Luận văn: Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam
5,099
771
79
37
- Hàng hoá trên TTCK tuy đã tăng về số lượng nhưng thực sự là chưa nhiều và
chưa đa dạng về chủng loại, trong đó khối lượng trái phiếu niêm yết chiếm tỷ
trọng lớn,
nhưng giao dịch chứng khoán trên thị trường chủ yếu tập trung vào cổ phiếu. Cổ
phiếu
niêm yết phần lớn cổ phiếu của các DNNN CPH (21/22 doanh nghiệp đang niêm yết
trên
thị trường- tính đến thời điểm hiện nay) là những doanh nghiệp có tình hình tài
chính
tương đối lành mạnh, hoạt động có hiệu quả nhưng đa phần vồn kinh doanh nhỏ.
- Về hoạt động kinh doanh và quản trị của các Công ty niêm yết. Hiện tại, các
công
ty có tỷ lệ doanh thu cao nhưng phần lớn các công ty có qui mô vốn nhỏ; sản phẩm
của các
công ty này có khả năng cạnh tranh còn khiêm tốn trên thị trường, đặc biệt là
trên thị
trường nước ngoài; cơ chế quản trị công ty, chế độ kế toán, kiểm toán có những
điểm chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế. Bước đầu tham gia thị trường các tổ chức niêm yết
chưa thấy
hết được tầm quan trọng của công việc công khai thông tin. Do đó chưa chủ động,
tự giác
cung cấp thông tin cho công chúng đầu tư, chính điều này phần nào ảnh hưởng đến
lòng tin
và quyết định tham gia thị trường của người đầu tư.
- Hoạt động của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, còn hạn chế về mô hình tổ
chức và trình độ kỹ thuật. Do TTGDCK là một đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc
UBCKNN kiêm thêm chức năng lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ chỉ phù hợp trong
giai
đoạn đầu của thị trường. Về lâu dài, Trung tâm giao dịch cần phải được tổ chức
lại theo
hướng nâng cao tính tự chủ trong việc tổ chức vận hành hoạt động của thị trường.
Bộ phận
lưu ký, đăng ký, thanh toán cần hải được tách biệt thành một trung tâm độc lập,
có chức
năng chuyên trách để có thể phát triển theo hướng chuyên sâu và mở rộng qui mô
hoạt
động. Về năng lực kỹ thuật, hệ thống giao dịch hiện nay của TTGDCK chỉ là hệ
thống bán
tự động với mạng cục bộ, năng lực hoạt động còn hạn chế, mức độ tự động hoá của
các hệ
thống còn thấp dẫn đến công suất và hiệu quả chưa cao và khó khăn trong việc
thực hiện
chức năng giám sát thị trường. Hệ thống công bố thông tin thị trường hiện nay
tuy đã cung
cấp được một số thông tin về giá, khối lượng chứng khoán giao dịch hàng ngày,
tuy nhiên
lượng thông tin cung cấp một mặt chưa đáp ứng nhu cầu của các đối tượng tham gia
thị
trường, đặc biệt là các thông tin về Công ty niêm yết, thông tin về quản lý thị
trường.
- Hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế.
Qua
gần 3 năm hoạt động các Công ty chứng khoán đã đạt được những kết quả nhất định,
tuy
nhiên còn nhiều mặt hạn chế, như: Thứ nhất, đội ngũ cán bộ nhân viên kinh doanh
còn hạn
chế về kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp, chưa thực sự phát huy vai
trò trung
gian, kích hoạt thị trường; Thứ hai, các Công ty chứng khoán mới chủ yếu triển
khai được
nghiệp vụ môi giới và tự doanh, chỉ một vài công ty triển khai thực hiện nghiệp
vụ bảo
38
lãnh phát hành và chủ yếu là bảo lãnh phát hành trái phiếu; Thứ ba, chát lượng
dịch vụ
Công ty chứng khoán cung cấp cho khách hàng chưa cao, qui trình nghiệp vụ của
Công ty
chứng khoán đôi lúc còn chưa làm người đầu tư thực sự tin tưởng.
