối với công ty quản lý quỹ
đầu tư.
Khuyến khích các công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu
tư.
- Thành lập một số công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các
loại
chứng khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ tư, phát triển các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân
- Thiết l
ập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các ngân hàng thương mại,
các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ
bảo hiểm,
quỹ đầu tư… tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia thị trường với vai trò là
các nhà
đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của các nhà tạo lập thị
trường.
- Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; t
ạo điều kiện cho các
nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào thị trường chứng khoán thông
qua
góp vốn vào các quỹ đầu tư.
3. Một số giải pháp thực hiện
Để thực hiện được các mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán đã đề ra, Uỷ
ban
Chứng khoán Nhà nước đã nghiên cứu và đưa ra được một số giải pháp sau:
- Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán.
56
Ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thị trường
chứng khoán theo hướng bao quát, toàn diện và phù hợp với thực tiễn thị trường.
Xây dựng
Luật chứng khoán trình Quốc hội thông qua vào năm 2005.
- Tăng cung chứng khoán cho thị trường cả về số lượng, chất lượng và chủng loại.
+ Cải tiến phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo
phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ; đa dạng hoá các
kỳ hạn
trái phiếu Chính phủ để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường vốn; xây
dựng và
thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu, nhằm cung cấp đều đặn khối lượng
trái phiếu
cho thị trường chứng khoán.
+ Gắn tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với việc phát hành cổ phiếu
ra
công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán.
+ Lựa chọn các doanh nghiệp lớn, các ngân hàng thương mại cổ phần có đủ điều
kiện để phát hành thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập
trung.
+ Mở rộng việc chuyển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành các công
ty cổ phần và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết cổ
phiếu
trên thị trường tập trung.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để đưa các loại trái phiếu công trình, trái
phiếu đô
thị lên niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung.
+ Phát triển các loại chứng khoán khác như : quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công
ty, trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư để đưa vào niêm
yết và
giao dịch trên thị trường chứng khoán.
+ Giám sát và hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc thực hiện thông lệ tốt nhất
về
quản trị công ty; thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán theo quy định của pháp
luật. Tăng
cường quản lý, giám sát các công ty niêm yết, trong việc thực hiện nghĩa vụ công
bố thông
tin và các nghĩa vụ đối với nhà đầu tư.
- Thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia thị
trường chứng khoán.
+ Thực hiện chính sách khuyến khích về thuế đối với nhà đầu tư.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân
nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán.
+ Mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với các nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường chứng khoán Việt Nam; cho phép các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước
ngoài
góp vốn, mua cổ phần hoặc thành lập Công ty chứng khoán liên doanh với các pháp
nhân