LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng
3,720
738
90
Liên doanh 27 28 26 21
100% vốn nước ngoài 14 16 17 19
2. Không gian của các dự án FDI
Ngoài khu công nghiệp 29 31 30 26
Trong khu công nghiệp 12 13 13 14
Tổng dự án FDI 41 44 43 40
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng
Các doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp vẫn chiếm phần lớn trong giai đoạn này
do các khu công nghiệp chưa phát triển và ổn định. Tính đến năm 2000 trên địa
bàn thành
phố mới chỉ có 3 khu công nghiệp (Đà Nẵng, Hoà Khánh và Liên Chiểu) đa số các dự
án
nằm trong khu công nghiệp là các dự án trong nước (50 dự án) chiếm 78,13% các dự
án
đầu tư. Còn có sự phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tiền
thuê mặt
bằng của các dự án đầu tư nước ngoài còn cao hơn nhiều so với các dự án trong
nước, hơn
nữa các thủ tục đầu tư vào khu công nghiệp còn rườm rà, tiền thuê đất còn cao
hơn so với
các thành phố khác trong nước. Nhưng theo thời gian số lượng các dự án đầu tư
vào khu
công nghiệp tăng lên. Do các chính sách, thủ tục về thu hút đầu tư nước ngoài
ngày càng
được cải thiện, sự phân biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước ngày
càng giảm.
Mặt khác cơ sở hạ tầng của các khu công nghiệp từng bước được cải thiện theo
thời gian.
c) Cơ cấu theo ngành nghề đầu tư của các dự án FDI (bảng 2.4)
Bảng 2.4: Cơ cấu theo ngành nghề đầu tư của dự án FDI
ĐVT: Dự án
1997 1998 1999 2000
Sản xuất công nghiệp, xây dựng và kinh
doanh cơ sở
21 23 24 26
Dịch vụ khách sạn – nhà hàng, vận tải
9 9 8 6
công cộng
Nuôi trồng chế biến
Nông – Lâm - Thủy hải sản
11 12 11 8
Tổng số dự án 41 44 43 40
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng
Cơ cấu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng phù hợp với mục tiêu và
định
hướng đặt ra của thành phố là tăng cường tỷ trọng đầu tư vào công nghiệp và cơ
sở hạ
tầng, thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng ngày càng tăng nếu như năm 1997 ngành sản
xuất
công nghiệp chiếm 51,2% về số dự án thì tới năm 2000 đã tăng lên 65%. Tuy nhiên
trong
giai đoạn này thế mạnh của Đà Nẵng về du lịch chưa được khai thác đúng tiềm năng
của
thành phố, trong giai đoạn này không có một dự án nào đầu tư vào lĩnh vực du
lịch. Các nhà
đầu tư đến thành phố để khai thác tiềm năng du lịch và tìm kiếm cơ hội đầu tư
đối với lĩnh vực
có tính hấp dẫn này nhưng vào thời điểm đó, thị trường về lĩnh vực này đang bị
bão hòa do đó
họ quyết định không đầu tư.
Do cơ sở hạ tầng của thành phố trong thời kỳ này kém nên chưa hấp dẫn việc thu
hút các dự án về vận tải công cộng. Trong suốt giai đoạn chỉ có một dự án đầu tư
vào lĩnh
vực này đó là công ty liên doanh vận tải hành khách công cộng Đà Nẵng – Kogyo
với 70%
vốn thuộc bên Nhật Bản. Bên cạnh đó các dự án đầu tư vào ngành nghề nuôi trồng
chế
biến nông lâm thủy hải sản cũng chững lại và có xu hướng giảm dần. Mặc dù UBND
thành
phố Đà Nẵng rất khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này.
Vì đây
cũng là một trong những lĩnh vực thế mạnh của Đà Nẵng.
d) Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo quốc gia đầu tư
Bảng 2.5: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quốc gia
vùng lãnh thổ vào Đà Nẵng (12/2000)
ĐVT: USD
Quốc gia vùng lãnh thổ Số dự án Tổng vốn đầu tư
Malaysia 07 145.495.000
Hồng Kông 03 71.415.190
Úc 03 29.545.000
Đài Loan 08 27.457.000
Singapo 01 25.000.000
Anh 01 19.442.000
Italia 02 18.500.000
Nhật 05 16.350.000
Trung Quốc 04 9.280.000
Thái Lan 02 4.320.000
Pháp 02 2.900.593
Nga 02 1.441.000
Tổng cộng 40 371.145.783
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng
Số lượng các quốc gia tham gia đầu tư vào Đà Nẵng trong giai đoạn 1997 đến
2000 còn khiêm tốn. Đến cuối năm 2000 mới chỉ có 12 quốc gia đầu tư vào thành
phố
và đa số vẫn là các nước thuộc khu vực Châu Á. Các nước này không chỉ chiếm phần
lớn về dự án mà còn cả về vốn đầu tư. Dẫn đầu giai đoạn 1997 đến 2000 về vốn đầu
tư
là Malaysia 36.589.510 USD thời gian hoạt động 50 năm, xí nghiệp trách nhiệm hữu
hạn SINARA vốn đầu tư 25.045.500 USD thời gian hoạt động 20 năm... Các nước
Châu Âu đầu tư vào thành phố còn khiêm tốn, đặc biệt trong giai đoạn này chưa có
nước nào thuộc Châu Mỹ đầu tư vào Đà Nẵng, do việc quảng bá về thành phố Đà Nẵng
còn hạn chế.
Chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư nước ngoài của Đà Nẵng chưa thông thoáng,
thị trường chưa hấp dẫn các nhà đầu tư nhất là trong lĩnh vực du lịch - dịch vụ,
do sức mua
tại thị trường còn thấp.
2.1.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2001 – 2005
a) Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (bảng 2.6)
Sau thời kỳ đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục giảm sút (giai đoạn 1997 –
2000), từ năm 2001, với những cải cách mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam về môi
trường đầu tư. Đồng thời được sự quan tâm của Thành ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, môi trường đầu tư vào Đà Nẵng ngày càng được
cải thiện, công tác tổ chức thu hút đầu tư Đà Nẵng và quản lý các dự án ngày
càng
đi vào nề nếp. Sự ra đời của Trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng cùng với việc ban
hành những chính sách ưu đãi đầu tư thông thoáng của thành phố, hoạt đông thu
hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng đã có những bước chuyển biến tích cực và
đã đạt được một số kết quả nhất định.
Bảng 2.6: Đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2001 – 2005
ĐVT 2001 2002 2003 2004 2005
Số dự
án mới
Dự án
6 8 12 9 18
Vốn đầu tư
USD 13.034.000 51.860.000 75.230.000
54.857.000
0
105.500.00
0
Tổng vốn đầu
tư lũy kế
USD 230.805.690
264.365.690
338.971.69
0
397.394.24
0
506.449.76
9
Vốn pháp
định lũy kế
USD 98.196.035
1117.315.05
7
140.334.06
7
159.610.61
7
228.409.50
3
Vốn thực hiện
lũy kế
USD 144.178.994
150.961.144
155.598.75
6
156.827.50
2
191.045.37
5
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng
Hơn nữa trong giai đoạn này các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư thuộc khu vực
Châu Á đã dần khôi phục sau suộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Nhờ đầu
tư
trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới với tổng vốn đầu tư là 300.481.000 USD,
cụ thể
như sau:
Năm 2001, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Đà Nẵng đã bắt đầu phục hồi, nếu như
trong giai đoạn năm 1997 đến 2000 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ
nên
chỉ thu hút được trung bình mỗi năm 3,5 dự án mới thì trong giai đoạn từ 2001
đến 2005
bình quân mỗi năm thu hút được 10,6 dự án, gấp hơn 3 lần so với giai đoạn trước.
Năm
2001 số dự án cấp phép mới bằng 300% so với năm 2000. Đánh dấu bước khởi đầu của
giai đoạn mới, giai đoạn khôi phục và phát triển tiềm năng của Đà Nẵng.
Nếu như trong giai đoạn 1997 đến 2000 số dự án được cấp phép mới liên tục giảm,
thì trong giai đoạn 2001 đến 2005 ta có thể thấy một xu hướng biến động hoàn
toàn khác.
Số dự án được cấp phép mới liên tục tăng qua các năm, tốc độ tăng trung bình là
39,59%/năm, cao hơn tốc độ tăng chung của cả nước (tốc độc tăng của cả nước tư
2001
đến 2005 là 33,7%/năm). Năm 2005 là năm thành công nhất trong việc thu hút FDI
từ
trước đến nay, trong năm Đà Nẵng thu thút được 18 dự án chiếm 22% tổng số dự án
hiện
có, đặc biệt trong đó có 2 dự án lớn chiếm trên 50% lượng vốn đầu tư trong năm
(dự án
Mabuchi Motor Đà Nẵng vốn đầu tư 39.900.000USD và dự án Metro Cash & Cary Việt
Nam vốn đầu tư 15.000.000 USD), đồng thời đưa Đà Nẵng lên đứng thứ 11 về số dự
án và
đứng thứ 12 về vốn đầu tư trên toàn quốc (không kể dầu khí) tăng bậc so với năm
2004
(năm 2004 Đà Nẵng đứng ví trí 15).