- Về vấn đề thông tin TTCK. Qua thực tiễn hoạt động thị trường cho thấy, vấn đề
nổi cộm hiện nay là việc cung cấp thông tin của các đối tượng tham gia thị
trường, đặc biệt
tổ chức niêm yết. Nhận thức về nghĩa vụ công bố thông tin của các doanh nghiệp
chưa cao,
công ty chậm công bố thông tin hoặc chỉ công bố những thông tin có lợi cho doanh
nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp đã lúng túng về công bố thông tin khi gặp phải các sự cố liên
quan
đến kế hoạch sản xuất kinh doanh, chi trả cổ tức, gây tâm lý hoang mang cho công
chúng
đầu tư.
- Công tác quản lý thị trường còn lúng túng và chưa thực sự đồng bộ. Bên cạnh
những vấn đề tồn tại liên quan đến tổ chức bộ máy, nhân sự quản lý, các chính
sách, biện
pháp quản lý TTCK thời gian qua cnf thể hiện sự thiếu chủ động và thiếu kinh
nghiệm của
đội ngũ cán bộ quản lý thị trường. Việc quản lý giám sát thị trường chưa có kinh
nghiệm
nên chưa kịp thời xử lý các tình huống, đặc biệt là lúc thị trường lên xuống
thất thường;
quản lý công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, giám sát hoạt động của các
Công ty
chứng khoán còn hạn chế.
- Chưa có thị trường giao dịch chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mặc
dù các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các
doanh
nghiệp hiện có. Việc giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp này diễn ra trên
thị trường tư
do, chưa đưa vào quỹ đạo quản lý của nhà nước, nên chứa đựng nhiều nguy cơ bất
ổn, cần
sớm tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- TTCK Việt Nam vẫn chưa thực sự thu hút được đông đảo các nhà đầu tư, đặc biệt
là sự
tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức, điều này dẫn đến hệ quả là thị trường dễ
biến động do tác
động tâm lý c
ủa các nhà đầu tư nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp; chưa huy động tiềm năng đầu tư
lớn của các tổ chức.
III. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1.Hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài qua TTCK Việt Nam hiện
nay
Luật pháp là một công cụ rất quan trọng và hữu hiệu để có thể giúp cho thị
trường
chứng khoán Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài. Hành lang pháp lý về đầu tư nước
ngoài
qua thị trường chứng khoán bao gồm một loạt các văn bản luật về chứng khoán (
các loại
39
công ty,vốn điều lệ và vốn cổ phần, cổ phần được phép mua, đầu tư nước ngoài,
việc bán
cổ phần cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài…)
Năm 1999, Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Doanh nghiệp - một luật phù hợp
các thông lệ quốc tế. Luật Doanh nghiệp đã đưa ra được một khung pháp lý toàn
diện về
các vấn đề thành lập, kinh doanh, tổ chức lại và thanh lý các công ty tư nhân và
các qui
định về trách nhiệm của người giám đốc và người quản lý công ty.
Cùng với Luật Doanh nghiệp là sự ra đời của Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính
phủ về Chứng khoán và Thị trường Chứng khoán ngày 11/7/1998. Nghị định 48 qui
định
việc chào bán ra công chúng cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quĩ đầu tư và các
loại chứng
khoán khác. Theo nghị định này thì các công ty và cá nhân nước ngoài được phép
mua bán
chứng khoán của các công ty trong nước tại Việt Nam trong một số trường hợp nhất
định.
Một văn bản pháp lý quan trọng nữa là Quyết định 146 của Chính phủ ngày
17/7/2003 về Tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào Thị trường chứng khoán Việt
Nam,
giới hạn tỷ lệ đầu tư nước ngoài trong các công ty trong nước được niêm yết trên
TTCK
Việt Nam. Quyết định 146 này thay thế cho Quyết định 139/1999/QĐ-TTg trước đây.
