Luận văn: Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam
5,096
771
79
17
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1.Tình hình kinh tế vĩ mô
1.1. Các thành tựu
1.1.1.Lạm phát kiềm chế dưới một con số
Trong suốt một thập kỷ trước khi cuộc khủng hoảng Chấu Á xảy ra, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu đáng kể trong tiến trình phát triển kinh tế. Tỷ lệ tăng
trưởng GDP
bình quân một năm trong giai đoạn 1989-1996 là 8,2%. Lạm phát giảm từ mức độ 3
con
số trong những năm 80 xuống còn 1 con số trong gần hết các năm thập kỷ 90.
Biểu đồ 1: Tình hình kinh tế vĩ mô
Nguồn: Báo cáo của GSO(1999, trang 31) và IMF (200, trang 3) về tình hình kinh
tế
Việt Nam.
1.1.2. GDP tăng trưởng ở mức cao
Bức tranh nền kinh tế của Việt Nam đã được cải thiện đang kể trong vòng 5 năm
qua,
kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997. Sự cải thiện này
là nhờ
một loạt các chính sách và quy chế đưa nền kinh tế vào một quỹ đạo tăng trưởng
trung hạn
ở tầm cao hơn, kể cả trong điều kiện môi trường bên ngoài còn chưa thuận lợi.
Niềm tin
trong khu vực tư nhân được củng cố do chương trình cải cách theo giai đoạn chi
tiết đã
được thông qua vào năm 2001, số doanh nghiệp tư nhân mới tăng rất nhanh. Năm
2002,
18
tăng trưởng GDP thực tế là 7%. Những nền tảng căn bản tốt trong ổn định kinh tế
vĩ mô và
thực hiện cải cách cơ cấu, đi kèm với niềm tin ngày càng được nâng cao trong nền
kinh tế,
đó chính là những lý do căn bản dẫn đến tăng trưởng GDP nhanh hơn.
1.1.2. Mức tiêu dùng tăng
Mức tăng trưởng được duy trì ở con số cao như vậy là do có sự gia tăng về tổng
cầu
trong nước. Tỷ lệ tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá đã được phục hồi trở lại mức
chưa từng
có kể từ khi nên kinh tế bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng Đông Á năm 1997. Sản
xuất
hàng tiêu dùng lâu bền như vật liệu xây dựng nhà, ô tô, xe máy, và ti-vi khẳng
định rằng
mức tiêu dùng đã tăng nhanh trong giai đoạn này.
Biểu đồ 2: Tỷ l
ệ tổng mức bán lẻ
Nguồn : Tổng cục thống kê (2002) và ước tính của Ngân hàng thế giới (WB).
1.1.4. Đầu tư phát triển tăng
Việc nhiều doanh nghiệp mới được thành lập và niềm tin vững chắc của các nhà đầu
tư
đã thúc đẩy việc đầu tư vốn và đưa con số những doanh nghiệp đăng ký mới lên
trên 50.000
trong vòng 2 năm qua. Đến tháng 7-2002, vốn đầu tư từ những doanh nghiệp mới đã
tăng 45%
so với cùng kỳ năm trước. Riêng đầu tư của những doanh nghiệp mới vừa và nhỏ
trong khu
vực kinh tế chính thức đạt 40 nghìn tỷ đồng ( tương đương với khoảng 2,7 tỷ USD)
trong năm
2003, tức là gần 9% GDP. Tổng đầu tư của khu vực nhà nước, kể cả từ nguồn ngân
sách và
vốn của doanh nghiệp vào khoảng mức 18% GDP năm 2002.
1.1.5. Cơ cấu nền kinh tế dịch chuyển theo hướ
ng kinh tế thị trường
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước tiếp tục dẫn đầu về tăng trưởng.
Ngành
chế biến tiếp tục tăng mạnh với khu vực tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài
đạt tỷ lệ
19
tăng sản lượng lần lượt là 19% và 15%. Nguyên nhân của xu hướng này là tỷ lệ
doanh
nghiệp mới được thành lập đạt mức cao trong năm 2002. Với mức tăng sản lượng 12%
năm sau so với năm trước, sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước có khiêm tốn
hơn.
Điều này phản ánh sự chuyển dịch dần dần của Việt Nam sang kinh tế thị trường,
nhiều
doanh nghiệp nhà nước ngày càng phải đứng trước áp lực cạnh tranh và việc hạn
chế ngân
sách cứng rắn hơn. Giá trị gia tăng trong khu vực tư nhân đã vượt khu vực nhà
nước, ít
nhất kể từ năm 1997.