Cho tới cuối năm 2000 Đà Nẵng đứng thứ 19 trong cả nước về số vốn đầu tư nước
ngoài, đến nay thành phố đã vươn lên đứng thứ 12 (không kể dầu khí). Kết quả đó
cho
thấy sự phấn đấu không ngừng của các sở ban ngành của Đà Nẵng trong công tác đối
ngoại. Điều đó được biểu hiện qua việc hàng năm thành phố chỉ đạo các ngành liên
quan
lập dự án gọi vốn, lên danh mục dự án gửi đến các doanh nghiệp, các tập đoàn lớn
của
nước ngoài. Giới thiệu, thu hút các nhà đầu tư vào các dự án đã được thiết lập
trên cơ sở
căn cứ qui hoạch tổng thể của thành phố Đà Nẵng đến năm 2010 đã được Chính phủ
phê
duyệt. Đồng thời Đà Nẵng đã vận dụng những cơ chế, chính sách một cách linh hoạt
nhằm
tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư vào thành phố, trên cơ sở Luật đầu tư
và các
Nghị định của Chính phủ như Nghị định 24/2000/NĐ-CP, Nghị định 27/2003/NĐ-CP.
Ngoài ra Đà Nẵng còn ban hành Quyết định số 92/2005/QĐ-UB về ban hành một số
chính
sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó,
việc
phân cấp, ủy quyền cấp giấy phép đã được Đà Nẵng thực hiện một cách nghiên túc
và
đúng luật pháp. Việc phân cấp, ủy quyền đã tạo thuận lợi cho địa phương chủ động
ban
hành danh mục các dự án gọi vốn FDI phù hợp với qui hoạch phát triển kinh tế xã
hội của
Đà Nẵng.
Lượng vốn đầu tư cũng tăng cùng với số dự án, tổng lượng vốn đầu tư thu hút
trong
giai đoạn năm 2001 đến 2005 là 300.481.000 USD trung bình mỗi năm thu hút được
60.096.200 USD đứng đầu trong khu vực miền Trung và Tây nguyên. Riêng năm 2005
lượng vốn thu hút của Đà Nẵng vươn lên đứng thứ 5 trên cả nước.
Tuy nhiên, vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp FDI tại Đà Nẵng trong
những năm gầy đây tăng không đáng kể. Vốn đầu tư thực hiện bình quân giai đoạn
2001
đến 2005 tăng 5 triệu USD/năm và có tốc độ tăng chậm hơn so với tăng vốn đầu tư
của các
thành phần kinh tế khác và tốc độ tăng vốn đầu tư chung của xã hội.
Lượng vốn đầu tư nước ngoài đã bổ sung một phần quan trọng vào tổng vốn đầu tư
phát triển của Đà Nẵng trong điều kiện nguồn vốn tích lũy nội bộ thành phố còn
hạn hẹp.
b) Tình hình rút giấy phép (bảng 2.7)
Bảng 2.7: Tình hình rút giấy phép của các dự án FDI
ĐVT 2001 2002 2003 2004 2005
Số dự án rút Dự án 2 3 2 1 3
Vốn đầu tư Triệu USD 11,9 17,2 27 15,4 29,5
Vốn pháp định Triệu USD 4,7 5,4 11,5 7,2 15,8
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng
Trong giai đoạn từ 2001 đến 2005 số dự án rút giấy phép bình quân 2,2 dự
án/năm, giảm 2,2% so với giai đoạn 1997 đến 2000. Song so sánh nó với lượng dự
án
trung bình thu hút được vào Đà Nẵng là 10,6 dự án/năm, thì đây vẫn là một con số
khá
cao. Số lượng dự án bị rút giấy phép duy trì ở mức cao đồng thời có xu hướng
tăng
trong những năm gần đây. Các dự án này kéo theo lượng vốn đầu tư bị giải thể
trước
thời hạn cũng không ngừng tăng theo. Cụ thể nếu trong giai đoạn 1997 đến 2000
lượng
vốn đầu tư bị giải thể là 60,5 triệu USD thì giai đoạn năm 2001 đến 2005 lượng
vốn lên
tới 101 triệu USD. Việc giải thể, rút giấy phép đầu tư của các dự án trong giai
đoạn
năm 2001 đến 2005 là một bằng chứng rõ nét cho thấy hiệu quả hoạt động yếu kém
của
các dự án.