Ngoài ra, hành lang pháp lý về chứng khoán được bổ sung thêm Quyết định 36 của
Chính phủ ngày 11/3/2003 ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà Đầu tư
nước
ngoài trong các Doanh nghiệp Việt Nam. Quyết định 36 quy định cả trường hợp góp
vốn
nước ngoài vào các Công ty trách nhiệm hữu hạn (và các loại công ty khác) lẫn
vốn góp
của bên ngước ngoài trong các Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và các công ty
cổ
phần. Quyết định này có phạm vi rộng hơn Quyết định 146, áp dụng cho tất cả các
công ty
trong nước chứ không chỉ những công ty được niêm yết trên TTCK. ( Qui chế ban
hành
kèm theo Quyết định 36 này thay thế cho Qui chế về Bán Cổ phần cho nhà đầu tư
nước
ngoài trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và các Công ty cổ phần Việt Nam
ban
hành kèm theo Quyết định 145/199/QĐ-TTg ngày 26/6/1999 của Thủ tướng chính phủ).
1.1.Các loại công ty được phép đầu tư
Các công ty trong nước hoạt động tại Việt Nam gồm nhiều loại, trong đó có Doanh
nghiệp nhà nước (gồm cả những doanh nghiệp đang trong quá trình cổ phần hoá
thành
Công ty cổ phần), Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Văn bản luật
mới ban
hành Nghị định 38/2003/NĐ-CP của chính phủ ngày 14/4/2003 cho phép thành lập một
loại công ty có vốn ĐTNN mới kết hợp giữa loại hình công ty trong nước và công
ty có
vốn nước ngoài. Các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
hiện
tại có thể chuyển đổi thành “Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài” (FISC).
Các FISC
40
sẽ tuân thủ các quy định của pháp luật về công ty trong Luật doanh nghiệp và
được phép
niêm yết trên TTCK, nhưng giấy phép đầu tư và các hoạt động được phép vẫn sẽ
được điểu
chỉnh theo Luật Đầu tư nước ngoài.
Có 2 loại công ty trong nước tại Việt Nam được phép phát hành chứng khoán. Các
công ty niêm yết là những công ty đáp ứng được các tiêu chí theo qui định của
pháp luật về
chứng khoán, quyết định niêm yết, tuân thủ các qui chế trong Nghị định 48 và
chịu sự
kiểm soát của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Đến hết 11 năm 2003 Việt Nam có 22
công
ty được niêm yết.
Những công ty cổ phần trong nước còn lại tại Việt Nam có thể coi là các công ty
“chưa niêm yết”. Trong khi các nhà Đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ vốn cổ
phần
trong các công ty “chưa niêm yết” thì các doanh nghiệp này lại không phải tuân
thủ khung
pháp lý của UBCKNN. Trừ một số yêu cầu nhỏ áp dụng cho tất cả các Công ty cổ
phần,
các Công ty cổ phần “chưa niêm yết” có thể phát hành cổ phiếu mà không bị hạn
chế về số
lượng nhà đầu tư và không cần phải đáp ứng yêu cầu nào khác về cung cấp thông
tin hay
quản lý công ty.
Sự khác biệt này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà đầu tư nước ngoài vì nó
dẫn
đến các điểu kiện, thuận lợi và bất lợi khác nhau. Đáng tiếc là chưa có văn bản
luật nào
quy định về mối quan hệ tương tác giữa hai chế độ tham gia của người nước ngoài
vào các
Công ty cổ phần chưa niêm yết và các Công ty cổ phần niêm yết của Việt Nam. Do
đó, để
tìm cách thu hút thêm Đầu tư nước ngoài vào TTCK cần phải xem xét các qui định
của
pháp luật về các Công ty niêm yết lẫn các công ty chưa niêm yết.
