LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng
3,708
738
90
DNFDI có thể dựa vào thế mạnh về tài chính, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ
quản lý
dày dạn lâu năm trong thương trường để thôn tính phía đối tác Việt Nam, chèn ép
các
doanh nghiệp trong nước dẫn đến tình trạng môi trường bị tàn phá, nguồn tài
nguyên bị
khai thác cạn kiệt, trốn lậu thuế, tệ nạn xã hội phát triển, sự phân hóa xã hội
ngày càng sâu
sắc. Do vậy, QLNN đối với DNFDI phải biết phát huy mặt tích cực, tạo điều kiện
cho yếu
tố tích cực phát triển, nhận rõ những hạn chế tiêu cực của DNFDI để ngăn chặn,
có biện
pháp xử lý kịp thời.
Thứ tư, QLNN đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải
nắm bắt được xuất xứ, khả năng sở trường và ý định hoạt động tại Đà Nẵng của
từng đối
tác nước ngoài; mặt khác, cũng cần biết đặc điểm, tập quán của từng đối tác nước
ngoài để
có sự ứng xử thích hợp. Trong quản lý đòi hỏi phải có sự linh hoạt, mềm dẻo, vận
dụng
sáng tạo trên cơ sở tôn trọng quyền làm chủ của DNFDI, thực hiện theo nguyên tắc
bình
đẳng, các bên cùng có lợi. Những quy định của Nhà nước liên quan đến tất cả các
hoạt
động của DNFDI phải phù hợp với thông lệ quốc tế và có sự tham khảo chọn lọc
kinh
nghiệm quản lý thực tế của các nước trong khu vực. Các cơ quan QLNN các cấp phải
có
thái độ thực sự chia sẻ, coi khó khăn của DNFDI là khó khăn của chính chúng ta,
giải
quyết những khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài mỗi khi xuất hiện
những
vấn đề mới, những tình huống đột xuất, ngoài ý muốn, đòi hỏi phải có sự giúp đỡ,
sự can
thiệp của các cấp chính quyền thành phố, như vấn đề tranh chấp trong sản xuất –
kinh
doanh, vấn đề các đơn vị cung ứng dịch vụ không thực hiện đầy đủ các cam kết
trong hợp
đồng, gây khó khăn trong hoạt động kinh doanh, hoặc vấn đề công nhân đình công,
đòi
quyền lợi... để tập trung chỉ đạo hoạt động của DNFDI. Nhưng tất cả đều phải
trên cơ sở
tuân thủ luật pháp Việt Nam, giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia.
Thứ năm, cần chú trọng đào tạo cán bộ làm công tác quản lý đầu tư. Một chính
sách tốt chỉ được hiện thực hoá trong cuộc sống khi có một đội ngũ cán bộ triển
khai tốt.
Nếu như không có được một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ và có đủ những
phẩm
chất cần thiết thì mọi chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài dù có hấp dẫn
đến mấy
cũng rất khó lôi kéo được các nhà đầu tư. Đà Nẵng không thể hấp dẫn các nhà đầu
tư bằng
những chính sách thu hút thông thoáng nhưng lại có đội ngũ cán bộ quản lý kém
cỏi, hay
hạch sách, nhũng nhiễu. Tình trạng một số cán bộ quản lý trên lĩnh vực này lợi
dụng sự
thiếu hiểu biết pháp luật Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài để nhũng nhiễu,
vòi vĩnh
đã từng xảy ra ở nhiều nơi trong thời gian qua đã tạo ra cái nhìn không mấy
thiện cảm của
các doanh nhân nước ngoài đối với hệ thống cán bộ công quyền thành phố. Do đó,
phải
đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý làm việc ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
hoặc ở các cơ quan xét duyệt các dự án đầu tư nước ngoài có đủ năng lực trình
độ, phẩm
chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị vững vàng và phải biết đặt lợi ích của thành
phố, của
dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.3.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch
Thực hiện tốt công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của Thành
phố
Đà Nẵng đã được Chính phủ phê chuẩn. Trên cơ sở đó, xác định dự án cần thiết gọi
vốn
đầu tư theo thứ tự ưu tiên về ngành nghề, thời gian và địa điểm cụ thể. Qua việc
quy hoạch
định ra các điều kiện ưu đãi, hình thức đầu tư, nguồn nguyên liệu. Trong quá
tình chuẩn bị
dự án đầu tư trực tiếp phải chú ý nghiên cứu sự cần thiết gọi vốn đầu tư nước
ngoài của từng
loại dự án, phải tính toán khả năng tham gia vốn của các doanh nghiệp trong
nước, trên cơ sở
tận dụng tối đa nhà xưởng, thiết bị cũng như kêu gọi các nhà đầu tư trong nước
góp vốn liên
doanh nhằm phát huy hơn nữa nguồn lực từ bên trong.