1.2.Một số tồn tại
Tóm lại là sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á, tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam
có
giảm nhưng đã hồi phục trở lại kể từ năm 2000. Tuy nhiên, về lâu về dài thì nền
kinh tế
của Việt Nam cũng còn có những vấn đề tồn tại cần phải được quan tâm:
1.2.1. Tỷ lệ chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư còn khá lớn
Điều này cho thấy nền kinh tế phát triển phụ thuộc khá nhiều vào vốn vay nước
ngoài. Tỷ lệ tiết kiệm dù có gia tăng nhanh chóng nhưng còn thấp hơn rất nhiều
so với tỷ lệ
tiết kiệm tại một số quốc gia láng giềng trong khu vực (xem biểu đồ 4). Mức tăng
trưởng
tiết kiệm quốc gia tăng kỷ lục trong năm 1999 có thể sẽ không duy trì được. Lý
do là sự lo
lắng về mức tăng trưởng kinh tế sau cuộc khủng hoảng Châu Á khiến cho người dân
tiết
kiệm nhiều hơn trong năm 1999; nhưng những dự đoán về khả năng hồi phục mạnh từ
năm
2000 sẽ khiến mức tiết kiệm của dân chúng giảm đi. Hơn nữa, các số liệu về tiết
kiệm
trong năm 1999 cũng chỉ là số liệu sơ bộ và có thể còn được điều chỉnh. Theo số
liệu của
ADB thì tỷ lệ tiết kiệm của Việt Nam năm 1999 là 22%. Mặc dầu vậy, để duy trì tỷ
lệ tăng
trưởng cao bền vững trong dài hạn thì mức đầu tư trong nền kinh tế cần phải tăng
cao.
Biểu đồ 3: Tiết kiệm và đầu tư của Việt Nam
Nguồn : Báo cáo của GSO (1999) và IMF(2000).
20
Biểu đồ 4:
Tiết kiệm và tăng trưởng năm 1997 một số nước trong khu vực.
Nguồn : Báo cáo của ADB (2000).
1.2.2. Các luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam không ổn định
Hình thức chính của các luồng vốn nước ngoàI này là FDI đã giảm đáng kể sau khi
cuộc hủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, do đó làm giảm đáng kể tổng mức đầu tư
của
Việt Nam từ 29% GDP năm 1997 xuống còn 27% GDP năm 1999. Cho tới trước 1997,
vốn đầu tư nước ngoài trung bình hàng năm đạt 2 tỷ USD thì năm 1998 giảm xuống
còn
800 triệu USD và còn 600 triệu USD năm 1999.
1.2.3. Các doanh nghiệp còn phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng
Nguyên nhân chủ yếu là do Thị trường chứng khoán còn hoạt động chưa có hiệu quả.
Khu vực ngân hàng phải đáp ứng cả nhu cầu cho vay trung và dài hạn cho các doanh
nghiệp
trong khi phần lớn nguồn huy động của các ngân hàng lại là ngắn hạn. Chính vì
vậy trên
bảng cân đối luôn có nợ quá hạn, và đây chính là một yếu tố làm giảm tỷ lệ tăng
trưởng kinh
tế chung (Xem biểu đồ 5).
Biểu đồ 5: Nợ quá hạn ngân hàng trên tổng dư nợ.
21
Nguồn: Báo cáo ADB (2000)
1.2.4. Quá trình cổ phẩn hoá đã diễn ra quá chậm chạm,
Điều này một phần là do chưa có một thị trường cổ phiếu hiệu quả. Chính phủ đã
có
kế hoạch cổ phần hoá được khoảng 2500 Doanh nghiệp nhà nước đến hết hết năm 2000
nhưng đến nay mới chỉ có khoảng 900 doanh nghiệp hoàn tất cổ phần hoá. Kết quả
là khối
Doanh nghiệp nhà nước vẫn còn khá lớn và gặp nhiều khó khăn.
2.Tình hình cải cách cơ cấu nền kinh tế
2.1. Tình hình cải cách doanh nghiệp nhà nước- cổ phần hoá
2.1.1. Gánh nặng doanh nghiệp nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân
Doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn đóng góp khoảng 38% vào tổng GDP của Việt
Nam. Do các Doanh nghiệp nhà nước thường hoạt động trong những ngành sử dụng
nhiều
vốn nên chiếm một tỷ trọng lớn khác thường trong tổng các yếu tố sản xuất của
đất nước.
Với 1,7 triệu lao động , những doanh nghiệp này chỉ thu hút khoả
ng 4-5% tổng lực lượng
lao động. Con số này chỉ tương đương số người mới gia nhập thị trường lao động
trong
vòng một năm rưỡi. Do trình độ giáo dục liên tục tăng nên không phải tất cả 1,7
triệu
người lao động này có tay nghề cao hơn những người lao động mới. Xét từ góc độ
này, các
Doanh nghiệp nhà nước quả là gánh nặng lớn cho nền kinh tế.
Mặt khác, tỷ trọng sử dụng vốn của khu vực nhà nước là khá lớn. Khó có thể có
được
một ước tính chính xác vì việc tính toán lượng vốn trong một nền kinh tế đang
chuyển đổi
không phải là dễ thực hiện. Một cách đánh giá gián tiếp tỷ trọng vốn mà khu vực
nhà nước
thu nhận là xem xét tỷ trọng tín dụng trong nước của khu vực này. Nợ ngân hàng
tồn đọng
của các doanh nghiệp nhà nước lên đến 90 nghìn tỷ đồng, tức là khoảng 6 t
ỷ USD. Con số
này tương đương với 40% tổng tín dụng trong nước.
Nhiều khoản vay mà các Ngân hàng thương mại quốc doanh cấp cho các doanh
nghiệp nhà nước có thể sẽ không bao giờ thu hồi được. Trong khi khó có thể ước
tính được
chính xác giá trị của các khoản vay không sinh lời này, thực trạng này sẽ ảnh
hưởng đến
việc tích luỹ vốn sau này của khu vực nhà nước. Tuy tỷ trọng tín dụng dành cho
các doanh
nghiệp nhà nước đang giảm như
ng vẫn chiếm 25% số cho vay mới trong năm 2002.
2.1.2. Các biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước
Cải cách doanh nghiệp nhà nước mà công cụ chính của nó là cổ phần hoá đã được áp
dụng vào năm 1992 và sau đó được điều chỉnh vào năm 1996, được lập luận là không
hoàn
toàn giống với tư nhân hoá. Cổ phần hoá là một quá trình trong đó một phần hoặc
toàn bộ
vốn của nhà nước trong doanh nghiệp được bán dưới hình thức cổ phiếu với giá dựa
trên
22
giá trị sổ sách. Lãnh đạo và người lao động trong doanh nghiệp được ưu đãi mua
cổ phần
và thường mua hết. Cá nhân có thể mua tối đa 30% cổ phần. Cổ phiếu không được
phép
mua bán trong giai đoạn 3 năm đầu, trừ khi có giấy phép đặc biệt. Trên thực tế,
cổ phần
hoá sẽ khó thực hiện nếu không có sự nhất trí của lãnh đạo và đa số người lao
động trong
doanh nghiệp. Cổ phần hoá sẽ đưa doanh nghiệp sang hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp.
Ngoài cổ phần hó, các cơ chế khác cũng được dùng để cơ cấu lại khu vực kinh tế
nhà
nước ở Việt Nam. Các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ có thể đem bán, cho thuê
hoặc
khoán cho người lao động theo mức giá thoả thuận, hoặc thậm chí cho không. Những
doanh nghiệp không có khả năng tồn tại sẽ được giải thể. Những doanh nghiệp khác
có thể
được sát nhập với những đơn vị lớn hơn. Toàn bộ kế hoạch cải cách dự tính khoảng
17000
doanh nghiệp sẽ được chuyển thể cho đến năm 2005. Mặt khác những doanh nghiệp
nằm
trong danh sách của những ngành được coi là “chiến lược” sẽ được cơ cấu lại
nhưng vẫn
giữ trong tay nhà nước. Toàn bộ quá trình được thực hiện theo cách tương đối
phân cấp, do
một doanh nghiệp tr
ực thuộc các bộ chủ quản, một số khác lại trực thuộc chính quyền các
tỉnh và địa phương, và một số thuộc vào Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91.