1.2. Vốn điều lệ và vốn cổ phần
Theo quy định của pháp luật, một công ty Việt Nam được định giá theo “vốn điều
lệ” của công ty đó. Thuật ngữ này được định nghĩa trong Luật doanh nghiệp là vốn
do tất
cả các thành viên của công ty đóng góp theo quy định trong điều lệ công ty (Điều
3- Luật
doanh nghiệp).
Tuy nhiên, vốn điều lệ là một con số tương đối, thường dựa trên giá trị cổ phiếu
của
công ty tại thời điểm cổ phiếu được phát hành cho các cổ đông sáng lập. Trên
thực tế,
nhiều công ty có số vốn góp của cổ đông (hay còn gọi là “vốn cổ phần”) cao hơn
số vốn
điều lệ nhiều do thu nhập giữ lại và vốn thực đóng góp ngoài vốn điều lệ.
1.3. Cổ phần
Nhà Đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần trong các Doanh nghiệp nhà nước cổ
phần hoá và Công ty cổ phần.
41
Khi một nhà Đầu tư nước ngoài mua một “cổ phần” của một công ty tức là mua
một phần quyền sở hữu tài sản của chính công ty đó và quyền bỏ phiếu với tư cách
là cổ
đông về những vấn đề quy định trong Luật doanh nghiệp.
1.4. Đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài dưới hình thức mua cổ phần là hoạt động được phép nhưng phải
chịu một số giới hạn. Mặc dù có thể mua cổ phiếu khi một Doanh nghiệp nhà nước
mới cổ
phần hoá phát hành cổ phiếu đợt đầu, nhưng các nhà đầu tư nước ngoài chỉ có thể
mua cổ
phiếu của các Công ty cổ phần trong các đợt phát hành sau hoặc mua cổ phiếu hiện
có từ
các cổ đông khác hoặc từ công ty. Nhà Đầu tư nước ngoài không được phép trở
thành cổ
đông sáng lập.
Một quy định quan trọng khác là các công ty và cá nhân nước ngoài chỉ được nắm
giữ số cổ phiếu tối đa là 30% vốn điều lệ trong một công ty trong nước chưa niêm
yết ở
Việt Nam (Điều 4, Quyết định 36/2003/QĐ-TTg ngày 11/3/2003 của Thủ tướng Chính
phủ). Đối với các Công ty niêm yết, mức trần là 30% tổng số cổ phiếu được niêm
yết của
công ty (Điều 1 QĐ 146/2003/QĐ-TTg). Như đã nêu trên, vốn điều lệ có thể không
bằng
vốn cổ phần của các cổ đông trong công ty, do đó trên thực tế tỉ lệ tham gia của
nước ngoài
có thể còn thấp hơn nưa. Thêm vào đó, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép
mua cổ
phiếu trong các công ty thuộc các lĩnh vực được pháp luật quy định (Quyết định
260/2002/QĐ-BKH ngày 10/4/2002 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
1.5. Bán cổ phần cho nhà Đầu tư nước ngoài
Để bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, công ty Việt Nam phải có sự phê chuẩn
của cơ quan có thẩm quyền (đối với Doanh nghiệp nhà nước là cơ quan nhà nước có
thẩm
quyền phê duyệt kế hoạch cổ phần của doanh nghiệp; đối với Công ty cổ phần là
đại hội cổ
đông hoặc hội đồng quản trị tuỳ từng công ty). Sau khi được phê chuẩn và trước
khi bán cổ
phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài, công ty phải thông báo trên các phương tiện
thông tin đại
chúng và công bố công khai những thông tin chủ yếu về công ty cho nhà đầu tư
nước
ngoài.
Nếu có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua cổ phần với tổng giá trị vượt
30% vốn điều lệ (là mức đầu tư nước ngoài tối đa được phép) thì công ty có thể
tự lựa chọn
nhà đầu tư hoặc thực hiện bán đấu giá cổ phần.
Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần bằng tiền mặt, dưới hình thức tài sản
là
máy móc thiết bị, nguyên liệu, hàng hoá, chuyên giao công nghệ, quyền sở hữu trí
tuệ,
chứng khoáng có giá hoặc các tài sản (chưa được định nghĩa) khác.
42
2. Qui mô nguồn vốn ĐTNN qua TTCK (FPI) trong tổng nguồn vốn vào
Việt Nam
Trong vòng nhiều năm trước khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á và trước khi
Việt Nam mở cửa thị trường chứng khoán, nguồn vốn nước ngoài nói chung đổ vào
Việt
Nam ở mức độ tương đối cao. Qui mô nguồn vốn vào tương đối cao do Việt Nam có
được
những điểm khá hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài (các yếu tố kéo), trong đó đặc
biệt là
những thành công của công cuộc đổi mới chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế
thị
trường xã hội chủ nghĩa, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, cải cách cơ
cấu mạnh
mẽ… Cơ cấu nguồn vốn chủ yếu là FDI, nguồn vay thương mại ngắn và dài hạn ở mức
thấp hơn và nguồn FPI (nguồn vốn ĐTNN qua TTCK) rất nhỏ và chưa có trong danh
mục
thống kê của chính phủ. (Xem biểu đồ 6)
Biểu đồ 6: Cơ cấu nguồn vốn ròng vào Việt Nam.
(Đơn vị: Triệu đô la).
Nguồn: IMF (2000)
Ngoại trừ thực tế là Việt Nam chưa có nguồn FPI, cơ cấu nguồn vốn vào Việt Nam
có thể được coi là tương đối lý tưởng vì nguồn FDI ít biến động. Tuy nhiên, khi
cuộc
khủng hoảng châu Á nổ ra thì nguồn vốn vào Việt Nam cũng đã giảm một cách đáng
kể.
Biểu đồ 6 cho thấy ngay sau khi khủng hoảng nổ ra, nguồn vốn vay thương mại ngắn
hạn
bị rút ra khỏi Việt Nam với qui mô lớn trong các năm 1997-1999. Nguồn vốn vay
dài hạn
vẫn giữ mức tăng trưởng tương đối cao nhờ chủ yếu vào nguồn ODA. Nguồn FDI cũng
sụt
giảm tương đối mạnh một phần do các đối tác chính trong khu vực cũng bị ảnh
hưởng
43
nặng nề của cuộc khủng hoảng nên từ bỏ dự án hoặc chậm giải ngân, đồng thời các
yếu tố
kéo của Việt Nam cũng không còn được hấp dẫn như trước.
Kịch bản về chu chuyển vốn vào Việt Nam có nhiều tương đồng với các nước trong
khu vực. Thứ nhất, trong giai đoạn kinh tế phát triển, nguồn vốn nước ngoài vào
nhiều và
đã góp phần không nhỏ giúp tăng trưỏng kinh tế trong nước. Tuy nhiên, nguồn vốn
vào
cũng rất dễ bị tổn thương bởi những cú sốc cả bên trong lẫn bên ngoài. Khi nền
kinh tế có
biểu hiện rơi vào tình trạng khó khăn hoặc khủng hoảng thì khả năng đào thoát
vốn có thể
diễn ra rất nhanh, đặt nước tiếp nhận vào tình trạng khó khăn về vốn đầu tư.
Trên thực tế,
tổng m
ức đầu tư toàn xã hội của Việt Nam đã chững lại trong năm 1998 và sụt giảm trong
năm 1999 chủ yếu là do tác động của tình trạng đào thoát vốn. Nếu Việt Nam đã có
một thị
trường chứng khoán phát triển và nguồn FPI tương đối lớn trong cơ cấu tổng nguồn
vốn thì
khả năng đào thoát vốn trong những năm 1998-1999 sẽ lớn hơn và do đó tổng mức
đầu tư
toàn xã hội với nền kinh tế nói chung sẽ bị ảnh hưởng nhiều.