Thành phố Đà Nẵng cần phát triển đa dạng hoá loại hình khu công nghiệp và phân
chia chức năng các khu công nghiệp để hướng vào các loại hình công nghiệp khác
nhau.
Thực tế các khu công nghiệp trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng đều tiếp nhận nhiều
ngành
công nghiệp bao gồm loại hình công nghiệp ít gây ô nhiễm và rất ô nhiễm, điều
này ảnh
hưởng đến việc xử lý nước thải và nhiều vấn đề khác. Do vậy Đà Nẵng nên áp dụng
2 loại
mô hình : khu công nghiệp chuyên ngành và khu công nghiệp sinh thái. Nếu thực
hiện theo
hai mô hình này sẽ cho phép thu hút, khai thác và sử dụng hiệu quả các dự án đầu
tư nước
ngoài.
Kết hợp phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất với việc đô thị hoá vùng nông
thôn phụ cận. Đây là khu đô thị mới và khu dân cư phục vụ cho các khu công
nghiệp, khu
chế xuất. Các công trình xây dựng ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất
như cấp
điện cấp nước, UBND Thành phố Đà Nẵng phải chịu trách nhiệm đầu tư theo tiến độ
yêu
cầu của nhà đầu tư. Trong trường hợp thành phố chưa thực hiện ngay việc xây dựng
các
công trình này thì khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành xây dựng
theo quy
hoạch, thành phố sẽ hoàn trả lại các chi phí xây dựng.
Phối hợp với ban quản lý các KCX và KCN trong việc vận động đầu tư vào các
KCN, đề ra các chính sách, giải pháp cụ thể để nhanh chóng thu hút đầu tư vào
các khu
này, phấn đấu trong giai đoạn tới sẽ thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt các nhà
đầu tư nước
ngoài để lấp đầy trên 60% diện tích đất công nghiệp của các khu công nghiệp. Trừ
những
dự án gắn kết chặt chẽ với vùng nguyên liệu, những dự án có yêu cầu đặc biệt.
Kiên quyết
định hướng các dự án sản xuất công nghiệp còn lại đầu tư vào KCN, KCX để tạo
điều kiện
tập trung xử lý chất thải, hạn chế ô nhiễm.
Trong giai đoạn hiện nay cũng như thời gian tới, vấn đề đối với Đà Nẵng không
chỉ
là tăng cường thu hút vốn FDI vào phát triển KT-XH mà điều quan trọng hơn là
hướng
nguồn vốn ấy vào đúng những ngành kinh tế cần được ưu tiên phát triển và các khu
công
nghiệp tập trung. Các kế hoạch hoặc chương trình thu hút FDI cần được xử lý tổng
thể cho
phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của Thành phố. Các dự án FDI cần
được quy hoạch, tập trung vào KCN-KCX cho phù hợp với quy hoạch phát triển đô
thị của
Thành phố theo hướng mở rộng phát triển các khu đô thị mới, đảm bảo các vấn đề
về môi
trường và giao thông. Khuyến khích mạnh mẽ các DNFDI trong các ngành công nghiệp
chế biến xuất khẩu công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ cơ khí, điện tử,
năng lượng,
dịch vụ chất lượng cao.
Ngoài ra, Đà Nẵng cần đặc biệt coi trọng nghiên cứu xu hướng phát triển của thị
trường vốn đầu tư trên thế giới, chính sách đầu tư của các khối, các nước, các
tập đoàn
công ty lớn để có đối sách thích hợp đối với hoạt động thu hút FDI. Thực hiện
chủ trương
đa phương hoá với các đối tác ĐTNN để tạo thế chủ động trong mọi tình huống.
Cùng với
việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư truyền thống ở Châu Á, ASEAN vào các dự án
mà họ
có kinh nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng xuất
khẩu, Đà
Nẵng cũng cần chú trọng thu hút vốn của các tập đoàn lớn trên thế giới và nguồn
vốn từ
các nước có tiềm năng kinh tế lớn, thị trường lớn, công nghệ cao như Mỹ, Tây
Âu... để
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và
nhỏ,
nhưng có công nghệ hiện đại.
Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch thu hút FDI đã được xây dựng, hình thành danh
mục dự án gọi vốn FDI cho thời kỳ đến năm 2010. Danh mục này phải là bộ phận cấu
thành quan trọng của danh mục dự án gọi vốn FDI quốc gia. Khi xây dựng danh mục
dự án
gọi vốn FDI cần lưu ý các vấn đề như: quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của
thành
phố trong từng thời kỳ đã được cấp có thẩm quyền thông qua; tình hình triển khai
thực
hiện các dự án thuộc danh mục dự án gọi vốn của kỳ trước để rút kinh nghiệm và
chọn lựa
dự án chuyển tiếp gọi vốn cho kỳ hạn này; kế hoạch phát triển KT-XH được thông
qua tại
Đại hội Đảng bộ thành phố; các quy định của Nhà nước có liên quan đến việc xây
dựng
danh mục dự án gọi vốn FDI; đánh giá lợi thế của Đà Nẵng so với tỉnh lân cận;
xem xét
các điều kiện ràng buộc về hình thức đầu tư; xác định địa điểm, kết cấu hạ tầng
kỹ thuật ở
khu vực dự kiến kêu gọi đầu tư; nhu cầu vốn, khả năng tham gia của các doanh
nghiệp
trong nước; nguồn lao động cung ứng.
Thành phố Đà Nẵng cần phối hợp với các tỉnh lân cận như Huế, Quảng Nam,
Quảng Ngãi... để phát huy và tranh thủ tốt hơn các yếu tố về tài nguyên, thị
trường, tạo sức
hấp dẫn chung trong khu vực và riêng cho Thành phố Đà Nẵng. Bên cạnh đó cần hợp
tác
với các tỉnh này trong việc kêu gọi Chính phủ hỗ trợ chi phí vận chuyển cho khu
vực miền
Trung nói chung và Thành phố Đà Nẵng nói riêng, vì cước phí vận chuyển tại khu
vực này
cao hơn rất nhiều so với các khu vực khác trong nước.
Các dự án gọi vốn FDI có tính khả thi cao thì các thông tin về dự án càng cụ
thể,
càng tốt. Trong danh mục dự án gọi vốn FDI cần xác định rõ sản phẩm, công suất,
tiến độ,
trình độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án, các chính sách
khuyến
khích, ưu đãi... đồng thời cần phổ biến rộng rãi các thông tin này trên các
phương tiện
thông tin đại chúng. Điều đó sẽ giúp nhà đầu tư lựa chọn, cân nhắc và nhanh
chóng đi đến
quyết định đầu tư chọn dự án để tiến hành đàm phán ta không thể tuỳ tiện thay
đổi vì lợi
ích của đơn vị hay của địa phương.
Cùng với việc lập quy hoạch chung, cần lập đề án gọi vốn đầu tư cho từng lĩnh
vực
cụ thể, nêu rõ những lợi thế và lợi ích của việc đầu tư cho lĩnh vực đó trên địa
bàn Đà
Nẵng, đồng thời từ cơ sở của mỗi đề án này cần tập trung vận động đầu tư vào
từng nhóm
loại nhà đầu tư có nhu cầu tương tự, tránh việc vận động tràn lan, không hiệu
quả. Nhằm
tăng cường tính khả thi của dự án gọi vốn, tạo thuận lợi và lòng tin cho nhà đầu
tư trong
việc chọn lựa cơ hội đầu tư, danh mục dự án gọi vốn FDI được công bố cần có văn
bản
chính thức của cấp có thẩm quyền công bố. Danh mục dự án gọi vốn FDI khi đã công
bố
sẽ mặc nhiên được coi là đã thống nhất về chủ trương đầu tư, phù hợp với quy
hoạch
ngành, lãnh thổ.
Từ quan điểm chung của Đà Nẵng là đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế
đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tranh thủ nguồn lực bên ngoài và
tiếp tục
tiến trình hội nhập kinh tế Thành phố cần chủ động tìm kiếm đối tác đầu tư để
đầu tư vào
những dự án đã xác lập, đã lập quy hoạch.
3.3.2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư
Ngày 22/12/2000 UBND Thành phố Đà Nẵng cho phép thành lập Trung tâm xúc
tiến đầu tư trực thuộc Sở Kế Hoạch và Đầu tư. Từ khi thành lập cho đến nay trung
tâm đã
góp phần quảng bá và tiếp thị về cơ hội đầu tư ở Thành phố Đà Nẵng, tìm kiếm
được nhiều
dự án rất quan trọng. Tuy nhiên Thành phố Đà Nẵng vẫn chưa xây dựng được một
chiến
lược đầu tư hoàn chỉnh do đó công tác đầu tư còn mang tính dàn trải, chưa tập
trung xúc
tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực...
Trong tình hình thực tế hiện nay việc tìm kiếm và thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài không phải là vấn đề đơn giản, hướng vận động trong giai đoạn sắp tới vẫn
sẽ là các
nước thuộc khu vực Châu Âu. Mỹ và các nước phát triển Châu Mỹ, Nhật Bản một số
nhà
đầu tư thực sự có tiềm lực kinh tế trong khu vực. Đây là những nước có trình độ
công nghệ
cao và có thể chuyển giao công nghệ tiên tiến nước ngoài hiện đại. Để xúc tiến
có hiệu quả
cao, UBND Thành phố Đà Nẵng cần phải dành một phần ngân sách đáp ứng cho nhu cầu
xúc tiến hàng năm.
Ngoài việc mở Website trên Internet, Đà Nẵng cần phải tổ chức một cuộc cách
mạng thực sự trong việc tuyên truyền rộng rãi cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ
về lợi ích
của FDI bằng các phương tiện thông tin đại chúng đưa lên quảng cáo trên báo, đài
phát
thanh, truyền hình địa phương về sự cần thiết, lợi ích của FDI... Đặc biệt là
đăng trên báo
tiếng Anh. Việc làm này sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mọi tầng lớp
nhân dân.
Đào tạo bồi dưỡng những người phục vụ khách nước ngoài, giới thiệu quảng bá các
nhà
đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Đà Nẵng. In và phát miễn phí các giới thiệu tóm
tắt về
quy hoạch phát triển, chính sách thu hút vốn FDI cho các thương gia nước ngoài.
Đây là
một phương pháp xúc tiến mặc dù hiệu quả đầu tư trước mắt không cao, chi phí
tương đối
lớn nhưng sẽ tuyên truyền được rộng rãi cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ lợi
ích của
FDI. Từ đó, tác động đến mọi ý thức của người dân trong việc cùng nhau góp sức
thúc đẩy
tiến trình đầu tư tiềm năng.
Trong bối cảnh cạnh tranh về thu hút vốn FDI giữa các nước, các địa phương ngày
càng gay gắt, đòi hỏi Đà Nẵng cần tiếp tục đổi mới, cải tiến mạnh phương thức
vận động
xúc tiến đầu tư thì mới tranh thủ được nhiều nguồn vốn FDI, các tập đoàn đa quốc
gia.
Đối với những nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư hoặc Thành phố tổ chức
những đoàn công tác ra nước ngoài để trực tiếp vận động, tiếp xúc với nhà ĐTNN,
nhằm
cung cấp những thông tin về tiềm năng và cơ hội đầu tư vào Đà Nẵng. Việc xúc
tiến, kêu
gọi các nhà ĐTNN nên thông qua cá tổ công ty tài chính, ngân hàng, các tổ chức
xúc tiến
đầu tư quốc tế; các cơ quan lãnh sự quán Việt Nam tại nước ngoài, các cơ quan
ngoại giao,
các đại sứ quán, các tổ chức ngân hàng, tổ chức tư vấn pháp luật, các hãng thông
tấn báo
chí, hàng không, bưu chính viễn thông đóng trên địa bàn Đà Nẵng, nhằm cung cấp
thông
tin và tạo ra tiền đề ban đầu cho các nhà ĐTNN.
Các đoàn công tác từ cấp thành phố đến các sở, ban ngành khi đi công tác nước
ngoài cần được giao nhiệm vụ giới thiệu các cơ hội đầu tư ở Đà Nẵng, đồng thời
thu thập
thông tin về thị trường đối tác nước ngoài để cung cấp cho doanh nghiệp của
thành phố.
Khi xúc tiến các nhà đầu tư, cần có sự tham gia của các DNFDI đã kinh doanh
thành công
ở Đà Nẵng để họ tuyên truyền, cung cấp những thông tin thiết thực nhất. Những
thông tin
về tiềm năng và cơ hội đầu tư vào Đà Nẵng, được các DNFDI đã kinh doanh thành
công,
phân tích, đánh giá sẽ rất hữu ích đối với các nhà đầu tư có ý định đến Đà Nẵng
tìm hiểu
cơ hội đầu tư.
Hỗ trợ ngân sách nhà nước lập văn phòng đại diện, Trung tâm xúc tiến thương mại,
đầu tư, lao động ở Mỹ, EU và một số nước khác để tiến hành xúc tiến thương mại,
đầu tư
xuất khẩu lao động. Thành lập quỹ xúc tiến đầu tư và xuất khẩu của Thành phố để
tài trợ
tập trung cho hoạt động mở rộng thị trường và vận động đầu tư ở nước ngoài của
các
doanh nghiệp Đà Nẵng và các địa phương có nhu cầu.
Đà Nẵng cần tập trung mạnh vào các thủ tục trước cấp phép, thực hiện đúng và đầy
đủ những cam kết khi kêu gọi xúc tiến đầu tư. nếu không có thông tin cụ thể,
chính xác,
giảm tối đa các thủ tục hành chính phiền hà, nhà đầu tư sẽ nản lòng bỏ đi nơi
khác. Tạo
điều kiện thuận lợi và đơn giản thủ tục mở văn phòng đại diện, các chi nhánh của
các công
ty nước ngoài hoạt động tại Đà Nẵng. Thường xuyên tổ chức các hội nghị các văn
phòng
đại diện nước ngoài để kịp thời nắm bắt những dự định đầu tư của các công ty mẹ,
từ đó có
hướng thu hút các nhà ĐTNN.
Đối với nhà đầu tư đã có dự án. Đà Nẵng cần chú ý đến giai đoạn triển khai sau
giấy phép của doanh nghiệp FDI, chẳng hạn như: hỗ trợ nhà đầu tư giải phóng mặt
bằng,
hạ tầng kỹ thuật, xử lý các tồn tại vướng mắc trong quá trình triển khai dự án.
Công việc
này có ý nghĩa rất quan trọng trong xúc tiến đầu tư, nếu nhà ĐTNN triển khai sau
giấy
phép thuận lợi thì môi trường sẽ được nâng cao, lôi kéo thêm được nhiều nhà đầu
tư mới.
Nếu một doanh nghiệp FDI mà hài lòng về môi trường đầu tư ở Đà Nẵng thì chắc
chắn họ
sẽ quảng bá cho các nhà ĐTNN khác đầu tư tiếp vào Đà Nẵng. Như vậy, việc sử dụng
các
doanh nghiệp FDI làm ăn có hiệu quả để vận động xúc tiến đầu tư là một giải pháp
không
thể xem nhẹ, bởi các nhà ĐTNN thường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do mối
quan hệ
làm ăn đã được thiết lập lâu dài. Có lẽ không ai làm tiếp thị và xúc tiến đầu tư
có hiệu quả hơn
những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc đã đang hoạt động có hiệu quả
trên địa
bàn Đà Nẵng.
Việc tổ chức hội nghị với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn Đà Nẵng,
Thành phố nên duy trì tổ chức mỗi năm một lần. Thông qua các cuộc hội nghị hàng
năm
như vậy, Đà Nẵng có thể thông báo các quy định, chính sách mới của Nhà nước với
các
nhà đầu tư, lắng nghe các kiến nghị của doanh nghiệp FDI để tìm biện pháp giúp
họ tháo
gỡ khó khăn trong quá trình hoạt động. Đồng thời qua đối thoại, Thành phố có dịp
để tìm
hiểu được mức độ cải thiện môi trường đầu tư của mình so với năm trước ra sao,
để đưa ra
các giải pháp xử lý thích hợp.
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ
Một trong những nguyên nhân của sự yếu kém về việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài là sự thiếu thốn cơ sở hạ tầng và các dịch vụ về tài chính ngân hàng.. Mặc
dù trong
những năm qua Thành phố Đà Nẵng có nhiều nỗ lực trong việc quy hoạch phát triển
và
hoàn thiện hệ thống hạ tầng dịch vụ, nâng cấp các tuyến đường cũ trong nội thành
(đường
Ngô Quyền, Bạch Đằng, Hồ Xuân Hương...) làm các tuyến đường mới như Phạm Văn
Đồng, Nguyễn Tất Thành... xây dựng thêm cầu Tuyên Sơn.
Hệ thống hạ tầng dịch vụ của Thành phố Đà Nẵng có phần tốt hơn các vùng lân
cận. Tuy nhiên để hướng đến những mục tiêu trong tương lai thì trong giai đoạn
đến thành
phố cần phải tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng dịch vụ một cách đồng bộ và hiện
đại hơn
nữa.
Đầu tư cho cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, tính sinh
lời
thấp nên đã hạn chế sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Do đó, cần xác định rõ nguồn
vốn ngân
sách vẫn giữ vai trò chính. Thành phố nên dành một tỷ lệ chi ngân sách lớn hơn
cho đầu tư
cơ sở hạ tầng trên cơ sở tăng tỷ lệ hoạt động ngân sách và tiết kiệm các khoản
chi thường
xuyên không cần thiết.
Ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng từ nhiều nguồn vốn như: ngân sách nhà
nước, vay ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế khuyến
khích
vốn tư nhân đầu tư cho các dự án nhà nước, khuyến khích nhà ĐTNN đầu tư vào các
dự án
BOT, BTO, BT để phát triển hạ tầng theo quy hoạch thống nhất, bảo đảm tính liên
tục
đồng bộ và hiện đại của hệ thống cơ sở hạ tầng cả trên phạm vi Thành Phố cũng
như quốc
gia và liên thông với quốc tế.
Đà Nẵng cần có cơ chế ưu đãi đặc thù, rõ ràng, cụ thể và mang tính đột phát hơn
nữa đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các khu vực quy hoạch KCN-KCX,
khu đô thị mới để cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn như hỗ trợ lãi
suất tín dụng
cho dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, miễn giảm thuế đến mức thấp nhất trong thời
gian công
trình đã đi vào hoạt động nhưng chưa hoàn vốn. Theo kinh nghiệm của các quốc gia
khác
trên thế giới, nên để cho chủ đầu tư được kinh doanh thêm đường giao thông thì
nhà đầu tư
được kinh doanh trạm xăng dầu hoặc mở các trung tâm phục vụ khách bộ hành trên
con
đường đó.
Để tạo thuận lợi thu hút đầu tư vào KCN, thành phố cần thực hiện việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp KCN; cải thiện chất lượng hệ
thống
dịch vụ hiện tại và phát triển một hệ thống dịch vụ rộng khắp, đa dạng và có
chất lượng
cao như y tế, giáo dục, quảng cáo, kỹ thuật. Thành lập và phát triển các trung
tâm thông tin
KT-XH trên địa bàn và nối mạng toàn quốc, nối mạng Internet để cung cấp các
thông tin
về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật trên thế giới cũng như trong
nước và đại
phương để giúp các nhà ĐTNN, các DNFDI nắm bắt kịp thời, đầy đủ thông tin cần
thiết
liên quan đến hoạt động FDI theo giác độ của mình.
Phát triển cơ sở hạ tầng ngoài khu công nghiệp, chú trọng đến vấn đề nhà ở và
dịch
vụ cho công nhân. Thời gian qua Thành phố Đà Nẵng chưa chú trọng đến vấn đề này
nên
ảnh hưởng rất nhiều đến việc hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Thiếu nhà ở và
dịch vụ
cho người làm việc ở khu công nghiệp, ảnh hưởng đến thu hút lao động có trình độ
cao và
ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất sức lao động.
Từng bước nâng cấp và cải tạo các Cảng của Thành phố như Cảng Đà Nẵng, Cảng
Tiên Sa, Cảng Sông Hàn, Cảng Liên Chiểu để đủ sức tiếp nhận các luồng hàng hoá
ra vào
Thành phố. Nâng cấp và cải tạo cảng hàng không, ga đường sắt, hoàn thiện hệ
thống giao
thông đường bộ nội thành.
Trong tương lai xa, phải có chiến lược hình thành trung tâm thị trường chứng
khoán
miền Trung ở Đà Nẵng. Hình thành mạng lưới tài chính ngân hàng, đảm bảo nhu cầu
lượng tiền ra vào được thuận tiện, thanh toán nhanh gọn, chính xác. Hiện nay
trên địa bàn
Thành phố nhiều ngân hàng không đủ nguồn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi
ngoại tệ của các doanh nghiệp FDI. Vì thế các doanh nghiệp FDI thường gặp khó
khăn
trong việc giao dịch với khách hàng bằng ngoại tệ.
3.3.4. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong công tác quản lý đầu tư trực tiếp
nước
ngoài trên địa bàn Đà Nẵng. Trên cơ sở Luật đầu tư, các quy định khác có liên
quan của
Chính phủ và các ngành hữu quan, quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực
tiếp
nước ngoài phải nhằm vào mục tiêu hướng dẫn tạo điều kiện thuận lợi trong quá
trình
quản lý không chỉ ở một khâu nào mà ở tất cả các khâu, các bước của quá trình
đầu tư,
từ việc tìm kiếm xúc tiến đầu tư đến khâu thủ tục lập hồ sơ và thẩm định cấp
phép đầu
tư và sau cùng là quá trình triển khai hoạt động của các dự án được cấp phép. Cả
quá
trình từ khâu đầu đến khâu cuối như vậy, quá trình quản lý phải biết vận dụng
các quy
định của pháp luật, chính sách của Nhà nước tạo những điều kiện thuận lợi, thông
thoáng cho nhà đầu tư đến Đà Nẵng đầu tư và sản xuất kinh doanh.
UBND Thành phố Đà Nẵng là cơ quan quản lý cao nhất ở địa phương có thẩm
quyền quyết định và đề xuất trực tiếp với Chính phủ cũng như các Ngành liên quan
về toàn
bộ hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài trên địa bàn thành phố. Để hoạt
động đầu tư
nước ngoài được nhanh chóng, công tác chỉ đạo của UBND thành phố phải tập trung
hơn
nữa, kịp thời và chính xác. UBND Thành phố cần thường xuyên hơn nữa trong việc
gặp gỡ
các doanh nghiệp FDI không chỉ để tháo gỡ các vướng mắc của các doanh nghiệp mà
thông qua đó có thể quản lý tốt hơn các doanh nghiệp FDI sau cấp phép.
Sở Kế Hoạch và Đầu tư là đơn vị chuyên ngành tham mưu giúp UBND thành phố
trực tiếp thực hiện công tác quản lý Nhà nước về toàn bộ hoạt động đầu tư nước
ngoài trên
địa bàn thành phố. Sở Kế Hoạch và Đầu tư có trách nhiệm phối hợp với các ngành
chuyên
môn để thực hiện vai trò quản lý Nhà nước của mình. Các ngành chuyên môn liên
quan
trực tiếp như tài chính, thuế, địa chính, xây dựng, công nghiệp, du lịch phải đề
cao trách
nhiệm quản lý chuyên ngành và cần có bộ phận chuyên trách với đội ngũ cán bộ am
hiểu
chuyên môn, có đạo đức tốt, có năng lực đối ngoại để làm việc và giải quyết trực
tiếp với
các doanh nghiệp FDI. Nâng cao năng lực, trách nhiệm sự phối hợp chặt chẽ và
thống nhất
của các cơ quan hữu quan trong việc tiếp nhận, thẩm định xét duyệt các dự án đầu
tư, tránh
tình trạng các cơ quan chức năng thiếu sự phối hợp và ý kiến khác nhau khi tiếp
nhận một