LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng

3,756
738
90
quan tâm củng cố và hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu của các nhà đầu tư cũng như lợi
ích của thành phố, của đất nước.
Với quyết tâm cao trong cải cách thủ tục hành chính nói chung và thủ tục cấp phép
dự án FDI nói riêng, Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng nổ lực rút ngắn thời gian cấp giấy phép,
thay đổi tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ trực tiếp liên quan đến giải quyết các thủ
tục đầu tư, thay đổi nhận thức của các cơ quan ban, ngành có liên quan. Những thay đổi đó
đã tạo sự chủ động tích cực, phối hợp với nhau chặt chẽ hơn trong giải quyết thủ tục đầu
tư, xoá bỏ dần tư tưởng xin cho, cửa quyền. Nâng cao trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân
trong giải quyết các thủ tục đầu tư. Đồng thời, Đà Nẵng có nhiều biện pháp để tăng cường
sự hiểu biết và những kinh nghiệm trong quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài cho các đơn vị liên quan và đội ngũ cán bộ trực tiếp phụ trách.
2.3.2. Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Đà Nẵng trong những năm qua cũng bộc lộ những hạn
chế, những khó khăn. Qua các năm doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy có
tăng nhưng vẫn còn quá thấp so với tiềm năng của Đà Nẵng, là do:
Về công tác xây dựng chiến lược và quy hoạch, mặc dù đã có quy hoạch thổng thể
về phát triển kinh tế hội, nhưng vẫn chưa đủ thông tin chi tiết về các dự án đầu để
cung cấp cho nhà đầu tư nước ngoài. Chất lượng quy hoạch chưa cao, chưa có những căn
cứ xác thực, thuyết phục dẫn đến nguy cơ dễ lạc hậu, phải thường xuyên thay đổi, như vậy
khó có thể tạo định hướng ổn định đáng tin cậy cho nhà đầu tư. Khi xét duyệt các dự án
đầu thiếu chặt chẽ hợp lý, chỉ xuất phát từ mong muốn hoặc khả năng mà thiếu quan
tâm đến những vấn đề về thị trường, chưa kết hợp chặt chẽ giữa nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội với yêu cầu đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ cảnh quan môi trường nên dẫn
đến dự án đã cấp phép nhưng không triển khai được phải rút vốn đầu tư.
Công tác xúc tiến FDI, hiệu quả thấp; tuyền truyền vận động xúc tiến đầu tư còn
đơn giản và thụ động; chưa gắn xúc tiến thương mại với xúc tiến đầu tư. Một số buổi hội
thảo xúc tiến đầu hoặc đối thoại với doanh nghiệp FDI còn mang tính hình thức, việc
thu thập thông tin về đối tác nước ngoài còn nhiều khó khăn, không đầy đủ.
quan tâm củng cố và hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu của các nhà đầu tư cũng như lợi ích của thành phố, của đất nước. Với quyết tâm cao trong cải cách thủ tục hành chính nói chung và thủ tục cấp phép dự án FDI nói riêng, Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng nổ lực rút ngắn thời gian cấp giấy phép, thay đổi tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ trực tiếp liên quan đến giải quyết các thủ tục đầu tư, thay đổi nhận thức của các cơ quan ban, ngành có liên quan. Những thay đổi đó đã tạo sự chủ động tích cực, phối hợp với nhau chặt chẽ hơn trong giải quyết thủ tục đầu tư, xoá bỏ dần tư tưởng xin cho, cửa quyền. Nâng cao trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân trong giải quyết các thủ tục đầu tư. Đồng thời, Đà Nẵng có nhiều biện pháp để tăng cường sự hiểu biết và những kinh nghiệm trong quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các đơn vị liên quan và đội ngũ cán bộ trực tiếp phụ trách. 2.3.2. Những hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Đà Nẵng trong những năm qua cũng bộc lộ những hạn chế, những khó khăn. Qua các năm doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy có tăng nhưng vẫn còn quá thấp so với tiềm năng của Đà Nẵng, là do: Về công tác xây dựng chiến lược và quy hoạch, mặc dù đã có quy hoạch thổng thể về phát triển kinh tế xã hội, nhưng vẫn chưa đủ thông tin chi tiết về các dự án đầu tư để cung cấp cho nhà đầu tư nước ngoài. Chất lượng quy hoạch chưa cao, chưa có những căn cứ xác thực, thuyết phục dẫn đến nguy cơ dễ lạc hậu, phải thường xuyên thay đổi, như vậy khó có thể tạo định hướng ổn định đáng tin cậy cho nhà đầu tư. Khi xét duyệt các dự án đầu tư thiếu chặt chẽ hợp lý, chỉ xuất phát từ mong muốn hoặc khả năng mà thiếu quan tâm đến những vấn đề về thị trường, chưa kết hợp chặt chẽ giữa nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội với yêu cầu đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ cảnh quan môi trường nên dẫn đến dự án đã cấp phép nhưng không triển khai được phải rút vốn đầu tư. Công tác xúc tiến FDI, hiệu quả thấp; tuyền truyền vận động xúc tiến đầu tư còn đơn giản và thụ động; chưa gắn xúc tiến thương mại với xúc tiến đầu tư. Một số buổi hội thảo xúc tiến đầu tư hoặc đối thoại với doanh nghiệp FDI còn mang tính hình thức, việc thu thập thông tin về đối tác nước ngoài còn nhiều khó khăn, không đầy đủ.
Công tác giám sát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại Đà Nẵng chưa
được quan tâm đúng mức mà chỉ mới tập trung quan tâm tới cấp phép, chưa chú ý đến
khâu quản lý sau cấp giấy phép.
Cán bộ quản nhà nước các ngành có liên quan cán bộ được cử vào liên
doanh tham gia điều hành doanh nghiệp còn yếu cả về năng lực và ngoại ngữ, đây cũng là
vấn đề cần xem xét, là yếu tố quyết định tới quá trình quản lý vận hành doanh nghiệp, thực
tế hiện tại trên địa bàn thành phố đây khâu cần nhanh chóng khắc phục.trường hợp
được cử vào các chức vụ quan trọng trong ban điều hành doanh nghiệp nhưng thiếu kiến
thức về chuyên môn, chưa qua đào tạo, thiếu sự hiểu biết về pháp luật lại đối mặt với lĩnh
vực mới mẻ, những nhà kinh doanh nước ngoài sừng sỏ, nhiều kinh nghiệm nên nhiều khi
lúng túng không bảo vệ được quyền lợi của phía Việt Nam. Hoạt động công đoàn còn yếu,
công tác Đảng trong khu vực này còn lúng túng. Mặt khác, lao động của ta trong các doanh
nghiệp FDI chất lượng còn hạn chế, thiếu tác phong công nghiệp.
hình quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI trên địa bàn Đà Nẵng vừa
thiếu chế trao đổi thông tin, thiếu chế kiểm soát hỗ trợ lẫn nhau. Việc thi hành
chính sách và pháp luật đối với doanh nghiệp FDI ở Đà Nẵng còn chậm trễ, thiếu tính thống
nhất, đôi khi không rõ ràng. Đặc biệt, bộ máy hành chính còn cồng kềnh, chức năng chồng
chéo, thủ tục đầu tư phức tạp, dây dưa, đùn đẩy đã dẫn đến bỏ mất cơ hội của các nhà đầu tư
nước ngoài.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Hệ thống luật pháp, chính sách của Nhà nước đang trong quá trình hoàn thiện nên
thiếu tính đồng bộ, chưa đủ mức cụ thể nên chưa đảm bảo xuyên suốt gây khó khăn cho
qua trình dự đoán của các nhà đầu tư khi tìm hiểu về môi trường đầu tư của Việt Nam. Các
chính sách thiếu đồng bộ, nhiều vấn đề về thuế, hải quan, quản lý ngoại tệ, xuất nhập khẩu
còn vướng mắc gây lo ngại rủi ro cho các nhà đầu tư.
Thành phố Đà Nẵng so với các địa phương khác của miền Trung những điều
kiện tốt hơn về môi trường đầu tư, nhưng những khó khăn về điều kiện kinh tế xã hội, hạ
tầng sở những hạn chế khách quan rất bản làm cho môi trường đầu kém hấp
dẫn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Công tác giám sát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại Đà Nẵng chưa được quan tâm đúng mức mà chỉ mới tập trung quan tâm tới cấp phép, chưa chú ý đến khâu quản lý sau cấp giấy phép. Cán bộ quản lý nhà nước ở các ngành có liên quan và cán bộ được cử vào liên doanh tham gia điều hành doanh nghiệp còn yếu cả về năng lực và ngoại ngữ, đây cũng là vấn đề cần xem xét, là yếu tố quyết định tới quá trình quản lý vận hành doanh nghiệp, thực tế hiện tại trên địa bàn thành phố đây là khâu cần nhanh chóng khắc phục. Có trường hợp được cử vào các chức vụ quan trọng trong ban điều hành doanh nghiệp nhưng thiếu kiến thức về chuyên môn, chưa qua đào tạo, thiếu sự hiểu biết về pháp luật lại đối mặt với lĩnh vực mới mẻ, những nhà kinh doanh nước ngoài sừng sỏ, nhiều kinh nghiệm nên nhiều khi lúng túng không bảo vệ được quyền lợi của phía Việt Nam. Hoạt động công đoàn còn yếu, công tác Đảng trong khu vực này còn lúng túng. Mặt khác, lao động của ta trong các doanh nghiệp FDI chất lượng còn hạn chế, thiếu tác phong công nghiệp. Mô hình quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI trên địa bàn Đà Nẵng vừa thiếu cơ chế trao đổi thông tin, thiếu cơ chế kiểm soát và hỗ trợ lẫn nhau. Việc thi hành chính sách và pháp luật đối với doanh nghiệp FDI ở Đà Nẵng còn chậm trễ, thiếu tính thống nhất, đôi khi không rõ ràng. Đặc biệt, bộ máy hành chính còn cồng kềnh, chức năng chồng chéo, thủ tục đầu tư phức tạp, dây dưa, đùn đẩy đã dẫn đến bỏ mất cơ hội của các nhà đầu tư nước ngoài. 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế Hệ thống luật pháp, chính sách của Nhà nước đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu tính đồng bộ, chưa đủ mức cụ thể nên chưa đảm bảo xuyên suốt gây khó khăn cho qua trình dự đoán của các nhà đầu tư khi tìm hiểu về môi trường đầu tư của Việt Nam. Các chính sách thiếu đồng bộ, nhiều vấn đề về thuế, hải quan, quản lý ngoại tệ, xuất nhập khẩu còn vướng mắc gây lo ngại rủi ro cho các nhà đầu tư. Thành phố Đà Nẵng so với các địa phương khác của miền Trung có những điều kiện tốt hơn về môi trường đầu tư, nhưng những khó khăn về điều kiện kinh tế xã hội, hạ tầng cơ sở là những hạn chế khách quan rất cơ bản làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài
không chỉ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực ngay trong nước ta giữa vùng
này với vùng khác như Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai hoặc
Hà Nội, Hải Phòng cũng rất gây gắt; xét về điều kiện sản xuất kinh doanh giữa Đà Nẵng và
các địa phương trên thì Đà Nẵng còn kém hấp dẫn, tính rủi ro trong đầu tư lớn hơn.
Các khu công nghiệp đã thành lập do thiếu kết cấu hạ tầng, kinh tếhội chưa đủ
hấp dẫn các nhà đầu tư, chi phí san lấp mặt bằng, giá phí sử dụng còn cao.
Cùng với những khó khăn về điều kiện hạ tầng cơ sở, thị trường Đà Nẵng cũng như
thị trường các vùng lân cận do sức mua còn yếu, dân còn nghèo, như vậy có nghĩa thị
trường nội địa còn nhỏ, các điều kiện về sản xuất phụ trợ, công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp chưa phát triển, điều kiện vận tải còn khó khăn, giá thành vận tải cao, điều kiện đi
lại không thuận lợi...tất cả những điều này làm cho giá thành sản phẩm cao hơn so với việc
sản xuất sản phẩm tương tự các nơi khác, chung quy lại là tình hình trên làm cho độ rủi
ro sản xuất kinh doanh ở Đà Nẵng lớn hơn so với các nơi khác.
Công tác quản đối với doanh nghiệp vốn đầu trực tiếp nước ngoài còn
nhiều bất cập, hoạt động xúc tiến đầu tư còn nhiều hạn chế, công tác quản lý dự án sau cấp
phép chưa được quan tâm đúng mức.
Trên đây một số những nguyên nhânbản về quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PP HN THIỆN QUẢN NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
không chỉ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực mà ngay trong nước ta giữa vùng này với vùng khác như Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai hoặc Hà Nội, Hải Phòng cũng rất gây gắt; xét về điều kiện sản xuất kinh doanh giữa Đà Nẵng và các địa phương trên thì Đà Nẵng còn kém hấp dẫn, tính rủi ro trong đầu tư lớn hơn. Các khu công nghiệp đã thành lập do thiếu kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư, chi phí san lấp mặt bằng, giá phí sử dụng còn cao. Cùng với những khó khăn về điều kiện hạ tầng cơ sở, thị trường Đà Nẵng cũng như thị trường các vùng lân cận do sức mua còn yếu, dân còn nghèo, như vậy có nghĩa thị trường nội địa còn nhỏ, các điều kiện về sản xuất phụ trợ, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa phát triển, điều kiện vận tải còn khó khăn, giá thành vận tải cao, điều kiện đi lại không thuận lợi...tất cả những điều này làm cho giá thành sản phẩm cao hơn so với việc sản xuất sản phẩm tương tự ở các nơi khác, chung quy lại là tình hình trên làm cho độ rủi ro sản xuất kinh doanh ở Đà Nẵng lớn hơn so với các nơi khác. Công tác quản lý đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn nhiều bất cập, hoạt động xúc tiến đầu tư còn nhiều hạn chế, công tác quản lý dự án sau cấp phép chưa được quan tâm đúng mức. Trên đây là một số những nguyên nhân cơ bản về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng. Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1.1. Bối cảnh trong nước quốc tế tác động đến quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng
Chúng ta bước vào thế kỷ 21, trước tình hình thế giới khu vực đang nhiều
chuyển biến phức tạp, với những cơ hội và thách thức đan xen nhau, nhất là đối với những
nước nghèo và chậm phát triển. Trong xu hướng toàn cầu hóa tư do hóa đầuđang diễn
ra mạnh mẽ, đặc biệt tại khu vực các nước đang phát triển thì việc cạnh tranh thu hút đầu
tư nước ngoài để phát triển kinh tế xã hội diễn ra rất gay gắt. Tình hình đó đã ảnh hưởng
rất lớn đến việc thu hút FDI của Việt Nam nói chung và của thành phố Đà Nẵng nói riêng.
Hơn nữa, hiện nay ba phần tư vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa
các nước công nghiệp phát triển. Do sự tăng cường liên kết giữa các công ty đa quốc gia
của Mỹ, Nhật, Tây Âu. Một phần tư còn chảy vào các nước đang phát triển, nhưng chủ yếu
bị hút vào các nước công nghiệp mới (NICs) hoặc vào các thị trường lớn như Trung Quốc,
Ấn Độ, Mêxicô. Chính những điều này tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ và là thách thức to
lớn đối với Việt Nam nó chung và Đà Nẵng nói riêng.
Việt Nam được xếp vào những nước an toàn về đầu tư, do tình hình chính trị ổn
định và môi trường đầu tư đang được cải thiện tích cực. Theo báo cáo đầu tư của thể giới
năm 2005 do Hội nghị thương mại và phát triển liên hiệp quốc (UNCTAD) công bố Việt
Nam được xếp vào danh sách những nước có chỉ số thực hiện đầu cao đứng thứ 18
trong số 140 quốc gia được xếp hạng; tuy nhiên về tiềm năng thu hút đầu tư nước ngoài,
Việt Nam chỉ đứng thức 68/140. Các nhà đầu tư đánh giá ngày càng thận trọng hơn, không
đầu ạt theo hướng “đón đầu” như những năm 1990 thực hiện chính sách đầu
phù hợp với tình hình kinh tế sức mua thực tế của người dân. Thực hiện từng bước tự
do hoá thương mại và đầu tư theo lộ trình AFTA, khu vực đầu ASEAN cũng được các
nhà đầu tính toán kỹ khi lựa chọn một vài địa điểm tốt nhất trong khu vực để sản xuất
hàng hoá cho cả khu vực.
3.1. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 3.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế tác động đến quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng Chúng ta bước vào thế kỷ 21, trước tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều chuyển biến phức tạp, với những cơ hội và thách thức đan xen nhau, nhất là đối với những nước nghèo và chậm phát triển. Trong xu hướng toàn cầu hóa tư do hóa đầu tư đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt tại khu vực các nước đang phát triển thì việc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế xã hội diễn ra rất gay gắt. Tình hình đó đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút FDI của Việt Nam nói chung và của thành phố Đà Nẵng nói riêng. Hơn nữa, hiện nay ba phần tư vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển. Do sự tăng cường liên kết giữa các công ty đa quốc gia của Mỹ, Nhật, Tây Âu. Một phần tư còn chảy vào các nước đang phát triển, nhưng chủ yếu bị hút vào các nước công nghiệp mới (NICs) hoặc vào các thị trường lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Mêxicô. Chính những điều này tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ và là thách thức to lớn đối với Việt Nam nó chung và Đà Nẵng nói riêng. Việt Nam được xếp vào những nước an toàn về đầu tư, do tình hình chính trị ổn định và môi trường đầu tư đang được cải thiện tích cực. Theo báo cáo đầu tư của thể giới năm 2005 do Hội nghị thương mại và phát triển liên hiệp quốc (UNCTAD) công bố Việt Nam được xếp vào danh sách những nước có chỉ số thực hiện đầu tư cao đứng thứ 18 trong số 140 quốc gia được xếp hạng; tuy nhiên về tiềm năng thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam chỉ đứng thức 68/140. Các nhà đầu tư đánh giá ngày càng thận trọng hơn, không đầu tư ồ ạt theo hướng “đón đầu” như những năm 1990 mà thực hiện chính sách đầu tư phù hợp với tình hình kinh tế và sức mua thực tế của người dân. Thực hiện từng bước tự do hoá thương mại và đầu tư theo lộ trình AFTA, khu vực đầu tư ASEAN cũng được các nhà đầu tư tính toán kỹ khi lựa chọn một vài địa điểm tốt nhất trong khu vực để sản xuất hàng hoá cho cả khu vực.
Trước bối cảnh đó nhà nước Việt Nam đã khẳng định phương hướng và nhiệm vụ
thu hút vốn FDI là “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
coi các doanh nghiệp nước ngoài một bộ phận của nền kinh tế nước ta” [4]. Theo tinh
thần đó Chính Phủ đã thực hiện nhiều biện pháp cụ thể nhằm tạo chuyển biến mới trong
công tác thu hút FDI. Hàng loạt pháp lệnh, nghị định và văn bản pháp lý được ban hành
nhằm sửa đổi những quan điểm chưa phù hợp, bổ sung và đưa ra c quy định mới làm
cho Việt Nam hấp dẫn hơn đối với đầunước ngoài như: giảm mức thuế suất thu nhập
nhân cao nhất đối với người nước ngoài; mở rộng phạm vi kinh doanh đối với các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài; chuẩn hóa việc cung ứng phát sử dụng séc
thanh toán tại Việt Nam theo thông lệ quốc tế; đơn giản hoá các thtục hành chính
tăng cường trách nhiệm của các quan quản nhà nước trong việc hỗ trợ nđầu
giải quyết các thủ tục về đất; xoá bỏ chế độ hai giá;a bỏ các hạn chế về chuyển giao
công nghệ, chuyển nhượng vốn; giảm cước điện thoại quốc tế xuống mức tương đương
với các nước trong khu vực; miễn thuế nhập khẩu một s đầu vào sản xuất cho các
doanh nghiệp mới thành lập; tinh giảm thủ tục hải quan theo chuẩn mực quốc tế; cải
tiến việc cấp, miễn thị thực; sửa đổi thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp có vốn đầu
nước ngoài; xóa bỏ hạn chế về tỷ lệ vốn FDI trong một số ngành. đặc biệto cuối
năm 2005, Việt Nam đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng nhằm cải thiện n nữa
môi trường đầu tư, kinh doanh. Trong đó hai luật liên quan trực tiếp đến doanh
nghiệp FDI, đó là Luật đầu (chung) và Luật doanh nghiệp (thống nhất). Bên cạnh đó,
Việt Nam thực hiện ký kết hiệp định Việt - Mỹ, tham gia vào các tổ chức quốc tế APEC,
AFTA và sẽ gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong năm nay. Việc tham gian
vào các tổ chức này cũng tạo ra một số thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam
nói chung và Đà Nẵng nói riêng.