Thực tế trên cũng cho thấy thu hút nguồn nước ngoài để phát triển kinh tế là
quan
trọng, nhưng cũng phải đi kèm với những biện pháp giám sát và quản lý thích hợp
nhằm
hạn chế những rủi ro tiềm tàng. Việc điều chỉnh tổng mức nguồn vốn vào và đạt
được một
cơ cấu hợp lý là rất quan trọng, và điều đó chỉ có thể đạt được khi các nhà lập
chính sách
có cách nhìn tổng thể và phối hợp chặt chẽ với nhau trong điều tiết vĩ mô.
3. Tình hình nắm giữ cổ phiếu của người nước ngoài
Như đã nói ở trên, người nước ngoài được phép đầu tư mua cổ phần của doanh
nghiệp Việt Nam trước khi TTCK Việt Nam đi vào hoạt động và đượ
c phép nắm giữ tối đa
là 30% cổ phiếu lưu hành của một công ty. Khi chưa có TTCK thì thông tin về hoạt
động
của các doanh nghiệp rất hạn chế và do đó cơ hội đầu tư giành cho các nhà đầu tư
cá nhân
là rất hiếm hoi. Hoạt động đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là thông
qua các
tổ chức đầu tư.
Cho đến nay chúng ta vẫn chưa có số liệu thống kê chính xác về tổng mức
đầu tư của người nước ngoài vào các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên nhìn vào
thực trạng của các công ty niêm yết trên TTCK ta có thể thấy các nhà đầu tư nước
ngoài đã nắm giữ cổ phần của 6/19 công ty niêm yết trước khi các công ty này
chính thức “lên sàn” (tính đến cuối năm 2002, xem bảng 4). Mức nắm giữ cổ
phiếu của người nước ngoài tại các công ty này tương
đối cao, hầu hết từ 20%-
30% tức là cao hơn nhiều so với qui định về mức tối đa về nắm giữ cổ phiếu của
44
người nước ngoài được qui định trong Nghị định 139/1999/QĐ-TTg về tỷ lệ tham
gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam tức là 20%. Xét về tổng thể thì các
nhà đầu tư nước ngoài đã nắm giữ khoảng 7,17% tổng số cổ phiếu của các công ty
niêm yết, một tỷ lệ tương đối thấp nếu so sánh với các nước khác.
Bảng 4:
Tình hình nắm giữ cổ phiếu của người nước ngoài tại thời điểm niêm yết
(Đơn vị: cổ phiếu).
STT Mã CP Số CP niêm yết Nước ngoài nắm Tỷ lệ
01 REE 15000000 3750000 25.00%
02 SAM 12000000 0 0.00%
03 HAP 1008000 0 0.00%
04 TMS 2200000 110000 5.00%
05 LAF 1909840 579246 30.00%
06 SGH 1766300 0 0.00%
07 CAN 3500000 894950 25.57%
08 DPC 1587280 0 0.00%
09 BBC 5600000 0 0.00%
10 TRI 3790300 0 0.00%
11 GIL 1700000 0 0.00%
12 BTC 1261345 0 0.00%
13 BPC 3800000 0 0.00%
14 BT6 5882690 0 0.00%
15 GMD 17178455 0 0.00%
16 AGF 4179130 835826 20.00%
17 SAV 4500000 0 0.00%
18 TS4 1500000 300000 20.00%
19 KHA 1900000 0 0.00%
Tổng 90263340 6470022 7.17%
(Nguồn: TTGDCK Tp.Hồ chí Minh, 2002)
Trước khi quyết định 146/2003/QĐ-TTg ban hành ngày 17/7/2003 thay thế cho
nghị định 139/1999/QĐ-TTg thì tỷ lệ tối đa mức cổ phần của người nước ngoài được
nắm
giữ là 20%, do vậy có sự hạn chế trong việc đầu tư của người nước ngoài vào TTCK
Việt
Nam trong các công ty mà tỷ lệ nắm giữ đã vượt quá 20%. Tại các công ty này
người nước
ngoài chỉ được phép bán chứng khoán đi chứ
không được mua thêm chứng khoán, cụ thể là
người nước ngoài không được mua 5/21 công ty niêm yết là REE, TMS, LAF, CAN,
TS4,
và cho tới tháng 10/2003 thì tỷ lệ sở hữu hiện tại vẫn ở mức cao nhất được qui
định theo
nghị định 139 là 20%. Tuy nhiên Nghị định 146 ban hành thay thế cho nghị định
139 đã
qui định tăng tỷ lệ nắm giữ tối đa lên 30%, việc này sẽ làm thay đổi tỷ lệ nắm
giữ cổ phần
45
của nhà đầu tư nước ngoài theo hướng tăng lên. (tuy nhiên đến hết tháng 10 năm
nay thì
nghị định này vẫn chưa có thông tư hướng dẫn thi hành, và số liệu tổng mức đầu
tư người
nước ngoài đến hết tháng 11 vẫn chưa có).
46
Bảng 5: Tình hình sở hữu cổ phiếu của người nước ngoài
(đến hết năm 2002).
(Đơn vị : cổ phiếu).
STT Mã CK
Tổng số CP được
phép nắm giữ
Số CP nắm
giữ hiện tại
Tỷ lệ sở hữu
hiện tại
Tỷ lệ sở hữu
khi niêm yết
01 REE 4,500,000 4,583,070 20.37% 25.00%
02 SAM 2,400,000 1,170,800 9.76% 00.00%
03 HAP 401,600 73,000 3.64% 00.00%
04 TMS 440,000 438,500 19.93% 5.00%
05 LAF 381,968 579,254 30.33% 30.00%
06 SGH 353,260 63,700 3.61% 00.00%
07 CAN 700,000 777,420 22.21% 25.57%
08 DPC 317,456 79,800 5.03% 00.00%
09 BBC 1,120,000 900,260 16.08% 00.00%
10 TRI 758,060 604,800 15.96% 00.00%
11 GIL 340,000 220,000 12.94% 00.00%
12 BTC 252,269 73,200 5.80% 00.00%
13 BPC 760,000 0 0.00% 00.00%
14 BT6 1,176,538 21,000 0.36% 00.00%
15 GMD 3,435,691 44,800 0.26% 00.00%
16 AGF 836,826 782,100 18.71% 20.00%
17 SAV 900,000 22,700 0.50% 00.00%
18 TS4 300,000 300,000 20.00% 20.00%
19 KHA 380,000 56,300 2.96% 00.00%
Tổng 19,753,668 10,790,704 10.93% 7.17%
(Nguồn : Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh, 2002).
Nhìn vào bảng 5 ta có thể thấy rõ tình hình sở hữu của người nước ngoài sau khi
các công ty niêm tham gia giao dịch trên TTCK đến cuối năm 2002 so với tỷ lệ sở
khi bắt
đầu niêm yết đã tăng một cách rõ rệt, từ 7,17% tăng lên 10.93%. Mặc dù tỷ lệ sở
hữu ở 5
công ty trước khi niêm yết vượt quá 20% đã phải điểu chỉnh giảm đi, nhưng với
các công
ty niêm yết khác chưa có sự tham gia của người nước ngoài thì tỷ lệ sở hữu tăng
lên, làm
cho tổng tỷ lệ sở hữu đối với tất cả các công ty niêm yết trên TTCK tăng lên
(tăng lên hơn
150%). Có thể nhận thấy là tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các tổ chức niêm yết của
nhà đầu tư
nước ngoài cho đến nay vẫn không có nhiều thay đổi và biến động lớn, vẫn ở mức
khoảng