Qua đó nó cũng phản ánh một điều là các nhà đầu tư chưa xem xét kỹ thị trường
tiêu thụ
sản phẩm đối tác làm ăn hoặc thị hiếu khách hành tiềm năng, những nhân tố này
tác động rất lớn
đến kết quả sản xuất kinh doanh của các dự án.
c) Cơ cấu theo hình thức đầu tư các dự án FDI (bảng 2.8)
Nếu trong giai đoạn năm 1997 đến 2000 số dự án liên doanh chiếm đa số trong tổng
số dự án, thì trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2005 đại đa số các nhà đầu tư nước
ngoài
chọn hình thức 100% vốn nước ngoài. Nguyên nhân là do hình thức liên doanh
thường là
liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước và chủ yếu là các dự án thuộc các ngành
chủ
chốt cần vốn lớn đòi hỏi nhà đầu tư phải có tiềm lực tài chính mạnh, nhưng xu
thế hiện nay
đầu tư nước ngoài không chỉ gói gọn trong một số lĩnh vực như trước đây mà các
lĩnh vực
kinh doanh ngày càng được mở rộng, hơn nữa các dự án liên doanh thường làm ăn
không
hiệu quả nhất là liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác có một số dự
án liên
doanh chủ đầu tư nước ngoài đã thực hiện một số chiến lược kinh doanh tốn nhiều
chi phí
khiến bên Việt Nam không đủ khả năng tài chính phải chuyển thành doanh nghiệp
100%
vốn nước ngoài.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và chi nhánh sản xuất trên địa bàn Đà
Nẵng trong những năm gần đây có tăng song tăng không đáng kể và vẫn còn mang
tính
chất nhỏ lẻ.
Bảng 2.8: Cơ cấu theo hình thức đầu tư các dự án FDI
ĐVT: Dự án
2001 2002 2003 2004 2005
1. Hình thức FDI
Liên doanh 21 21 24 25 26
100% Vốn nước ngoài 25 28 29 36 48
HĐHT kinh doanh 1 2 3
Chi nhánh sản xuất 1 2 2 4 5
2. Không gian của các dự án
Ngoài khu công nghiệp 27 29 31 36 42
Trong khu công nghiệp 20 22 25 31 40
Tổng số dự án 47 51 56 67 82
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng.
Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp không ngừng tăng qua các năm. Khoảng
cách về số dự án đầu tư trong khu công nghiệp vào ngoài khu công nghiệp được thu
hẹp
dần. Tốc độ tăng bình quân số dự án vào khu công nghiệp là 9,785 năm cao hơn hẳn
so với
tốc độ tăng khu vực ngoài khu công nghiệp (8,1%/năm). Do các khu công nghiệp
trên địa
bàn thành phố ngày càng được quan tâm trong việc ưu đãi... Trên địa bàn Đà Nẵng
hiện có
5 khu công nghiệp, chế xuất và một số cụm công nghiệp tập trung khác. Ngoài khu
công
nghiệp Đà Nẵng do công ty Massda (liên doanh Đà Nẵng với Malaisia), thành phố
vận
dụng cơ chế linh hoạt, giao cho công ty phát triển cơ sở hạ tầng trực thuộc khu
công
nghiệp Đà Nẵng tổ chức giải phóng mặt bằng. Đầu tư cơ sở hạ tầng tại các khu
công
nghiệp Đà Nẵng bằng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và vay từ các tổ chức tín
dụng
khác. Việc vận dụng này đã có hiệu quả nhất định, các khu công nghiệp được đầu
tư tương
đối hoàn chỉnh, doanh nghiệp đăng ký ngày càng nhiều. Một số các khu công nghiệp
như
Hoà Khánh phải mở rộng giai đoạn 2 để đáp ứng nhu cầu thuê đất sản xuất ngày
càng
nhiều của các doanh nghiệp.
d) Cơ cấu theo ngành nghề đầu tư các dự án FDI (bảng 2.9)
Bảng 2.9: Cơ cấu theo ngành nghề đầu tư các dự án FDI tại Đà Nẵng
ĐVT: Dự án
2001 2002 2003 2004 2005
Công nghiệp – Xây dựng 30 33 35 41 46
Du lịch - Dịch vụ 8 9 11 18
Nuôi trồng chế biến
Nông – Lâm - Thủy sản
9 9 10 18
Tổng số dự án 47 51 56 67 82
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng
e) Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo quốc gia đầu tư
Bảng 2.10: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quốc gia
vùng lãnh thổ vào Đà Nẵng (30/12/2005)
ĐVT: USD
Quốc gia lãnh thổ Số dự án Tổng vốn đầu tư
Trung Quốc (Hong Kong) 10 87.490.000
Nhật Bản 11 83.131.713
Đài Loan 15 59.899.400
Hoa Kỳ 05 59.293.000
Hàn Quốc 08 56.808.450
Singapore 03 56.000.000
Australia 03 52.025.000
Malaysia 07 44.842.010
Hà Lan 01 15.000.000
Bahamas 02 13.500.000
British Virgin Islands 03 6.000.000
Pháp 03 4.061.583
Thái Lan 02 4.000.000
Nam tư 01 1.580.000
Israel 01 1.150.000
Canada 01 1.000.000
Luxembourg 01 600.000
Đan Mạch 01 400.000
Nga 01 169.413
Italia 02 100.000
Rumani 01 40.000
Tổng cộng 82 506.449.769
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng