Luận văn: Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam
5,057
771
79
7
phủ các nước sở tại với các điều khoản “mềm” về lãi suất, thời gian ấn hạn, thời
hạn trả dài
nhưng có những rằng buộc nhất định).
- Vốn nước ngoài dưới dạng đầu tư danh mục chứng khoán (FPI)
Đây là dạng đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư
nước
ngoài bỏ tiền ra mua chứng khoán (gồm cổ phiếu, trái phiếu, và các chứng từ phái
sinh) để
thu lợi nhuận thông qua cổ tức, trái tức hoặc chênh lệch giá nhờ đầu cơ chứng
khoán.
Nguồn vốn này đã và đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong hầu khắp
các nền
kinh tế, trên thực tế nhiều các quốc gia đã sử dụng kênh này để huy động nguồn
tài trợ từ
bên ngoài một cách có hiệu quả.
Ngoài ra vốn nước ngoài còn có các nguồn vốn khác như kiều hối, các khoản quà
tặng, quà biếu, thừa kế, chuyển tiền từ nước ngoài … cũng đáng lưu tâm, đặc biệt
là các
quốc gia có số lượng công dân sống và làm việc ở nước ngoài lớn. Tuy nhiên nếu
xét về
tổng thể thì các nguồn này thường là nhỏ và không có ảnh hưởng lớn đến nền kinh
tế vĩ
mô. Ta có thể bỏ qua các khoản này.
Để phục vụ mục đích nghiên cứu của khoá luận, ta có thể khái quát cơ cấu nguồn
vốn
vào một quốc gia thành 4 nguồn vốn nước ngoài chính:
- Vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI)
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
- Tín dụng thương mại
- Đầu tư danh mục chứng khoán (FPI)
II. LÝ LUẬN VỀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (FPI)
1. Khái niệm
Như đã nói ở trên, đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là một trong
những
nguồn vốn nước ngoài chính và nó ngày càng trở nên quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn
trong cơ
cấu vốn nước ngoài.
Thị trường chứng khoán đã ra đời từ rất sớm, bản thân nó là một kênh huy động
vốn
trực tiếp trong nền kinh tế quốc dân. Đó là nơi mà các nhà đầu tư tìm kiếm, thay
đổi cơ
hội và lĩnh vực đầu tư của mình. Nếu khung pháp lý cho hoạt động này chỉ bó hẹp
đối với
các nhà đầu tư trong nước thì thị trường chứng khoán chỉ đơn thuần là một kênh
huy động
vốn trong nước. Nhưng nếu khung pháp lý mở rộng ra cho các nhà đầu tư nước ngoài
thì
đây lại là một kênh huy động vốn nước ngoài cho nền kinh tế. Trên thực tế, do
những ưu
điểm nổi bật của thị trường chứng khoán, do xu hướng tự do hoá tài chính, hầu
hết các
quốc gia có thị trường chứng khoán đều cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được
phép
8
tham gia vào thị trường chứng khoán. Những nước này, ở một chừng mực nào đó, đã
thành
công trong việc thu hút vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán.
Đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là việc nhà đầu tư nước ngoài (có
thể là cá nhân hoặc tổ chức) bỏ tiền ra mua chứng khoán của một tổ chức hay của
nhà
nước được phát hành trên thị trường chứng khoán nhằm kiếm lời từ thu nhập cổ tức
hay trái tức hoặc từ chênh lệch giá do kinh doanh chứng khoán đem lại.
2. Đặc điểm
Đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán hay đầu tư danh mục chứng
khoán (FPI) là một bộ phận cấu thành của tổng luồng vốn chu chuyển chu chuyển
vào và
ra một quốc gia. Xét về mặt bản chất, đầu tư danh mục chứng khoán FPI rất gần
với đầu tư
trực tiếp FDI, vì nó đều là những khoản đầu tư trực tiếp vào doanh nghiệp và
trực tiếp
hưởng lợi từ kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều khác nhau lớn nhất giữa
FDI và
FPI chính là ở chỗ nhà đầu tư nước ngoài có hay không tham gia quản lý doanh
nghiệp.
Chính vì vậy mà tại nhiều nước FDI và FPI được điều chỉnh chung trong một bộ
luật và
thường lấy một tỷ l
ệ nhất định về nắm giữa của bên nước ngoài để phân định giữa FDI và
FPI (ví dụ Nhật là 10%, New Zealand là 25%). Đây là một đặc điểm đáng lưu ý
trong quan
niệm về FDI và FPI. Thứ nhất: FPI là loại hình đầu tư không tham gia quản lý,
không
chuyển giao công nghệ và dễ đột biến, nhưng khi “lượng” FPI đạt đến một mức độ
nhất
định thì sẽ biến về “chất”: tham gia quản lý, chuyển giao công nghệ và ít đột
biến hớn. Thứ
hai: điểm để lượng FPI biến thành FDI có thể khác nhau do các nhà hoạch định
chính sách
ở từng nước ấn định, dựa vào điều kiện cụ thể về kinh tế, trình độ quản lý, tập
quán kinh
doanh ở nước đó.
Các quốc gia huy động vốn nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán thường
thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty và cổ phiếu
của các
doanh nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Do tính chất của trái phiếu và cổ phiếu rất khác nhau do vậy vốn nước ngoài huy
động bằng trái phiếu và cổ phiếu cũng rất khác nhau. Ngoài đặc điểm chung là đầu
tư với
mục đích lợi nhuận và có tính đầu cơ, nguồn vốn đầu tư nước ngoài thông qua thị
trường
chứng khoán còn có các đặc điểm khác nhau tuỳ thuộc vào việc nó là vốn huy động
từ cổ
phiếu hay trái phiếu.
a) Đặc điểm về vốn đầu tư nước ngoài huy động thông qua việc phát hành trái
phiếu.
Chính phủ và hầu hết các công ty phát hành trái phiếu đều với mục đích thu được
nguồn vốn sử dụng cho mục tiêu dài hạn vì vậy nguồn vốn dạng này có một số đặc
điểm
sau:
9
- Thời hạn sử dụng khá dài, thời hạn của nguồn vốn thu từ việc bán trái phiếu
chính phủ
thường dài hơn so với doanh nghiệp.
Không chỉ các quốc gia đang phát triển mà ngay cả các quốc gia phát triển cũng
có lúc
cần phải huy động nguồn vốn nước ngoài bằng việc phát hành trái phiếu. Khoản vốn
này
được dùng cho các chương trình, dự án hoặc để bù đắp tạm thời ngân sách bị thiếu
hụt.
Thời hạn của các khoản vay này thường rất dài vì mục đích sử dụng nguồn vốn này
hầu hết
dành cho các dự án lớn, lâu dài của chính phủ. Đối với các công ty, khi cần mở
rộng kinh
doanh, nâng cao trình độ kĩ thuật công nghệ hoặc thực hiện chiến lược đầu tư lâu
dài của
mình cũng cần phải có một lượng vốn khá lớn trong khoảng thời gian dài.
- Lãi suất của loại này thường cao hơn so với lãi suất vay bằng ODA.
Vì mục đích của nhà đầu tư là thu lợi nhuận thông qua khoản lãi suất được hưởng
từ
việc mua trái phiếu, nên các nhà đầu tư luôn đặt yêu cầu lãi suất lên hàng đầu.
Do vậy,
công ty hoặc chính phủ khi phát hành trái phiếu luôn phải định ra mức lãi suất
đủ cao để
thu hút nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí lãi suất loại này còn cao hơn cả lãi
suất trung bình
trên thế giới bởi vì lãi suất loại này còn tính đến cả yếu tố rủi ro lạm phát và
một số rủi ro
khác.
- Không kèm theo bất kỳ một điều kiện gì hay một sự rằng buộc nào từ phía bên
cung
cấp vốn.
Đây là một ưu điểm nổi bật so với vốn ODA của loại vốn này, nó rất có lợi cho
bên tiếp
nhận vốn vì sẽ không phải chịu các điều kiện bất lợi khác từ phía bên cung cấp.
- Không bị hạn chế về mục đích sử dụng và chịu sự giám sát trong việc sử dụng
vốn.
Đây là một ưu điểm nữa so với nguồn vốn ODA, vì nền kinh tế không phải chịu sự
chi
phối về mục đích sử dụng của nhà đầu tư. Chính vì vậy mà nền kinh tế có thể tận
dụng tối
đa tác dụng của vốn, sử dụ
ng phục vụ cho đúng mục đích phát triển của mình.
- Phát sinh nợ cho bên tiếp nhận.
Thực chất đây là một khoản vốn vay dài hạn của bên phát hành trái phiếu với nhà
đầu
tư, trái phiếu luôn có một khoảng thời gian nợ xác định trước và việc trả nợ
được đảm bảo
bằng cam kết của chính phủ và các doanh nghiệp.
b) Đặc điểm về vốn đầu tư nước ngoài huy động thông qua việc phát hành cổ
phiếu của doanh nghiệp.
Tuỳ thuộc vào khung pháp lý của nước huy động qui định về tính chất của cổ phiếu
mà
nguồn vốn nước ngoài huy động từ cổ phiếu có khác nhau. Nhưng chủ yếu là có các
đặc
điểm sau:
10
- Thời hạn sử dụng dài và phụ thuộc vào (tại Việt Nam) doanh nghiệp nhận vốn .
- Lãi suất rất cao, nó tương đương với mức lợi nhuận được chia mà các doanh
nghiệp
trong nước tạo ra.
Đặc điểm của cổ phiếu là: các nhà đầu tư sở hữu hợp pháp cổ phiếu đó sẽ được
hưởng một khoản lãi suất tính trên cơ sở kết quả hoạt động kinh doanh của công
ty. Mặt
khác, kết quả kinh doanh thường cao hơn rất nhiều so với lãi suất tiền gửi thông
thường.
Do vậy lãi suất của cổ phiếu thường cao hơn lãi suất thông thường.
- Việc sử dụng nguồn vốn này có thể hoặc không phụ thuộc vào bên cung cấp vốn
tuỳ
theo qui định pháp lý về việc tỷ lệ mua cổ phiếu của bên nước ngoài đối vớ
i doanh nghiệp
trong nước.
Khi cho ra đời thị trường chứng khoán, các nước đang phát triển có nền kinh tế
đang
cần được bảo hộ ở mức cao luôn phải cân nhắc vấn đề nên hay không nên cho phép
bên
nước ngoài mua cổ phiếu của các công ty trong nước, và nếu cho phép thì tỷ lệ
mua này là
bao nhiêu. Thường thì các nước này luôn chọn giải pháp cho phép nhà đầu tư nước
ngoài
mua cổ phiếu của các công ty trong nước nhưng với tỷ lệ không quá một mức
độ nào đó để
họ không có quyền thâu tóm công ty. Và như vậy, nước tiếp nhận vốn vẫn có thể
huy động
được nguồn vốn nước ngoài mà không bị lệ thuộc vào nhà đầu tư ở mức cao.
- Không làm phát sinh nợ cho nước tiếp nhận.
- Không bị rằng buộc bởi bất cứ điều kiện nào từ phía cung cấp vốn.
Đặc điểm này có được là vì khi quyết định đầu tư bằng việc mua cổ phiếu, các nhà
đầu tư nước ngoài luôn phải tính toán cân nhắc rất kỹ lưỡng, và khi đã đầu tư
vào thì
không được phép nêu ra bất kỳ một rằng buộc hay điều kiện gì. Như vậy, việc đầu
tư hoàn
toàn trên cơ sở tự nguyện, không được phép có thêm một điều kiện gì.
3. Vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng
khoán
Thu hút nguồn vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán để bổ sung cho các
nguồn vốn khác trong và ngoài nước nhằm phát triển kinh tế là một chủ trương lớn
của
Đảng và chính phủ.
3.1. Vai trò chung của nguồn vốn nước ngoài:
Các nước đang phát triển là những nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh
tế
một cách toàn diện và sâu sắc. Nhu cầu về vốn trong giai đoạn này là rất lớn;
vốn phục vụ
cho việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, vốn cho việc xây dựng và cải tạo nâng
cấp cơ sở
hạ tầng, vốn cho việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp mới mang tính
chủ
đạo, vốn cho việc giải quyết các vấn đề kinh tế nảy sinh trong thời kỳ chuyển
đổi như thất
11
nghiệp, trình độ lao động…, vốn cho việc nhập khẩu công nghệ máy móc hiện đại
đáp ứng
yêu cầu đổi mới và cạnh trên trường quốc tế.Chính vì vậy việc huy động thêm các
nguồn
lực từ bên ngoài trong giai đoạn này là thực sự cần thiết.
Trong tình trạng nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào nông nghiệp và công
nghiệp chế biến thô sơ, tích luỹ từ bản thân nền kinh tế còn quá thấp. Hơn nữa,
cũng từ
việc sản xuất kém phát triển dẫn đến thu nhập của người dân thấp từ đó làm cho
tiết kiệm
trong dân rất ít. Tích luỹ (mức độ tái đầu tư trích từ lợi nhuận) của nền kinh
tế thấp, tiết
kiệm trong dân thấp dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho đổi mới. Vì
vậy
nguồn vốn nước ngoài có vai trò bổ sung nguồn vốn đầu tư, tăng tốc độ tái đầu
tư, cần thiết
cho một tiến trình tăng tốc nhanh.
3.2.Vai trò riêng nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng
khoán
Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán có những đặc điểm riêng do vậy
nó cũng có những vai trò riêng đối với sự phát triển kinh tế của nước tiếp nhận.
- Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán có vai trò cung cấp, bổ sung
nguồn vốn trung và dài hạn cho cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp mở
rộng qui
mô sản xuất. Trong bối cảnh việc huy động nguồn vốn trung và dài hạn trong nước
còn
nhiều khó khăn, nhất là ở Việt Nam phải sử dụng cả các khoản tiền gửi ngắn hạn
tại các
ngân hàng để tài trợ, thì việc thu hút sử dụng vốn nước ngoài qua thị trường
chứng khoán
là cần thiết.
- Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán chủ yếu là dưới dạng tiền tệ,
do vậy nó cũng giúp chính phủ bù đắp phần nào cán cân thanh toán, từ đ
ó giảm bớt áp lực
về cầu ngoại tệ. Các nước đang phát triển đều ra sức thực hiện công nghiệp hoá-
hiện đại
hoá nền kinh tế, cần phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, công nghệ… và các
yếu tố sản
xuất khác từ bên ngoài, do vậy rất cần ngoại tệ để có thể nhập khẩu. Các nước
này thường
xảy ra tình trạng thiếu ngoại tệ, ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh toán. Thu hút
vốn nước
ngoài qua thị trường chứng khoán cũng là một biện pháp để điều chỉnh sự thiếu
hụt của cán
cân thanh toán.
- Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán còn có vai trò tăng khả năng
thanh toán và hiệu suất của thị trường vốn nội địa. Và một thị trường vốn với
khả năng
thanh toán và hiệu su
ất cao sẽ cho phép các nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả
nhất. Khi có một lượng vốn gián tiếp chảy vào theo hình thức đầu tư qua Thị
trường chứng
khoán, dung lượng vốn của thị trường chứng khoán sẽ cao hơn, khả năng thanh
khoản sẽ
cao hơn, thúc đẩy các nhà đầu tư tiến hành nghiên cứu, rót thêm vốn vào nền kinh
tế, làm
cho thị trường vốn phát triển. Khi thị trường vốn phát triển, tính thanh khoản
tăng, rủi ro
thanh toán cũng giảm xuống, các khoản đầu tư dài hạn cũng hấp dẫn hơn, cho phép
các nhà
12
đầu tư lựa chọn đầu tư chứng khoán như là một hình thức hấp dẫn hơn gửi tiết
kiệm ở ngân
hàng, từ đó vốn cho nền kinh tế được tăng cường với mức chi phí thấp hơn và năng
lực sản
xuất theo đó cũng được phát triển. Đó là chưa kể các tác động khác khi Thị
trường chứng
khoán phát triển như: tăng cường tính minh bạch và khả năng quản trị của công
ty, cung
cấp các phương tiện bảo hiểm cho các tổ chức tài chính, giảm tính bất ổn định
của ngoại
hối…
- Dòng vốn vượt qua biên giới này cũng đạt ra yêu cầu tạo điều kiện tăng cường
chất
lượng hoạt động của các trung gian tài chính. Các định chế tài chính nước ngoài
có thể
mang các kỹ thuật quản lý, các giáo trình đào tạo, công nghệ, sản phẩm mới vào
thị trường
trong nước. Sức ép cạnh tranh mà các định chế tài chính nước ngoài tạo ra buộc
các tổ
chức trong nước phải cải cách hoạt động hiệu quả hơn, linh hoạt hơn với chi phí
thấp hơn.
Nó cũng thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức phụ trợ trên thị trường như định
mức tín
nhiệm, kế toán, kiểm toán, các đơn vị chuyên thu thập và cung cấp tin tức.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán cũng yêu cầu nền kinh
tế
phát triển lành mạnh, duy trì một hệ thống chính sách tốt, có khả năng kiểm soát
dự đoán
trước, minh bạch, công bằng. tạo tâm lý tin cậy cho nhà đầu tư trong và ngoài
nước. Vì
nguồn vốn này có tính dễ đột biến, nếu không tạo được tâm lý tin cậy cho các nhà
đầu tư,
rất dễ xảy ra tình trạng đào tháo vốn là một trong nguyên nhân gây nên khủng
hoảng.
III. KINH NGHIỆM THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MỘT SỐ NƯỚC
TRONG KỶ NGUYÊN TOÀN CẦU HOÁ CÁC NỀN KINH TẾ HIỆN NAY,
NỀN KINH TẾ CỦA MỘT QUỐC GIA NÓI CHUNG VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN NÓI RIÊNG KHÔNG THỂ TỒN TẠI NHƯ MỘT ỐC ĐẢO RIÊNG BIỆT. SỰ
THAM GIA, THÂM NHẬP CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (BAO GỒM CẢ
NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN VÀ NHÀ ĐẦU TƯ CÓ TỔ CHỨC) VÀO THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN CỦA MỘT NƯỚC LÀ ĐIỀU ĐƯƠNG NHIÊN VÀ HIỆN NAY TRÊN
THẾ GIỚI THẬM CHÍ ĐANG CÓ XU HƯỚNG NHẤT THỂ HOÁ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN CỦA NHIỀU QUỐC GIA TRONG KHU VỰC.
MÔ HÌNH PHÂN TÍCH NGUỒN FPI HIỆN ĐANG ĐƯỢC CÁC NHÀ KINH TẾ
VÀ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC SỬ DỤNG LÀ MÔ HÌNH ĐẦU
TƯ- HAY MÔ HÌNH “KÉO”. CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI LUÔN ĐÁNH GIÁ
CÁC CƠ HỘI ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC CŨNG NHƯ NGOÀI NƯỚC, VÀ KHI HỌ
THẤY RẰNG CƠ HỘI CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TẠO RA LỢI TỨC
CAO HƠN THÌ HỌ SẼ QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ. YẾU TỐ THU HÚT CÁC NHÀ ĐẦU
13
TƯ LÀ CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA THỊ TRƯỜNG NƯỚC TIẾP NHẬN, HAY TRIỂN
VỌNG TĂNG TRƯỞNG CAO LÀ TIỀN ĐỀ VÀ DẪN TỚI ĐẦU TƯ VỐN. MUỐN THU
HÚT VÀ GIỮ LẠI VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THÌ PHẢI TIẾN HÀNH CẢI CÁCH
NỀN KINH TẾ NHẰM CẢI THIỆN CƠ CẤU, TĂNG KHẢ NĂNG TĂNG TRƯỞNG
CAO, GIẢM CÁC RỦI RO TRONG MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ. MỘT SỐ BIỆN PHÁP
ĐỂ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRÊN NHƯ : TỰ DO HOÁ THỊ TRƯỜNG, CẢI TỔ
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG, TÀI CHÍNH, THUẾ, QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP,
KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ, TƯ NHÂN HOÁ.
TRONG SUỐT MẤY THẬP KỶ TRƯỚC KHI DIỄN RA CUỘC KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ, CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á NHỜ NHỮNG CHÍNH
SÁCH MỞ CỬA, DUY TRÌ ĐƯỢC MỨC TĂNG TRƯỞNG CAO, ĐÃ TẠO RA ĐƯỢC
CÁC YẾU TỐ “KÉO” ĐẦY HẤP DẪN, THU HÚT ĐƯỢC MỘT KHỐI LƯỢNG VỐN
KHỔNG LỒ, GÓP PHẦN KHÔNG NHỎ VÀO SỰ PHÁT TRIỂN NHANH CHÓNG
CỦA CÁC NƯỚC NÀY.
TUY NHIÊN, FPI LÀ NGUỒN VỐN CÓ ĐỘ NHẠY CẢM CAO, TRONG GIAI
ĐOẠN ĐẦU, ĐỂ ĐẢM BẢO TÍNH ỔN ĐỊNH VÀ BỀN VỮNG CỦA THỊ TRƯỜNG,
TRÁNH ĐƯỢC NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC TỪ BÊN NGOÀI, HẦU HẾT CÁC
NƯỚC ĐỀU CÓ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ VÀ HẠN CHẾ SỰ THAM GIA CỦA NƯỚC
NGOÀI VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. SAU ĐÓ KHI THỊ TRƯỜNG PHÁT
TRIỂN, CÁC QUY ĐỊNH HẠN CHẾ NÀY SẼ ĐƯỢC DẦN NỚI LỎNG HOẶC BÃI
BỎ.
DƯỚI ĐÂY LÀ KINH NGHIỆM CỦA INDONESISA VÀ HÀN QUỐC, NHỮNG
NƯỚC MÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ĐÃ PHÁT TRIỂN TRƯỚC VIỆT NAM
VÀ ĐÃ TRẢI QUA CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ GIỐNG VIỆT NAM NGÀY NAY.
1. Kinh nghiệ
m của Indonesia
Indonesisa đã đạt được mức tăng tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn 1970-
1997
trước khi khủng hoảng bùng nổ, trong thời gian đó tăng trưởng GDP của Indonesia
trung
bình đạt 6,8% năm, tình trạng nghèo đói giảm và lạm phát được giữ ở mức vừa
phải.
Trong giai đoạn phát triển ban đầu, Indonesia tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng
của
đất nước, đây là quá trình được đầu t
ư dài hạn. Trong khi tiết kiệm trong nước còn ít,
nguồn đầu tư được lấy từ các tổ chức quốc tế đa phương, các chính phủ nước ngoài
và các
nhà cho vay tư nhân quốc tế. Tăng trưởng nhanh trong hoạt động của khu vực tư
nhân cũng
làm tăng dòng vốn đổ vào. Đầu tư vào khu vực tư nhân có thời gian đáo hạn ngắn
hơn, dẫn
14
đến nợ ngắn hạn tăng nhanh,. Sự tăng vọt của các khoản đầu tư ngắn hạn làm tăng
rủi ro
các dòng vốn đổ vào, góp phần gây nên cuộc khủng hoảng 1997.
Vào khoảng thập kỷ 70 và 80, hầu hết dòng vốn vào dưới hình thức ODA. Từ cuối
những năm 80 đến nay, cơ cấu dòng vốn đã chuyển theo hướng tỷ trọng vốn tư nhân
ngày
càng tăng tương ứng với vai trò ngày càng tăng của khu vực tư nhân trong nền
kinh tế
Indonesia. Dòng vốn đổ vào Indonesia đã tăng nhanh trong giai đoạn từ 1990 đến
1996, do
xuất hiện những khoản vay không chính thức trên cơ sở nới lỏng xoá bỏ những hạn
chế đối
với các khoản vay thương mại, được sử dụng công cụ swap và lãi suất trong nước
tăng cao
so với lãi xuất bên ngoài. Số dư các khoản vay tư nhân đã thay đổi t
ừ mức cho vay 0,1 tỷ
USD năm 1989 sang mức đi vay 0,5 tỷ USD năm 1990, và con số này tăng lên đến 2,6
tỷ
USD vào năm 1996.
Đầu tư gián tiếp FPI tăng từ 0,4 tỷ USD trong 2 năm 1989 lên mức 2 tỷ đô la năm
1990, nhưng sau đó giảm xuống 1 tỷ USD trong hai năm 1991 và 1992. Đầu tư gián
tiếp có
xu hương gia tăng nhờ những biện pháp chính sách khuyến khích của chính phủ đối
với thị
trường vốn và nhờ có lãi suất t
ăng lên. Trong giai đoạn đầu, đầu tư gián tiếp tăng lên vào
năm 1990 chủ yếu là nhờ sự điều chỉnh các văn bản pháp quy thị trường vốn. Sau
năm
1992 dòng vốn gián tiếp vào Indonesia không ngừng tăng lên đạt mức tối đa vào
cuối năm
1996 trước khi đi xuống vào năm 1997. Năm 1997, sau những biến động lớn trên Sở
giao
dịch chứng khoán Jakarta, dòng vốn đầu tư gián tiếp đã suy giảm hết sức nhanh
chóng do
các nhà đầu tư nước ngoài đã bán tống bán tháo các tài sản của mình.
Có thể rút ra kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997 của
Indonesia,
cuộc khủng hoảng có một nguyên nhân quan trọng là do không quản lý được nguồn
vốn
đầu tư gián tiếp FPI. Việc phân bổ nguồn vốn này kém hiệu quả do sự yếu kém của
hệ
thống giám sát các công ty niêm yết, quản trị công ty kém, các thông tin sai
lệch ảnh
hưở
ng đến quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán
Indonesia. Chính phủ Indonesia lại không duy trì được cơ cấu hợp lý các nguồn
vốn, tỷ
trọng nguồn vốn vay ngắn hạn và nguồn vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán FPI
chiếm
tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn vào, đây là hai dòng vốn có nguy cơ rủi ro cao
nhất nên khi
khủng hoảng xảy ra đã dẫn đến tình tr
ạng dào thoát nhanh chóng của các nguồn vốn này.
Trong điều kiện nền kinh tế Indonesia đã mở cửa tương đối thông thoáng và ngày
càng phụ
thuộc vào bên ngoài, nguồn vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn
vốn đầu
tư, tác động của cuộc khủng hoảng lại càng trầm trọng hơn.
15
2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Kinh nghiệm Hàn Quốc cho thấy, trong thời gian đầu chỉ cho phép người đầu tư
nước ngoài đầu tư gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư, quỹ tín thác, sau đó mới
cho phép
đầu tư trực tiếp nhưng dưới một mức trần nhất định. Mức trần này có thể được
nâng lên,
hoặc bãi bỏ trừ đối với một số ngành kinh tế quan trọng như bưu chính viễn
thông, điện
lực, hàng không...
Các quy định về quản lý đầu tư nước ngoài ở Hàn Quốc được thay đổi gắn liền với
tiến trình phát triển của thị trường và thông qua những quyết sách của Chính phủ
đối với
nền kinh tế qua các giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau:
- 1981: Chính phủ cho phép đầu tư nước ngoài thông qua các quỹ.
- 1985: Chính phủ cho phép phát hành trái phiếu chuyển đổi ra nước ngoài;
- 1990: Chính phủ cho phép phát hành chứng chỉ lưu ký ra nước ngoài;
- 1991: Chính phủ cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài mở chi nhánh tại
Hàn Quốc và cho phép một số công ty chứng khoán nước ngoài trở thành thành viên
của
Sở giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc;
- 1992: Chính phủ cho phép đầu tư trực tiếp nhưng với mức trần là 10%, tỷ lệ này
được nâng dần lên 55%;
1998: bãi bỏ mức trần này (do Chính phủ Hàn Quốc muốn tăng cường thu hút đầu
tư nước ngoài và do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Châu á).
Mức trần đối với cá nhân nước ngoài ở Hàn Quốc tăng chậm, từ 3% lên 6%. Đối với
tổ chức nước ngoài thì mức này tăng nhanh hơn từ 10% lên 26%. Tuy nhiên trong
thực tế,
giới hạn trần đối với từng cá nhân đầu tư nước ngoài có thể bị phá vỡ trong
trường hợp các
quỹ đầu tư thông nhau.
3. Kinh nghiệm một số nước khác
ở Đài Loan, luật pháp quy định nhà đầu tư là t
ổ chức hoặc cá nhân nước ngoài có
đủ năng lực để có thể mua tới 15% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của bất kỳ một
công ty
niêm yết nào. Nhưng tổng số vốn cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ
không
quá 30% vốn cổ phần của một công ty.
ở Thái Lan, các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài có thể sở hữu tổng cộng không
quá 49% cổ phiếu của một công ty và 25% cổ phiếu của một tổ chức tài chính.
Riêng với
Trung Quốc thì chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một loại cổ phiếu
riêng biệt
(cổ phiếu B) để dễ bề quản lý.
Ngay tại Mỹ, không phải chứng khoán của công ty bất kỳ nào cũng có thể tham gia
vào bảng định giá của NYSE. Đối với các công ty nước ngoài, điều kiện còn chặt
chẽ hơn.
16
Các công ty này phải có một số các chỉ tiêu về số lượng tiền mặt đáng kể. Hơn
nữa, ngoài
việc trả lệ phí bước đầu và các khoản tiền khác, công ty phải có nghĩa vụ cung
cấp bảng
thông báo có đăng ký về tình hình tài chính 3 tháng một lần, phải chấp nhận việc
không
được bán cổ phần nếu không được sự cho phép của thị trường chứng khoán New York,
duy trì đại lý chuyển giao để xử lý các văn bản của các cổ đông... Đây là những
tiêu chuẩn
căn bản mà nếu không đáp ứng được, công ty có thể bị loại ra khỏi danh sách.
Riêng Luật chứng khoán Thái Lan có quy định rất rộng rãi với phía nước ngoài.
Người nước ngoài có thể sở hữu 49% vốn của một Công ty, ngành ngân hàng, tài
chính là
25%. Một phần nào đó vì lý do này mà khi cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á nổ ra,
các nhà
đầu tư gián tiếp ồ ạt rút vốn khỏi thị trường làm thị trường chứng khoán Thái
Lan sụp đổ,
càng làm cho tốc độ khủng hoảng nền kinh tế tăng cao.
Như vậy, việc quản lý và hạn chế sự tham gia của nước ngoài vào thị trường chứng
khoán trong giai đoạn đầu, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển là hết
sức cần thiết
nhằm tránh khả năng thao túng và gây rối loạn thị trường trong khi kinh nghiệm
quản lý,
cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, mặc dù nó sẽ làm giảm mức hấp dẫn của thị
trường đối
với các nhà đầu tư nước ngoài.