2.1.2. Kết quả cải cách doanh nghiệp nhà nước
Quy mô của khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn tương đối lớn mặc dù đã giảm. Xu
hướng giảm là rất rõ rệt, khi xem xét tỷ trọng của nó trong sản lượng công
nghiệp. Xong
theo tỷ trọng trong GDP thì vẫn còn đáng kể. Một biểu hiện nổi bật trong quá
trình cải cách
là tổng số Doanh nghiệp nhà nước. Sau khi dã giảm từ trên 12.000 doanh nghiệp
năm 1990
xuống còn 6.300 doanh nghiệp năm 1992, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, đã có
lúc từ
năm 1993 đến 1997, quá trình cải cách đã gần như dừng lại. Từ năm 1997 trở đi,
với việc
áp dụng cơ chế cổ phần hoá, quá trình này đã lấy lại được đà. Nhưng đến nay lại
có xu
hướng chững lại. Vài trăm Doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi hoặc giải thể
trong
vòng 5 năm trước khi diễn ra Đại hội Đảng IX năm 2001. Sau một sự khởi đầu khiêm
tốn,
chỉ có 10 doanh nghiệp được được cổ phần hoá năm 1992, con số này đã tăng lên
tới hàng
trăm và mục tiêu đặt ra là chuyển thể 400 doanh nghiệp trong năm đầu của kế
hoạch hành
động. Những doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh/ thành phố quản lý được đặt vào
trọng tâm
của quá trình này, chiếm 57% tổng số doanh nghiệp được chuyển đổi. Từ đầu năm
2001,
khoảng 70% số doanh nghiệp cổ phần hoá đã bán trên 65% cổ phần cho các cổ đông
thuộc
khu vực nhà nước. (Xem bảng 1)
Bảng 1: Tình hình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước
(Đơn vị: số doanh nghiệp)
Năm 1998 1999 2000 2001 2002
23
Tổng số chuyển đổi 288 139
Cổ phần hoá 102 242 211 200 116
Bán 17 5
Khoán 41 13
Theo loại hình
chuyển đổi
Giải thể 30 5
Bộ chủ quản 25 30
Tỉnh/thành phố 255 96
Theo cơ quan chủ
quản
Tổng công ty 8 13
Tổng số DNNN mới thành lập 87 94 74 43 8
Bộ chủ quản 14 28 35 19
Tỉnh/thành phố 66 52 31 45
Theo cơ quan chủ
quản
Tổng công ty 7 14 8 9
Nguồn: Tổng hợp từ Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Viện Quản lí kinh tế
trung
ương.
Qui mô của những Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá và chuyển đổi lại
tương đối nhỏ. Số lao động trung bình khoảng 250 công nhân và vốn điều lệ khoảng
5,7 tỷ
đồng tương đương với 380.000 USD. Tính trung bình, nợ của mỗi doanh nghiệp này
khoảng 5,6 tỷ đồng (gần 380.000 USD) . Tuy nhiên cũng cần nhìn nhận rằng việc
chuyển
đổi này đã làm giảm bớt một gánh nợ đáng kể cho khu vực nhà nước nói chung.
Mặt khác, một số lượng đáng kể Doanh nghiệp nhà nước được thành lập mới trong
cùng một thời gian. Không phải mọi doanh nghiệp mới đều hình thành từ vốn đầu tư
mới.
Việc đăng ký những đơn vị hiện đang hoạt động – chủ yếu là trong các ngành công
ích –
thành doanh nghiệp nhà nước đã làm cho số liệu về doanh nghiệp mới thành lập là
khá lớn
và thu hút nhiều dư luận xã hội. Tương tự, một số doanh nghiệp sau khi cổ phần
hoá đã
thành lập một công ty theo Luật Doanh nghiệp từ Doanh nghiệp nhà nước trước đây
và
hiện vẫn còn hoạt động. Ước tính chỉ có hoảng từ 30% đến 40% số Doanh nghiệp nhà
nước mới thành lập trong những năm 1998 –2001 là triển khai các hoạt động sản
xuất kinh
doanh mới. Phần lớn các Doanh nghiệp nhà nước mới thành lập có quy mô rất nhỏ.
Quá trình thành lập Doanh nghiệp nhà nước mới gần như đã bị đình lại vào giữa
năm
2001. Từ thời điểm này việc thành lập mới các Doanh nghiệp nhà nước phải được
Thủ
tướng phê duyệt. Hiện nay, việc thành lập mới các Doanh nghiệp nhà nước được
kiểm soát
nghiêm ngặt. Việc giảm số Doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ và phát triển những
doanh
nghiệp lớn và thành đạt hơn có nghĩa là quy mô tuyệt đối của khu vực nhà nước đã
tăng
lên. Tuy nhiên việc cải cách này diễn ra song song với việc tăng trưởng nhanh
của khu vực
tư nhân, điều này giải thích tại sao quy mô tương đối khu vực nhà nước, tức là
tỷ trọng của
nó trong nền kinh tế Việt Nam, lại đang giảm dần.
24
2.2. Cải cách hệ thống ngân hàng, tài chính
Kể từ cuối những năm 80, những thay đổi quan trọng đã được tiến hành trong cơ
cấu,
quy chế và hoạt động của khu vực ngân hàng Việt Nam. Bốn ngân hàng thương mại
quốc
doanh lớn vẫn chiếm 70% tổng tài sản của toàn hệ thông. Nhưng hiện đã có thêm
một số
ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh, văn phòng đại diện của
ngân
hàng nước ngoài. Trong thập kỷ qua, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã
phát triển
từ những kênh cho váy chính sách chuyên biệt sang thành những trung gian tài
chính định
hướng thương mại nhiều hơn. (theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, 2002).
Thập kỷ qua cũng đã chứng khiến sự phát triển nhanh chóng về mức độ tiền tệ hoá
của nền kinh tế Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng được thể hiện ở
chỉ số tín
dụng ngân hàng trên GDP, chỉ số này đã tă
ng 13% năm 1990 lên 27% năm 1995 và 44%
năm 2000. Sự tăng trưởng của khu vực tài chính phi ngân hàng cũng rất đáng ghi
nhân, đặc
biệt là sự hoạt động kinh doanh bảo hiểm mặc dù quy mô còn nhỏ.
II. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Sự ra đời của Thị trường chứng khoán Việt Nam
Ngay từ ban đầu khi thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đảng và
Nhà
nước đã có chính sách về việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Trên cơ sở về
mặt pháp lý
này, đã có nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu được phát hành trên thị trường thu
hút được
khá nhiều nguồn vốn nhàn rỗi từ dân chúng. Đây chính là hình thức sơ khai của
thị trường
chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên vào thời điểm này, cổ phiếu và trái phiếu mới
chỉ dừng
lại ở thị trường phát hành, hầu hết là loại chứng khoán ngắn hạn và trung hạn.
Các tổ chức
môi giới và kinh doanh chứng khoán chưa tồn tại, hệ thống các văn bản pháp lý
còn thiếu,
chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Thị trường vốn Việt Nam lúc này còn nhiều yếu kém,
chư
a
đáp ứng được nhu cầu huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế. Vì vậy việc phát
triển thị
trường chứng khoán ở nước ta là một nhu cầu cấp thiết.
Đến tháng 4 năm 1997 Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đi vào hoạt động trên cơ sở
Nghị định số 7/CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ về việc thành lập Uỷ ban chứng
khoán
nhà nước, chủ động thúc đẩy việc chuẩn bị các đ
iều kiện cần thiết để hình thành thị trường
chứng khoán Việt Nam và đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của nó ngay từ khi mới
thành
lập.
Sau một thời gian chuẩn bị, nghị định số 58/1998/NĐCP ngày 11/7/1998 của chính
phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán được ban hành, làm cơ sở pháp lý
cho
hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Đến tháng 7/2002, Trung tâm giao
dịch
25
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh khai trương và hoạt động theo Quyết định của
Thủ
tướng chính phủ số 127/1998/QĐ-Ttg ngày 11/7/1998. Thị trường Chứng khoán Việt
Nam
chính thức mở của.
Việc thị trường chứng khoán Việt Nam ra đã tạo thêm một kênh dẫn vốn mới thu
hút vốn đầu tư phục vụ công cuộc phát triển đất nước, góp phần hoàn thiện hệ
thống các thị
trường tài chính và tạo lập đồng bộ các yếu tố của một nền kinh tế thị trường
định hướng
Xã hội chủ nghĩa. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời, ngoài việc phát huy
nội lực
tạo thêm một kênh huy động vốn trung và dài hạn để bổ sung vào thị trường vốn,
đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước; nó còn giúp các doanh nghiệp
xây dựng
chiến lược tài chính , có điều kiện tạo vốn và sử dụng vốn thông qua kênh phát
hành các
loại chứng khoán trên thị trường, tạo thói quen công khai hoá thông tin và báo
cáo tài
chính, cải tiến đổi mới phương thức quản lý, tự lành mạnh hoá tình hình tài
chính của
mình. Thị trường chứng khoán ra đời tạo cơ hội cho người đầu tư lựa chọn hình
thức đầu
tư qua chứng khoán thay vì gửi tiền tiết kiệm qua ngân hàng, mua ngoại tệ, vàng,
bất động
sản. Thị trường chứng khoán cũng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy và hỗ trợ tích cực
cho tiến
trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và hoạt động cũng là một bước tiến
trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đóng góp tích cực cho việc
cải thiện
môi trường đầu tư, tăng khả năng thu hút vốn và điều hoà nguồn vốn đầu tư cho
quá trình
phát triển của đất nước. Sự góp mặt của Trung tâm Giao dịch chứng khoán còn là
sự bổ
sung hoàn chỉnh cho một cơ cấu Thị trường tài chính theo hướng phát triển nền
tài chính
phù hợp với chính sách xây dựng nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội
chủ
nghĩa, và thêm một lần nữa khẳng định sự nhất quán đường lối đổi mới của Đảng,
phù hợp
với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế và đưa nền kinh tế hội nhập khu vực và
thế giới.
2. Mô hình tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam
- Quan điểm, mục tiêu cơ bản của TTCK Việt Nam
Quan điểm về Thị trường chứng khoán của Việt Nam là phải phục vụ cho
chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam - phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN, đồng thời TTCK Việt Nam cũng phải tuân thủ theo các
nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế về TTCK, được thế giới công nhận và tham
gia. TTCK phải thúc đẩy công cu
ộc "chứng khoán hoá vốn kinh doanh" của
26
nền kinh tế, huy động vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. TTCK Việt Nam
phải đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước.
Xuất phát từ quan điểm trên mà TTCK Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với
TTCK các nước khác.
- Người quản lý, sở hữu Thị trường Chứng khoán Việt Nam
TTCK Việt Nam hoạt động dựa trên một cơ chế là: Có một cơ quan của Chính phủ
thống nhất quản lý Nhà nước về TTCK, thống nhất việc ban hành các văn bản pháp
luật và
giám sát hoạt động của TTCK. Sở giao dịch có thẩm quyền quy chế hoá hoạt động
của Sở
trên cơ sở luật pháp chung và sự phê chuẩn của cơ quan Chính phủ.
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan duy nhất thực hiện việc tổ chức và quản
lý Nhà nước về Chứng khoán và TTCK. Tất nhiên cơ quan này nằm dưới sự quản lý
của
Chính phủ để Nhà nước có thể kiểm tra hoạt động và định hướng phát triển cho
TTCK
nhưng nhìn chung UBCKNN gần như có toàn quyền thực hiện quản lý Nhà nước về
TTCK.
Sở hữu TTCK Việt Nam hay cụ thể là sở hữu Sở giao dịch chứng khoán thuộc về
Nhà nước (theo mô hình của Trung Quốc). Do nền kinh tế Việt Nam đang ở giai đoạn
chuyển đổi, thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động cần có sự kiểm tra giám
sát chặt
chẽ của chính phủ để tránh có thể đổ vỡ ( như trường hợp của Hàn Quốc), TTCK
nước ta
lại là TTCK của một nước XHCN nên cần có sự kiểm soát của chính phủ để định
hướng
phát triển thị trường.
Theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP, Việt Nam qui định “Sở GD Việt Nam là
một tổ chức tài chính đặc biệt thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước thành
lập, trực tiếp quản lý và điều hành”. Tuy nhiên, hoạt động giao dịch mua bán
tại SGD do các CTCK thành viên thực hiện. Giá chứng khoán do thị trường
quyết định, hình thành qua quan hệ cung cầu, Nhà nước không độc quyền can
thiệp. Các CTCK là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn do
Nhà n
ước cấp giấy phép hoạt động. Nếu sau một thời gian mà SGD hoạt động
tốt thì Nhà nước sẽ đa dạng hoá quyền sở hữu SGD cho các CTCK thành
viên. Và rồi đến một lúc nào đó, Nhà nước sẽ rút lui khỏi vị trí là người tham
gia sở hữu SGD, trao toàn bộ quyền sở hữu SGD cho các CTCK thành viên,