Cùng với cả nước, Đà Nẵng đang trên tiến trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế
toàn cầu với ưu thế ngày càng mạnh lên của nền kinh tế tri thức. Qua 20 năm đổi mới, nhất
là từ khi Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương đến nay, bộ mặt của
thành phố thay đổi từng ngày, kinh tế - xã hội có bước phát triển nhanh, vững chắc và đạt
được những thành tựu đáng kích lệ; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không
Trước bối cảnh đó nhà nước Việt Nam đã khẳng định phương hướng và nhiệm vụ thu hút vốn FDI là “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, coi các doanh nghiệp nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế nước ta” [4]. Theo tinh thần đó Chính Phủ đã thực hiện nhiều biện pháp cụ thể nhằm tạo chuyển biến mới trong công tác thu hút FDI. Hàng loạt pháp lệnh, nghị định và văn bản pháp lý được ban hành nhằm sửa đổi những quan điểm chưa phù hợp, bổ sung và đưa ra các quy định mới làm cho Việt Nam hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài như: giảm mức thuế suất thu nhập cá nhân cao nhất đối với người nước ngoài; mở rộng phạm vi kinh doanh đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài; chuẩn hóa việc cung ứng ký phát và sử dụng séc thanh toán tại Việt Nam theo thông lệ quốc tế; đơn giản hoá các thủ tục hành chính và tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc hỗ trợ nhà đầu tư giải quyết các thủ tục về đất; xoá bỏ chế độ hai giá; xóa bỏ các hạn chế về chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng vốn; giảm cước điện thoại quốc tế xuống mức tương đương với các nước trong khu vực; miễn thuế nhập khẩu một số đầu vào sản xuất cho các doanh nghiệp mới thành lập; tinh giảm thủ tục hải quan theo chuẩn mực quốc tế; cải tiến việc cấp, miễn thị thực; sửa đổi thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; xóa bỏ hạn chế về tỷ lệ vốn FDI trong một số ngành. đặc biệt vào cuối năm 2005, Việt Nam đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh. Trong đó có hai luật liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp FDI, đó là Luật đầu tư (chung) và Luật doanh nghiệp (thống nhất). Bên cạnh đó, Việt Nam thực hiện ký kết hiệp định Việt - Mỹ, tham gia vào các tổ chức quốc tế APEC, AFTA và sẽ gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong năm nay. Việc tham gian vào các tổ chức này cũng tạo ra một số thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng. Cùng với cả nước, Đà Nẵng đang trên tiến trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu với ưu thế ngày càng mạnh lên của nền kinh tế tri thức. Qua 20 năm đổi mới, nhất là từ khi Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương đến nay, bộ mặt của thành phố thay đổi từng ngày, kinh tế - xã hội có bước phát triển nhanh, vững chắc và đạt được những thành tựu đáng kích lệ; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không
ngừng được cải thiện. Đặc biệt, trong lĩnh vực thu hút vốn đầu nước ngoài được chú
trọng, điều kiện để thúc đẩy nền kinh tế thành phố ngày càng phát triển. Nét nổi bật
trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Đà Nẵng là ngay từ đầu thành phố đã tiến hành quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xác định các định các khu, các cụm công nghiệp để đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu nước ngoài. Nhờ
đó, có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến với Đà Nẵng để làm ăn, kinh doanh vì lợi ích của
doanh nghiệp, của nhà đầu tư, của Việt Nam nói chung, Đà Nẵng nói riêng. Kết quả hoạt
động của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI trong những năm qua đã có nhiều cải
thiện và góp phần vào sự tăng trưởng chung của kinh tế Đà Nẵng, đồng thời góp phần phát
triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, chế biến thủy sản.
3.1.2. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu thu hút FDI của thành
phố Đà Nẵng trong giai đoạn 2006 -2010
Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành đô thị hiện đại, văn minh môi trường
văn hoá xã hội lành mạnh, phát triển trong thế ổn định và bền vững, giữ vai trò trung tâm
của miền Trung và Tây nguyên với cơ cấu công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, thủy
sản nông lâm trong mối quan hệ với cả nước, khu vực hành lanh Đông Tây và ASEAN.
Tạo ra sự chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tăng tỷ
trọng phát triển công nghiệp hướng mạnh vào công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu
dùng cho xuất khẩu, công nghiệp vật liệu y dựng, công nghiệp hoá chất, tăng ttrọng
dịch vụ và du lịch.
Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững
của Đà Nẵng, bảo vệ sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Gắn tăng
trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm cho người lao động,
nâng cao trình độ dân trí. Tăng cường đầu công cộng cho vùng nông thôn, miền núi,
vùng xa nhằm làm cho mức sống của tầng lớp dân cư tại thành thị và nông thôn càng cao
hơn.
Đà Nẵng phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế. Da dạng hoá các
loại hình sản xuất kinh doanh tạo ra nội lực vững mạnh và môi trường đầu thuận lợi
ngừng được cải thiện. Đặc biệt, trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài được chú trọng, là điều kiện để thúc đẩy nền kinh tế thành phố ngày càng phát triển. Nét nổi bật trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Đà Nẵng là ngay từ đầu thành phố đã tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xác định các định các khu, các cụm công nghiệp để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến với Đà Nẵng để làm ăn, kinh doanh vì lợi ích của doanh nghiệp, của nhà đầu tư, của Việt Nam nói chung, Đà Nẵng nói riêng. Kết quả hoạt động của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI trong những năm qua đã có nhiều cải thiện và góp phần vào sự tăng trưởng chung của kinh tế Đà Nẵng, đồng thời góp phần phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, chế biến thủy sản. 3.1.2. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu thu hút FDI của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 2006 -2010 Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành đô thị hiện đại, văn minh có môi trường văn hoá xã hội lành mạnh, phát triển trong thế ổn định và bền vững, giữ vai trò trung tâm của miền Trung và Tây nguyên với cơ cấu công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, thủy sản nông lâm trong mối quan hệ với cả nước, khu vực hành lanh Đông Tây và ASEAN. Tạo ra sự chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tăng tỷ trọng phát triển công nghiệp hướng mạnh vào công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng cho xuất khẩu, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp hoá chất, tăng tỷ trọng dịch vụ và du lịch. Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của Đà Nẵng, bảo vệ sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Gắn tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm cho người lao động, nâng cao trình độ dân trí. Tăng cường đầu tư công cộng cho vùng nông thôn, miền núi, vùng xa nhằm làm cho mức sống của tầng lớp dân cư tại thành thị và nông thôn càng cao hơn. Đà Nẵng phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế. Da dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh tạo ra nội lực vững mạnh và môi trường đầu tư thuận lợi
thông thoáng để thu hút vốn và công nghệ từ bên ngoài, tăng cường giao lưu kinh tế với
các tỉnh trong cả nước và quốc tế.
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển, nâng
cao trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, tham mưu chính sách, đội ngũ cán bộ quản lý
doanh nghiệp và công nhân kỹ thuật, chính sách phát triển, sử dụng nhân tài, coi trọng
ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, phát huy truyền thống văn hóa của nhân dân
Đà Nẵng và hòa nhập vào các thành phố lớn trong cả nước.
Đà Nẵng phát triển kinh tế - xã hội bền vững kết hợp chặt chẽ với việc bảo vệ quốc
phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
3.1.3. Mục tiêu thu hút FDI vào Đà Nẵng đến 2010
Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã đề ra mục tiêu tổng quát giai đoạn 2006 –
2010 như sau: “Phát huy cao độ nội lực kết hợp khai thác mọi nguồn lực bền ngoài, tận
dụng mọi thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu xây dựng Đà Nẵng
giàu về kinh tế, phát triển về văn hoá khoa học công nghệ, đảm bảo quốc phòng và an
ninh... Vươn lên xứng đán là một trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học công nghệ của miền
Trung và cả nước” [23].
Với các mục tiêu cụ thể trong giai đoạn 2006 2010 của thành phố Đà Nẵng như
sau [23]:
- Nhịp độ tăng GDP trung bình 14 – 15%
- GDP bình quân đầu người đến 2010 đạt 2000 USD.
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 22 – 23%
- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 23 - 24%/năm
- Hàng năm giải quyết việc làm cho khoảng 3,2 – 3,5 vạn lao động
Để đạt được các mục tiêu trên Đà Nẵng cần nhu cầu một lượng vốn khoảng 63.104
tỷ cho cả giai đoạn từ 2006 đến 2010, được dự báo nguồn vốn thu hút từ nước ngoài
như sau:
Bảng 3.1: Dự báo nguồn vốn thu hút đầu tư nước ngoài
giai đoạn 2006 – 2010
Chỉ tiêu Đơn vị tính Giai đoạn
thông thoáng để thu hút vốn và công nghệ từ bên ngoài, tăng cường giao lưu kinh tế với các tỉnh trong cả nước và quốc tế. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, tham mưu chính sách, đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp và công nhân kỹ thuật, có chính sách phát triển, sử dụng nhân tài, coi trọng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, phát huy truyền thống văn hóa của nhân dân Đà Nẵng và hòa nhập vào các thành phố lớn trong cả nước. Đà Nẵng phát triển kinh tế - xã hội bền vững kết hợp chặt chẽ với việc bảo vệ quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. 3.1.3. Mục tiêu thu hút FDI vào Đà Nẵng đến 2010 Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã đề ra mục tiêu tổng quát giai đoạn 2006 – 2010 như sau: “Phát huy cao độ nội lực kết hợp khai thác mọi nguồn lực bền ngoài, tận dụng mọi thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu về kinh tế, phát triển về văn hoá và khoa học công nghệ, đảm bảo quốc phòng và an ninh... Vươn lên xứng đán là một trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học công nghệ của miền Trung và cả nước” [23]. Với các mục tiêu cụ thể trong giai đoạn 2006 – 2010 của thành phố Đà Nẵng như sau [23]: - Nhịp độ tăng GDP trung bình 14 – 15% - GDP bình quân đầu người đến 2010 đạt 2000 USD. - Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 22 – 23% - Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 23 - 24%/năm - Hàng năm giải quyết việc làm cho khoảng 3,2 – 3,5 vạn lao động Để đạt được các mục tiêu trên Đà Nẵng cần nhu cầu một lượng vốn khoảng 63.104 tỷ cho cả giai đoạn từ 2006 đến 2010, và được dự báo nguồn vốn thu hút từ nước ngoài như sau: Bảng 3.1: Dự báo nguồn vốn thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010 Chỉ tiêu Đơn vị tính Giai đoạn
2006 -2010
Tổng nhu cầu đầu tư
Khả năng thu hút vốn nước ngoài
% so với tổng nhu cầu
Khả năng thu hút ODA
% so với tổng nhu cầu
Khả năng thu hút vốn FDI
%so với tổng nhu cầu
Tỷ đồng
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
63.104
30.303
48
10.543
16,7
19.760
31,3
Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế hội thành phố Đà Nẵng
giai đoạn 2006 – 2010.
Muốn thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài theo dự báo trên thì thành phố Đà
Nẵng cần phải chú ý đến một số vấn đề sau:
Một là, Đà Nẵng cần tập trung thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp,
khu chế xuất đã xây dựng sở hạ tầng, các khu vực đã được quy hoạch phát triển công
nghiệp. Tăng cường xúc tiến đầu tư. Đẩy mạnh công tác đào tạo lao động theo yêu cầu của
các dự án.
Hai là, về ngành nghề, cầu kêu gọi và ưu tiên thu hút các dự án đầu tư nước ngoài
đầu tư vào một số ngành nghề mà thành phố khuyến khích phát triển sau:
- Về công nghiệp: công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu, công nghiệp sản
xuất lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử dân dụng, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, công
nghiệp đóng sửa tàu thuyền, công nghiệp phần mềm.
- Về dịch vụ, du lịch, thương mại: kêu gọi các dự án đầu tư nước ngoài phát triển và
xây dựng mới các khu du lịch biển ven biển, các dự án về dịch vụ tài chính, tín dụng
cảng và vận tải biển.
- Về nông lâm thuỷ sản: kêu gọi các dự án sản xuất và chế biến thuỷ hải sản, nuôi
ngọc trai xuất khẩu, các dự án chế biến thức ăn gia súc, chăn nuôi gia cầm, xây dựng
xưởng đóng tàu đánh cá.
2006 -2010 Tổng nhu cầu đầu tư Khả năng thu hút vốn nước ngoài % so với tổng nhu cầu Khả năng thu hút ODA % so với tổng nhu cầu Khả năng thu hút vốn FDI %so với tổng nhu cầu Tỷ đồng Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % 63.104 30.303 48 10.543 16,7 19.760 31,3 Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2006 – 2010. Muốn thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài theo dự báo trên thì thành phố Đà Nẵng cần phải chú ý đến một số vấn đề sau: Một là, Đà Nẵng cần tập trung thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất đã xây dựng cơ sở hạ tầng, các khu vực đã được quy hoạch phát triển công nghiệp. Tăng cường xúc tiến đầu tư. Đẩy mạnh công tác đào tạo lao động theo yêu cầu của các dự án. Hai là, về ngành nghề, cầu kêu gọi và ưu tiên thu hút các dự án đầu tư nước ngoài đầu tư vào một số ngành nghề mà thành phố khuyến khích phát triển sau: - Về công nghiệp: công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu, công nghiệp sản xuất lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử dân dụng, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, công nghiệp đóng sửa tàu thuyền, công nghiệp phần mềm. - Về dịch vụ, du lịch, thương mại: kêu gọi các dự án đầu tư nước ngoài phát triển và xây dựng mới các khu du lịch biển và ven biển, các dự án về dịch vụ tài chính, tín dụng cảng và vận tải biển. - Về nông lâm thuỷ sản: kêu gọi các dự án sản xuất và chế biến thuỷ hải sản, nuôi ngọc trai xuất khẩu, các dự án chế biến thức ăn gia súc, chăn nuôi gia cầm, xây dựng xưởng đóng tàu đánh cá.
Trong danh mục dự án gọi vốn đầu trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn (2006-
2010) khoảng hơn 50 dự án với tổng vốn đầu dự kiến 1.235 triệu USD trong đó
các ngành công nghiệp dự kiến 22 dự án với tổng vốn đầu tư là 584 triệu USD. Dịch vụ -
du lịch, thương mại, văn hoá, giáo dục.. dự kiến kêu gọi tổng vốn đầu tư khoảng 621 triệu
USD cho 18 dự án. Nông lâm thuỷ sản kêu gọi đầu tư vào 12 dự án với tổng vốn đầu
khoảng 30 triệu USD.
Như vậy, trong những năm đến Thành phố Đà Nẵng định hướng thu hút và sử dụng
FDI vào các lĩnh vực công nghiệp xây dựng, du lịch, dịch vụ là chủ yếu. Đặc biệt khuyến
khích các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp hướng về xuất khẩu, các ngành công nghiệp
kỹ thuật công nghệ cao, các dự án thuộc khu du lịch ven biển, quần thể du lịch có vốn đầu
tư lớn.
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN QUẢN NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỐN ĐẦU TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIX của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã đề ra,
nâng cao năng lực điều hành và quản nhà nước về hợp tác đầu tư. Thực hiện đầy đủ
vận dụng linh hoạt các chế chính sách ưu đãi đầu hỗ trợ sản xuất kinh doanh đi
đôi với tiếp tục nghiên cứu ban hành một số cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư nhằm tạo môi
trường thông thoáng để thu hút đầu trực tiếp nước ngoài. Đà Nẵng khuyến khích tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp FDI hoạt động phát triển, hướng vào xuất khẩu, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều
việc làm, cùng với việc khai thác các nguồn lực của thành phố tạo nên sức mạnh tổng hợp
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI, Đà
Nẵng cần nắm vững nguyên tắc và có quan điểm rõ ràng, để tạo ra sự thống nhất và tránh
được nhận thức không đúng gây ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp FDI. Sau đây
là một số phương hướng cơ bản:
Trước hết, các cấp, các ngành cần hiểu một cách thống nhất các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về FDI, khẳng định nhất quán và bằng hành động cụ thể:
Trong danh mục dự án gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn (2006- 2010) có khoảng hơn 50 dự án với tổng vốn đầu tư dự kiến là 1.235 triệu USD trong đó các ngành công nghiệp dự kiến 22 dự án với tổng vốn đầu tư là 584 triệu USD. Dịch vụ - du lịch, thương mại, văn hoá, giáo dục.. dự kiến kêu gọi tổng vốn đầu tư khoảng 621 triệu USD cho 18 dự án. Nông lâm thuỷ sản kêu gọi đầu tư vào 12 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 30 triệu USD. Như vậy, trong những năm đến Thành phố Đà Nẵng định hướng thu hút và sử dụng FDI vào các lĩnh vực công nghiệp xây dựng, du lịch, dịch vụ là chủ yếu. Đặc biệt khuyến khích các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp hướng về xuất khẩu, các ngành công nghiệp kỹ thuật công nghệ cao, các dự án thuộc khu du lịch ven biển, quần thể du lịch có vốn đầu tư lớn. 3.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIX của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã đề ra, nâng cao năng lực điều hành và quản lý nhà nước về hợp tác đầu tư. Thực hiện đầy đủ và vận dụng linh hoạt các cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ sản xuất kinh doanh đi đôi với tiếp tục nghiên cứu ban hành một số cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư nhằm tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đà Nẵng khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp FDI hoạt động và phát triển, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, cùng với việc khai thác các nguồn lực của thành phố tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI, Đà Nẵng cần nắm vững nguyên tắc và có quan điểm rõ ràng, để tạo ra sự thống nhất và tránh được nhận thức không đúng gây ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp FDI. Sau đây là một số phương hướng cơ bản: Trước hết, các cấp, các ngành cần hiểu một cách thống nhất các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về FDI, khẳng định nhất quán và bằng hành động cụ thể:
kinh tế có vốn ĐTNN là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, để không có những hành vi
khác trong quá trình quản lý, gây khó khăn cho ĐTNN nói chung và hoạt động của DNFDI
nói riêng. Từ đó phải xây dựng và thực hiện cho được một hệ thống giải pháp đồng bộ về
thu hút FDI và quản lý hoạt động của DNFDI nhằm đẩy mạnh thu hút sử dụng có hiệu
quả vốn ĐTNN, với yêu cầu phải gắn ĐTNN với kế hoạch phát triển KT-XH của thành
phố, của đất nước; với quy hoạch, chuyển dịch cấu kinh tế; phát huy lợi thế so sánh,
nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, không chạy theo số lượng.
Thứ hai, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế chính sách, cấu tổ
chức bộ máy quản lý phù hợp nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và thuận lợi cho
DNFDI trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà
nước. Khắc phục khuynh hướng không coi chức năng quản lý là để phát triển KT-XH, mà
coi quản như là để quản lý, để chứng minh quyền hành của một tổ chức, thậm chí một
quyền hành của một cá nhân. Phải thực hiện tốt cơ chế “một cửa”, tạo niềm tin trong quan
hệ giữa chính quyền Đà Nẵng với các DNFDI làm cho các nhà đầu tư nước ngoài phấn
khởi, không sợ phải đối phó với những thay đổi trong một số chủ trương chính sách của
thành phố. Điều đó giúp nhà đầu tư dành được nhiều thời gian, công sức cho việc sản xuất
kinh doanh nhằm đạt được kết quả cao, có trách nhiệm hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ
của mình, như việc sử dụng lao động, việc nộp thuế, thuê mặt bằng... Đồng thời, nhà đầu
cũng sẵn sàng cùng với thành phố giải quyết những k khăn, vướng mắc trong quá
trình sản xuất, kinh doanh với ý thức và tinh thần trách nhiệm cao. Việc tạo lập một môi
trường kinh doanh thuận lợi bao gồm cả môi trường an ninh, trật tự về chính trị, hội,
môi trường pháp chế rõ ràng, môi trường kinh tế mô ổn định, môi trường đầu thông
thoáng để các DNFDI yên tâm đầu tư phát triển SX-KD. Nhưng cũng không phải vì thế mà
buông lỏng sự quản lý Nhà nước mà Đà Nẵng cũng cần phải tăng cường sự quản lý, kiểm
tra, giám sát hoạt động của DNFDI.
Thứ ba, phải thực hiện được các mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong
quan hệ hợp tác đầu tư và hội nhập quốc tế góp phần khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng
của đất nước phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Nhưng đồng thời chúng ta cũng
phải nhận thấy mặt trái của DNFDI nếu không biện pháp quản lý tốt của Nha nước,
kinh tế có vốn ĐTNN là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, để không có những hành vi khác trong quá trình quản lý, gây khó khăn cho ĐTNN nói chung và hoạt động của DNFDI nói riêng. Từ đó phải xây dựng và thực hiện cho được một hệ thống giải pháp đồng bộ về thu hút FDI và quản lý hoạt động của DNFDI nhằm đẩy mạnh thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn ĐTNN, với yêu cầu phải gắn ĐTNN với kế hoạch phát triển KT-XH của thành phố, của đất nước; với quy hoạch, chuyển dịch vơ cấu kinh tế; phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, không chạy theo số lượng. Thứ hai, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý phù hợp nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và thuận lợi cho DNFDI trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Khắc phục khuynh hướng không coi chức năng quản lý là để phát triển KT-XH, mà coi quản lý như là để quản lý, để chứng minh quyền hành của một tổ chức, thậm chí một quyền hành của một cá nhân. Phải thực hiện tốt cơ chế “một cửa”, tạo niềm tin trong quan hệ giữa chính quyền Đà Nẵng với các DNFDI làm cho các nhà đầu tư nước ngoài phấn khởi, không sợ phải đối phó với những thay đổi trong một số chủ trương chính sách của thành phố. Điều đó giúp nhà đầu tư dành được nhiều thời gian, công sức cho việc sản xuất kinh doanh nhằm đạt được kết quả cao, có trách nhiệm hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, như việc sử dụng lao động, việc nộp thuế, thuê mặt bằng... Đồng thời, nhà đầu tư cũng sẵn sàng cùng với thành phố giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình sản xuất, kinh doanh với ý thức và tinh thần trách nhiệm cao. Việc tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi bao gồm cả môi trường an ninh, trật tự về chính trị, xã hội, môi trường pháp chế rõ ràng, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường đầu tư thông thoáng để các DNFDI yên tâm đầu tư phát triển SX-KD. Nhưng cũng không phải vì thế mà buông lỏng sự quản lý Nhà nước mà Đà Nẵng cũng cần phải tăng cường sự quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của DNFDI. Thứ ba, phải thực hiện được các mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong quan hệ hợp tác đầu tư và hội nhập quốc tế góp phần khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải nhận thấy mặt trái của DNFDI nếu không có biện pháp quản lý tốt của Nha nước,