LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng

3,675
738
90
năm 1988, luật nghiệp hợp tác kinh doanh được ban hành đã cải thiện đáng kể môi
trường đầu tư. Năm 2000 và 2001, Trung Quốc đã sửa đổi một cách cơ bản luật về doanh
nghiệp 100% vốn đầu nước ngoài và các doanh nghiệp vốn cổ phần nước ngoài.
Theo những sửa đổi này, Trung Quốc đã bãi bỏ những yêu cầu về cân đối ngoại tệ, về tỷ lệ
nội địa hoá, bỏ hoặc sửa đổi yêu cầu về công nghệ hiện đại và tỷ lệ xuất khẩu; sửa đổi quy
định mua nguyên vật liệu trong nước. Cho đến nay, Nhà nước Trung Quốc đã ban hành
trên 500 văn bản gồm các bộ luật và văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động thương mại
đầu nước ngoài. Hệ thống luật pháp được Nhà nước Trung Quốc xây dựng trên
nguyên tắc “Bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng tập quán quốc tế”, đã tạo được môi trường
kinh doanh thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, việc gia nhập WTO đảm bảo cho Trung Quốc thực hiện những cam
kết về tự do hoá thương mại đầu tư. Trung Quốc mở rộng đáng kể đường tiếp cận thị
trường, đặc biệt là trong các ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ, loại bỏ những hạn chế về địa lý
các hạn chế khác trong các ngành then chốt, đồng thời tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài
trong ngành viễn thông, phân phối và bán lẻ, chứng khoán, thực hiện chế độ đối xử quốc
gia đầy đủ đối với các ngân hàng nước ngoài.
Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện rất nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: Chính sách tăng cường ưu đãi về thuế cho doanh
nghiệp FDI, giảm các loại thuế xuất nhập khẩu, thuế đất và đối xử ưu đãi trong các dịch vụ
về kết cấu hạ tầng, tạo ra môi trường đầu hấp dẫn các nhà đầu nước ngoài. Nhờ
những quy định khuyến khích đầu được ban hành, thủ tục thẩm định liên doanh được
đơn giản hoá dần dần và cải thiện rất nhanh chóng môi trường đầu tư, Trung Quốc đang
trở thành "thách thức" đối với cả thế giới trong cuộc đua tranh quyết liệt về thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, tăng cường phân cấp thẩm định, cấp phép,
kiểm tra, giám sát hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài. Trung Quốc đã tăng cường
sự minh bạch môi trường pháp lý, giảm bớt sự kiểm tra của Chính phủ, đảm bảo về pháp
lý và ổn định chính trị để đẩy nhanh quá trình thành lập các doanh nghiệp FDI.
năm 1988, luật xí nghiệp hợp tác kinh doanh được ban hành đã cải thiện đáng kể môi trường đầu tư. Năm 2000 và 2001, Trung Quốc đã sửa đổi một cách cơ bản luật về doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp có vốn cổ phần nước ngoài. Theo những sửa đổi này, Trung Quốc đã bãi bỏ những yêu cầu về cân đối ngoại tệ, về tỷ lệ nội địa hoá, bỏ hoặc sửa đổi yêu cầu về công nghệ hiện đại và tỷ lệ xuất khẩu; sửa đổi quy định mua nguyên vật liệu trong nước. Cho đến nay, Nhà nước Trung Quốc đã ban hành trên 500 văn bản gồm các bộ luật và văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động thương mại và đầu tư nước ngoài. Hệ thống luật pháp được Nhà nước Trung Quốc xây dựng trên nguyên tắc “Bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng tập quán quốc tế”, đã tạo được môi trường kinh doanh thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, việc gia nhập WTO đảm bảo cho Trung Quốc thực hiện những cam kết về tự do hoá thương mại và đầu tư. Trung Quốc mở rộng đáng kể đường tiếp cận thị trường, đặc biệt là trong các ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ, loại bỏ những hạn chế về địa lý và các hạn chế khác trong các ngành then chốt, đồng thời tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong ngành viễn thông, phân phối và bán lẻ, chứng khoán, thực hiện chế độ đối xử quốc gia đầy đủ đối với các ngân hàng nước ngoài. Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện rất nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: Chính sách tăng cường ưu đãi về thuế cho doanh nghiệp FDI, giảm các loại thuế xuất nhập khẩu, thuế đất và đối xử ưu đãi trong các dịch vụ về kết cấu hạ tầng, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ những quy định khuyến khích đầu tư được ban hành, thủ tục thẩm định liên doanh được đơn giản hoá dần dần và cải thiện rất nhanh chóng môi trường đầu tư, Trung Quốc đang trở thành "thách thức" đối với cả thế giới trong cuộc đua tranh quyết liệt về thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, tăng cường phân cấp thẩm định, cấp phép, kiểm tra, giám sát hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài. Trung Quốc đã tăng cường sự minh bạch môi trường pháp lý, giảm bớt sự kiểm tra của Chính phủ, đảm bảo về pháp lý và ổn định chính trị để đẩy nhanh quá trình thành lập các doanh nghiệp FDI.
Về cải cách thủ tục hành chính, Trung Quốc thực hiện chế độ phân việc ra quyết
định đầu tư cho các tỉnh, thành phố, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư về thời
gian và chi phí trong việc làm thủ tục xin đầu tư.
Phát triển kết cấu hạ tầng. Để đáp ứng mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu
nước ngoài về hệ thống giao thông, thông tin, Trung Quốc đã dành nhiều nỗ lực và phát
triển khá nhanh hệ thống đường, điện, nước và chuẩn bị sẵn mặt bằng theo đúng yêu cầu
của nhà đầu tư... Chú trọng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở các vùng kém phát triển của
đất nước để thu hút FDI.
1.3.2.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Chính phủ Thái Lan đã tiến hành một loạt các biện pháp để tăng cường quản lý nhà
nước đối với hoạt động FDI, như sau:
Bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài của Thái Lan rất gọn nhẹ và tập trung, đó là Ủy
ban đầu quan duy nhất trực tiếp giải quyết giúp đỡ các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài, nên đã tránh được thủ tục phiền hà, tốn kém, tiết kiệm thời gian cho doanh
nghiệp FDI.
Ủy ban đầu Thái Lan đẩy mạnh c hoạt động xúc tiến đầu tư. Tạo sự chú ý
của các nhà đầu nước ngoài thông qua hình thức quảng o trên các phương tiện
thông tin đại chúng tổ chức các hội thảo cung cấp thông tin về cơ hội đầu tư. Đặc
biệt, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước Đông Nam Á, Ủy
ban đầu tư Thái Lan đã tiến nh một chiến dịch xây dựng nh tượng kéo dài 6 tháng
với vốn ngân ch 3 triệu USD nhằm chứng minh sự nghiêm c của Chính phủ Thái
Lan trong việc giải quyết các khó khăn về kinh tế và đẩy mạnh xúc tiến FDI.
Tạo điều kiện cung cấp các dịch vụ cho nhà đầu tư nước ngoài một cách thuận lợi
nhất, như xây dựng các website cung cấp các loại thông tin, thành lập trung tâm dịch vụ đầu
cung cấp các dịch vụ tư vấn, tổ chức gặp gỡ với các nhà đầu tư nước ngoài đang đầu tư ở Thái
Lan để kêu gọi vốn đầu tư...
Ban hành các chính sách miễn thuế thu nhập tự do hoá lĩnh vực tài chính. Các
dự án xuất khẩu tối thiểu 80% sản phẩm hoặc hoạt động trong khu công nghiệp thuộc khu
vực I được miễn thuế thu nhập trong 3 năm, từ 3 – 7 năm đối với các dự án trong khu công
Về cải cách thủ tục hành chính, Trung Quốc thực hiện chế độ phân việc ra quyết định đầu tư cho các tỉnh, thành phố, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư về thời gian và chi phí trong việc làm thủ tục xin đầu tư. Phát triển kết cấu hạ tầng. Để đáp ứng mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài về hệ thống giao thông, thông tin, Trung Quốc đã dành nhiều nỗ lực và phát triển khá nhanh hệ thống đường, điện, nước và chuẩn bị sẵn mặt bằng theo đúng yêu cầu của nhà đầu tư... Chú trọng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở các vùng kém phát triển của đất nước để thu hút FDI. 1.3.2.2. Kinh nghiệm của Thái Lan Chính phủ Thái Lan đã tiến hành một loạt các biện pháp để tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI, như sau: Bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài của Thái Lan rất gọn nhẹ và tập trung, đó là Ủy ban đầu tư là cơ quan duy nhất trực tiếp giải quyết và giúp đỡ các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nên đã tránh được thủ tục phiền hà, tốn kém, tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp FDI. Ủy ban đầu tư Thái Lan đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư. Tạo sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài thông qua hình thức quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và tổ chức các hội thảo cung cấp thông tin về cơ hội đầu tư. Đặc biệt, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước Đông Nam Á, Ủy ban đầu tư Thái Lan đã tiến hành một chiến dịch xây dựng hình tượng kéo dài 6 tháng với vốn ngân sách 3 triệu USD nhằm chứng minh sự nghiêm túc của Chính phủ Thái Lan trong việc giải quyết các khó khăn về kinh tế và đẩy mạnh xúc tiến FDI. Tạo điều kiện cung cấp các dịch vụ cho nhà đầu tư nước ngoài một cách thuận lợi nhất, như xây dựng các website cung cấp các loại thông tin, thành lập trung tâm dịch vụ đầu tư cung cấp các dịch vụ tư vấn, tổ chức gặp gỡ với các nhà đầu tư nước ngoài đang đầu tư ở Thái Lan để kêu gọi vốn đầu tư... Ban hành các chính sách miễn thuế thu nhập và tự do hoá lĩnh vực tài chính. Các dự án xuất khẩu tối thiểu 80% sản phẩm hoặc hoạt động trong khu công nghiệp thuộc khu vực I được miễn thuế thu nhập trong 3 năm, từ 3 – 7 năm đối với các dự án trong khu công
nghiệp khu vực II, 8 năm và giảm thuế tối đa là 50% trong 5 năm tiếp theo đối với các dự
án trong khu công nghiệp thuộc khu vực III,... Trong vòng 10 năm, các nhà đầu nước
ngoài có quyền mua lại 100% vốn của ngân hàng Thái Lan và sau thời hạn các nhà đầu tư
được phép sở hữu 49% cổ phần của các thể chế tài chính.
1.3.3. Những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn của Đà Nẵng
Từ những kinh nghiệm trên có thể rút ra các bài học kinh nghiệm sau đây vận dụng
vào thực tiễn Đà Nẵng.
Một là, xây dựng bộ máy quản nhà nước đối với doanh nghiệp FDI theo hướng
tập trung, gọn nhẹ, để tiến hành quản lý đồng bộ các vấn đề có liên quan đến doanh nghiệp
FDI từ khâu được thành lập, cấp giấy phép đầu tư cho đến các giai đoạn quản sau cấp
phép. Nếu bộ máy quản lý bị phân tán, không được thống nhất, quá nhiều đầu mối dẫn tới
chồng chéo, kéo dài thời gian gây trở ngại đến hoạt động của doanh nghiệp FDI.
Hai là, cần mở rộng lĩnh vực địa bàn thu hút đầu trực tiếp nước ngoài từng
bước theo hoạch định chiến lược, quy hoạch vùng lĩnh vực thu hút FDI. Đồng thời
khuyến khích nhiều loại hình đầu tư khác nhau vào các khu công nghiệp của Đà Nẵng.
Ba là, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, thông qua hình thức quảng cáo trên các
phương tiện thông tin đại chúng và tổ chức các hội thảo cung cấp thông tin về cơ hội đầu
tư để thu hút doanh nghiệp FDI.
Bốn là, chú trọng công tác đào tạo nghề, hướng nghiệp cho người lao động. Truyền
đạt những quy định của Bộ luật lao động cho người lao động giúp các doanh nghiệp
FDI tuyển dụng lao động.
Năm là, cần tăng cường cải thiện kết cấu hạ tầng và từng bước hoàn chỉnh hệ thống
cung cấp các loại dịch vụ cho hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm tăng sức hấp
dẫn của Đà Nẵng đối với doanh nghiệp FDI.
nghiệp khu vực II, 8 năm và giảm thuế tối đa là 50% trong 5 năm tiếp theo đối với các dự án trong khu công nghiệp thuộc khu vực III,... Trong vòng 10 năm, các nhà đầu tư nước ngoài có quyền mua lại 100% vốn của ngân hàng Thái Lan và sau thời hạn các nhà đầu tư được phép sở hữu 49% cổ phần của các thể chế tài chính. 1.3.3. Những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn của Đà Nẵng Từ những kinh nghiệm trên có thể rút ra các bài học kinh nghiệm sau đây vận dụng vào thực tiễn Đà Nẵng. Một là, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI theo hướng tập trung, gọn nhẹ, để tiến hành quản lý đồng bộ các vấn đề có liên quan đến doanh nghiệp FDI từ khâu được thành lập, cấp giấy phép đầu tư cho đến các giai đoạn quản lý sau cấp phép. Nếu bộ máy quản lý bị phân tán, không được thống nhất, quá nhiều đầu mối dẫn tới chồng chéo, kéo dài thời gian gây trở ngại đến hoạt động của doanh nghiệp FDI. Hai là, cần mở rộng lĩnh vực và địa bàn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từng bước theo hoạch định chiến lược, quy hoạch vùng và lĩnh vực thu hút FDI. Đồng thời khuyến khích nhiều loại hình đầu tư khác nhau vào các khu công nghiệp của Đà Nẵng. Ba là, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, thông qua hình thức quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và tổ chức các hội thảo cung cấp thông tin về cơ hội đầu tư để thu hút doanh nghiệp FDI. Bốn là, chú trọng công tác đào tạo nghề, hướng nghiệp cho người lao động. Truyền đạt những quy định của Bộ luật lao động cho người lao động và giúp các doanh nghiệp FDI tuyển dụng lao động. Năm là, cần tăng cường cải thiện kết cấu hạ tầng và từng bước hoàn chỉnh hệ thống cung cấp các loại dịch vụ cho hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm tăng sức hấp dẫn của Đà Nẵng đối với doanh nghiệp FDI.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG
2.1. THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỐN ĐẦU TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1.1. Ki ợc điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội thành phĐà Nẵng
Đà Nẵng nằm ở trong vùng duyên hải của đất nước, trên trục giao thông Bắc - Nam
về đường bộ, đường sắt, đường biển đường hàng không, chỉ cách Thủ đô Nội
764km về phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía Nam. Ngoài ra, Đà
Nẵng còn trung điểm của 3 di sản văn hoá thế giới nổi tiếng là cố đô Huế, Phố cổ Hội
An và Thánh địa Mỹ Sơn. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, Đà Nẵng là một trong những
cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên các nước Lào, Campuchia, Thái Lan,
Myanma đến các nước vùng Đông Bắc Á thông qua Hành lang kinh tế Đông Tây với điểm kết
thúc là Cảng biển Tiên Sa. Nằm ngay trên một trong những tuyến đường biển và đường hàng
không quốc tế. Đà Nẵng có một vị trí đặc biệt thuận lợi và sẽ có nhiều tiềm năng, cơ hội để tạo
ra môi trường tốt cho thu hút đầu tư nước ngoài.
Từ năm 1997, Đà Nẵng trở thành một thành phố trực thuộc Trung ương được
xác định là một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học công nghệ của miền
Trung và cả nước; với mức tăng trưởng kinh tế liên tục và khá ổn định gắn liền với các mặt
tiến bộ trong đời sống hội, kết cấu hạ tầng phát triển, đô thị được chỉnh trang, tốc độ
tăng GDP bình quân trong năm 2001 đến 2005 13%. cấu kinh tế của thành phố
chuyển dịch theo hướng tích cực, ngành công nghiệp xây dựng chiếm tỉ trọng 48,2%;
ngành dịch vụ 46,1%; ngành nông – lâm nghiệp - thủy sản 5,7%.
Đà Nẵng là trung tâm công nghiệp của khu vực miền Trung. Hiện hơn 4200
sở công nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang hoạt động tại thành phố. Giá trị sản xuất
công nghiệp năm 2005 đạt 8.542 tỉ đồng, tăng 20,2% so với năm 2004. Các sản phẩm công
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 2.1. THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 2.1.1. Khái lược điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng Đà Nẵng nằm ở trong vùng duyên hải của đất nước, trên trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, chỉ cách Thủ đô Hà Nội 764km về phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía Nam. Ngoài ra, Đà Nẵng còn là trung điểm của 3 di sản văn hoá thế giới nổi tiếng là cố đô Huế, Phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các nước vùng Đông Bắc Á thông qua Hành lang kinh tế Đông Tây với điểm kết thúc là Cảng biển Tiên Sa. Nằm ngay trên một trong những tuyến đường biển và đường hàng không quốc tế. Đà Nẵng có một vị trí đặc biệt thuận lợi và sẽ có nhiều tiềm năng, cơ hội để tạo ra môi trường tốt cho thu hút đầu tư nước ngoài. Từ năm 1997, Đà Nẵng trở thành một thành phố trực thuộc Trung ương và được xác định là một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học và công nghệ của miền Trung và cả nước; với mức tăng trưởng kinh tế liên tục và khá ổn định gắn liền với các mặt tiến bộ trong đời sống xã hội, kết cấu hạ tầng phát triển, đô thị được chỉnh trang, tốc độ tăng GDP bình quân trong năm 2001 đến 2005 là 13%. Cơ cấu kinh tế của thành phố chuyển dịch theo hướng tích cực, ngành công nghiệp – xây dựng chiếm tỉ trọng 48,2%; ngành dịch vụ 46,1%; ngành nông – lâm nghiệp - thủy sản 5,7%. Đà Nẵng là trung tâm công nghiệp của khu vực miền Trung. Hiện có hơn 4200 cơ sở công nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang hoạt động tại thành phố. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 đạt 8.542 tỉ đồng, tăng 20,2% so với năm 2004. Các sản phẩm công
nghiệp chủ yếu gồm dệt may, giày dép, thủy hải sản, hoá chất, khí, vật liệu xây dựng...
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Đà Nẵng qua các năm không ngừng tăng lên với tỉ lệ tăng
trưởng bình quân 15,2%. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ năm 2005 đạt 28.445
tỷ đồng, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ đạt 500 triệu USD. Đến nay, sản
phẩm của Đà Nẵng đã có mặt trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới [2].
Về kết cấu hạ tầng, Đà Nẵng có đủ 4 loại đường giao thông thông dụng đường
bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Hệ thống đường bộ chính của Đà Nẵng
đã nhựa hoá và bê tông hoá 100%. Ga đường sắt của Đà Nẵng là một trong những ga lớn
của Việt Nam. Từ Đà Nẵng có các tuyến đường biển đi đến hầu hết các cảng lớn của Việt
Nam và trên thế giới. Sân bay hàng không quốc tế Đà Nẵng có khả năng cho hạ cánh các
loại máy bay hiện đại như B747, B767, A320. Hàng tuần, tại sân bay Đà Nẵng đó khoảng
84 chuyến bay nội địa, 6 chuyến bay quốc tế đến Hồng Kông và Thái Lan. Sắp tới, khi các
dự án nâng cấp cảng biển, ga xe lửa, các tuyến đường bộ ga hàng không quốc tế hoàn
thành, Đà Nẵng sẽ hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn thiện hơn. Ngoài ra, hệ thống cấp
nước, cấp điện và thông tin liên lạc (Đà Nẵng là nơi ghé bờ của trạm cáp biển quốc tế tại
Việt Nam) của Đà Nẵng phát triển mạnh và ngày càng được hiện đại hoá, được đánh giá
xếp thứ ba trong cả nước, sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Đà Nẵng có 5 khu công nghiệp đã hoàn thiện về kết cấu hạ tầng, sẵn sàng bàn giao
mặt bằng. So với các tỉnh thành lân cận, các khu công nghiệp của Đà Nẵng được đánh giá
rất cao về vị trí thuận tiện, thủ tục đơn giản, nhanh gọn, giá đất và giá các loại dịch vụ khá
cạnh tranh.
Với gần 800.000 dân với mức sống khá cao, Đà Nẵng là một thị trường rộng lớn và
đầy tiềm năng của các nhà sản xuất cung cấp dịch vụ. Với giao thông thuận lợi, hàng
hoá từ Đà Nẵng dễ dẫn đến với khu vực miền Trung Tây Nguyên, một thị trường trẻ
đầy hấp lực đối với các nhà đầu tư. Khi tuyến hành lang kinh tế Đông Tây hoàn thành vào
cuối năm 2005, thị trường sẽ tiếp tục mở rộng đến Myanmar, Thái Lan, Lào, mở ra cơ hội lớn
cho các nhà đầu tư. Từ Đà Nẵng, điểm cuối của Hành lang kinh tế Đông Tây (EWEC), hàng
hoá có thể tiếp cận dễ dàng với thị trường trong nước và khu vực.
nghiệp chủ yếu gồm dệt may, giày dép, thủy hải sản, hoá chất, cơ khí, vật liệu xây dựng... Kim ngạch xuất nhập khẩu của Đà Nẵng qua các năm không ngừng tăng lên với tỉ lệ tăng trưởng bình quân 15,2%. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ năm 2005 đạt 28.445 tỷ đồng, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ đạt 500 triệu USD. Đến nay, sản phẩm của Đà Nẵng đã có mặt trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới [2]. Về kết cấu hạ tầng, Đà Nẵng có đủ 4 loại đường giao thông thông dụng là đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Hệ thống đường bộ chính của Đà Nẵng đã nhựa hoá và bê tông hoá 100%. Ga đường sắt của Đà Nẵng là một trong những ga lớn của Việt Nam. Từ Đà Nẵng có các tuyến đường biển đi đến hầu hết các cảng lớn của Việt Nam và trên thế giới. Sân bay hàng không quốc tế Đà Nẵng có khả năng cho hạ cánh các loại máy bay hiện đại như B747, B767, A320. Hàng tuần, tại sân bay Đà Nẵng đó khoảng 84 chuyến bay nội địa, 6 chuyến bay quốc tế đến Hồng Kông và Thái Lan. Sắp tới, khi các dự án nâng cấp cảng biển, ga xe lửa, các tuyến đường bộ và ga hàng không quốc tế hoàn thành, Đà Nẵng sẽ có hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn thiện hơn. Ngoài ra, hệ thống cấp nước, cấp điện và thông tin liên lạc (Đà Nẵng là nơi ghé bờ của trạm cáp biển quốc tế tại Việt Nam) của Đà Nẵng phát triển mạnh và ngày càng được hiện đại hoá, được đánh giá xếp thứ ba trong cả nước, sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đà Nẵng có 5 khu công nghiệp đã hoàn thiện về kết cấu hạ tầng, sẵn sàng bàn giao mặt bằng. So với các tỉnh thành lân cận, các khu công nghiệp của Đà Nẵng được đánh giá rất cao về vị trí thuận tiện, thủ tục đơn giản, nhanh gọn, giá đất và giá các loại dịch vụ khá cạnh tranh. Với gần 800.000 dân với mức sống khá cao, Đà Nẵng là một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng của các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ. Với giao thông thuận lợi, hàng hoá từ Đà Nẵng dễ dẫn đến với khu vực miền Trung và Tây Nguyên, một thị trường trẻ đầy hấp lực đối với các nhà đầu tư. Khi tuyến hành lang kinh tế Đông Tây hoàn thành vào cuối năm 2005, thị trường sẽ tiếp tục mở rộng đến Myanmar, Thái Lan, Lào, mở ra cơ hội lớn cho các nhà đầu tư. Từ Đà Nẵng, điểm cuối của Hành lang kinh tế Đông Tây (EWEC), hàng hoá có thể tiếp cận dễ dàng với thị trường trong nước và khu vực.
Nguồn nhân lực của Đà Nẵng dồi dào, chất lượng cao: Với 6 trường Đại học, 13
trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề cũng như các cơ sở đào
tạo ngoại ngữ, tin học, hàng năm, thành phố đào tạo được hàng chục nghìn lao động trẻ với
kiến thức khá vững vàng. Lực lượng lao động của Đà Nẵng có chất lượng hàng đầu trong
khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Tác phong công nghiệp, năng động, nhiệt tình, ham
học hỏi tinh thần trách nhiệm cao những điểm mạnh của lực lượng lao động Đà
Nẵng.
Đà Nẵng được đánh giá là địa phương có chính sách thu hút đầu tư rất thông
thoáng. Các dự án do thành phố cấp giấy phép đầu tư, thời hạn cấp giấy phép tối đa
không quá 10 ngày đối với dự án thuộc diện thẩm định không quá 5 ngày đối với dự
án thuộc diện đăng cấp giấy phép đầu tư. Mọi thủ tục chỉ thông qua “1 cửa” duy
nhất Trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng. Ngoài ra thành phố còn nhiều ưu đãi về
đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ đầu tư về cơ sở hạ tầng... Thủ tục hành
chính - điều các nđầu lo ngại nhất khi quyết định bỏ vốn kinh doanh - đã
đang được Đà Nẵng cải cách triệt để nhằm tạo sự thoải mái nhất cho các nhà đầu tư.
Trên địa bàn Đà Nẵng có tới 15 ngân hàng và công ty cho thuê tài chính đang hoạt
động, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu về vốn ngắn và trung hạn cho các doanh nghiệp. Ngoài ra,
các doanh nghiệp còn thể tận dụng nguồn vốn dài hạn với lãi suất thấp từ Quỹ Hỗ trợ
phát triển. Thanh toán trong nước và quốc tế nhanh chóng, thuận tiện, phương thức thanh
toán đa dạng cộng với nhiều dịch vụ tiện ích khác sẽ giúp doanh nghiệp tránh được nhiều
khó khăn trong sản xuất kinh doanh.
Như vậy, Đà Nẵng là thành phố có điều kiện thuận tiện trên nhiều mặt như vị trí địa
lý, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực và các dịch vụ hỗ trợ khá hoàn chỉnh cho thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài hoạt động của các doanh nghiệp vốn đầu trực tiếp ớc
ngoài.
2.1.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng
2.1.2.1. Tình hình thu hút đầu trực tiếp nước ngoài giai đoạn năm 1997
2000 (xem bảng 2.1)
Nguồn nhân lực của Đà Nẵng dồi dào, chất lượng cao: Với 6 trường Đại học, 13 trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề cũng như các cơ sở đào tạo ngoại ngữ, tin học, hàng năm, thành phố đào tạo được hàng chục nghìn lao động trẻ với kiến thức khá vững vàng. Lực lượng lao động của Đà Nẵng có chất lượng hàng đầu trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Tác phong công nghiệp, năng động, nhiệt tình, ham học hỏi và tinh thần trách nhiệm cao là những điểm mạnh của lực lượng lao động Đà Nẵng. Đà Nẵng được đánh giá là địa phương có chính sách thu hút đầu tư rất thông thoáng. Các dự án do thành phố cấp giấy phép đầu tư, thời hạn cấp giấy phép tối đa không quá 10 ngày đối với dự án thuộc diện thẩm định và không quá 5 ngày đối với dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư. Mọi thủ tục chỉ thông qua “1 cửa” duy nhất là Trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng. Ngoài ra thành phố còn có nhiều ưu đãi về đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ đầu tư về cơ sở hạ tầng... Thủ tục hành chính - điều mà các nhà đầu tư lo ngại nhất khi quyết định bỏ vốn kinh doanh - đã và đang được Đà Nẵng cải cách triệt để nhằm tạo sự thoải mái nhất cho các nhà đầu tư. Trên địa bàn Đà Nẵng có tới 15 ngân hàng và công ty cho thuê tài chính đang hoạt động, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu về vốn ngắn và trung hạn cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có thể tận dụng nguồn vốn dài hạn với lãi suất thấp từ Quỹ Hỗ trợ phát triển. Thanh toán trong nước và quốc tế nhanh chóng, thuận tiện, phương thức thanh toán đa dạng cộng với nhiều dịch vụ tiện ích khác sẽ giúp doanh nghiệp tránh được nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Như vậy, Đà Nẵng là thành phố có điều kiện thuận tiện trên nhiều mặt như vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực và các dịch vụ hỗ trợ khá hoàn chỉnh cho thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2.1.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng 2.1.2.1. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn năm 1997 – 2000 (xem bảng 2.1)
Trong giai đoạn này, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung
và Đà Nẵng nói riêng có xu hướng giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ các nước Đông Nam Á. Slượng dán đàm phán, hồ xin cấp phép đầu
giảm rõ rệt.
Bảng 2.1: Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng
giai đoạn 1997 - 2000
ĐVT 1997 1998 1999 2000
Số dự án mới Dự án 6 4 2 2
Vốn đầu tư USD 28.800.565
33.500.000
1.580.000
1.500.000
Tổng vốn đầu lu
kế
USD
447.500.00
0
464.200.00
0
391.659.78
3
371.145.78
3
Vốn pháp định luỹ kế
USD
193.800.00
0
201.900.00
0
174.433462
165.816.13
2
Vốn thực hiện luỹ kế USD
145.000.00
0
180.000.00
0
191.522.00
0
174.140.97
8
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng
Số lượng dự án mới được cấp phép giảm dần qua các năm. Nếu như lấy năm 1997
làm mốc với số lượng dự án là 6 dự án thì sang năm 1998 chỉ cấp phép được 4 dự án mới.
Số lượng dán cấp phép mới tiếp tục giảm trong hai m tiếp theo. Con số đó chỉ bằng
33,34% so với năm 1997 và bằng 50% so với năm 1998. Nguyên nhân là tâm lý e ngại, sợ
rủi ro của các nhà đầu nước ngoài, kể cả các ngân hàng bảo trợ đầu tư đối với khu vực
Đông Nam Á. Phần lớn các nhà đầu tư có ý định đầu tư vào thành phố thuộc các quốc gia
khu vực Đông Nam Á, hiện đang bị khủng hoảng tài chính hoặc đang gặp k khăn về
kinh tế, tài chính.
Lượng vốn đầu tư đăng ký mới trong giai đoạn này biến động thất thường, lúc lên
lúc xuống nhưng xu thế đi xuống chính. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã ảnh
Trong giai đoạn này, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng có xu hướng giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước Đông Nam Á. Số lượng dự án đàm phán, hồ sơ xin cấp phép đầu tư giảm rõ rệt. Bảng 2.1: Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2000 ĐVT 1997 1998 1999 2000 Số dự án mới Dự án 6 4 2 2 Vốn đầu tư USD 28.800.565 33.500.000 1.580.000 1.500.000 Tổng vốn đầu tư lu ỹ kế USD 447.500.00 0 464.200.00 0 391.659.78 3 371.145.78 3 Vốn pháp định luỹ kế USD 193.800.00 0 201.900.00 0 174.433462 165.816.13 2 Vốn thực hiện luỹ kế USD 145.000.00 0 180.000.00 0 191.522.00 0 174.140.97 8 Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng Số lượng dự án mới được cấp phép giảm dần qua các năm. Nếu như lấy năm 1997 làm mốc với số lượng dự án là 6 dự án thì sang năm 1998 chỉ cấp phép được 4 dự án mới. Số lượng dự án cấp phép mới tiếp tục giảm trong hai năm tiếp theo. Con số đó chỉ bằng 33,34% so với năm 1997 và bằng 50% so với năm 1998. Nguyên nhân là tâm lý e ngại, sợ rủi ro của các nhà đầu tư nước ngoài, kể cả các ngân hàng bảo trợ đầu tư đối với khu vực Đông Nam Á. Phần lớn các nhà đầu tư có ý định đầu tư vào thành phố thuộc các quốc gia khu vực Đông Nam Á, hiện đang bị khủng hoảng tài chính hoặc đang gặp khó khăn về kinh tế, tài chính. Lượng vốn đầu tư đăng ký mới trong giai đoạn này biến động thất thường, lúc lên lúc xuống nhưng xu thế đi xuống là chính. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã ảnh
hưởng rất lớn đến lượng vốn đăng ký mới. Mặc số dự án cấp phép mới năm 1998 chỉ
bằng 66,7% so với năm 1997 nhưng lượng vốn đăng ký mới lại lớn hơn so với năm 1997,
và bằng 116,32% so với năm 1997. Nguyên nhân do có một dự án được đầu tư bởi tập
đoàn sản xuất và kinh doanh nước giải khát nổi tiếng trên thế giới (tập đoàn Cocacola) với
tổng số vốn lên tới 25 triệu USD thời gian hoạt động 30 năm. Trong hai m tiếp theo
lượng vốn đăng lý mới giảm mạnh, mặc dù điều đó đã được dự đoán trước song khó tưởng
tượng nổi rằng lượng vốn đăng ký mới giảm chỉ 4,7% và 4,47% so với năm 1998. Nguyên
nhân là do trong hai năm đó chỉ các công ty đầu tư với qui nhỏ vào Đà Nẵng, sản
xuất các mặt hàng bảo hộ lao động hay gia công các loại quần áo...
Tổng số vốn đầu lũy kế năm 1998 tăng 3,73% so với năm 1997, nhưng lần lượt
hai năm tiếp theo lại giảm mạnh. Trong năm 1999 giảm xuống còn 391.659.783 USD,
giảm 12,48% so với năm 1997. Sang năm 2000 lượng vốn chỉ còn bằng 82,9% và giảm tới
17,1% so với năm 1997. Nguyên nhân do trong hai năm 1999 2000 số lượng dự án
rút giấy phép đăng kinh doanh 6 dán chiếm 66,67% tổng số dự án rút giấy phép
trong giai đoạn này. đây nguyên nhân chính khiến svốn pháp định trong hai năm
1999 và 2000 giảm so với năm 1997 và 1998.
Lượng vốn thực hiện vẫn tiếp tục tăng qua các năm 1998, 1999. Nhưng đến
năm 2000 lại giảm đột ngột do trong năm này có một số dự án sau khi đã xây dựng
xong sở h tầng nhưng phía công ty mẹ bị khủng hoảng tài chính nên phải t
về, nhường lại s hạ tầng cho Việt Nam. Luỹ kế đến năm 2000 lượng vốn thực
hiện đạt 174.140.978 USD chiếm 46,9% tổng vốn đăng ký. Vốn thực hiện ntrên đã
bổ sung một nguồn quan trọng vào tổng vốn đầu trên địa bàn, góp phần vào quá
trình duy tmức tăng trưởng kinh tế của thành phố, nhất trên lĩnh vực công nghiệp.
Qua tìnhnh thu hút các dự án mới trong giai đoạny như đã phân tích, ta có
thể thấy ngoài nguyên nhân khách quan do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính
tiền tệ xẩy ra, đồng thời cũngthể thấy còn phản ánh một số bất cập ở Việt Nam.
Đó là các chính sách pháp luật liên quan đến đầu nước ngoài trong gia đoạn này
còn thiếu ổn định, chưa sthống nhất giữa c cấp các ngành, đôi khi n chồng
chéo nhất qui định củac Bộ ngành địa phương. Những bật cập này đãm ảnh
hưởng rất lớn đến lượng vốn đăng ký mới. Mặc dù số dự án cấp phép mới năm 1998 chỉ bằng 66,7% so với năm 1997 nhưng lượng vốn đăng ký mới lại lớn hơn so với năm 1997, và bằng 116,32% so với năm 1997. Nguyên nhân là do có một dự án được đầu tư bởi tập đoàn sản xuất và kinh doanh nước giải khát nổi tiếng trên thế giới (tập đoàn Cocacola) với tổng số vốn lên tới 25 triệu USD thời gian hoạt động 30 năm. Trong hai năm tiếp theo lượng vốn đăng lý mới giảm mạnh, mặc dù điều đó đã được dự đoán trước song khó tưởng tượng nổi rằng lượng vốn đăng ký mới giảm chỉ 4,7% và 4,47% so với năm 1998. Nguyên nhân là do trong hai năm đó chỉ có các công ty đầu tư với qui mô nhỏ vào Đà Nẵng, sản xuất các mặt hàng bảo hộ lao động hay gia công các loại quần áo... Tổng số vốn đầu tư lũy kế năm 1998 tăng 3,73% so với năm 1997, nhưng lần lượt hai năm tiếp theo lại giảm mạnh. Trong năm 1999 giảm xuống còn 391.659.783 USD, giảm 12,48% so với năm 1997. Sang năm 2000 lượng vốn chỉ còn bằng 82,9% và giảm tới 17,1% so với năm 1997. Nguyên nhân là do trong hai năm 1999 và 2000 số lượng dự án rút giấy phép đăng ký kinh doanh là 6 dự án chiếm 66,67% tổng số dự án rút giấy phép trong giai đoạn này. Và đây là nguyên nhân chính khiến số vốn pháp định trong hai năm 1999 và 2000 giảm so với năm 1997 và 1998. Lượng vốn thực hiện vẫn tiếp tục tăng qua các năm 1998, 1999. Nhưng đến năm 2000 lại giảm đột ngột là do trong năm này có một số dự án sau khi đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng nhưng vì phía công ty mẹ bị khủng hoảng tài chính nên phải rút về, nhường lại cơ sở hạ tầng cho Việt Nam. Luỹ kế đến năm 2000 lượng vốn thực hiện đạt 174.140.978 USD chiếm 46,9% tổng vốn đăng ký. Vốn thực hiện như trên đã bổ sung một nguồn quan trọng vào tổng vốn đầu tư trên địa bàn, góp phần vào quá trình duy trì mức tăng trưởng kinh tế của thành phố, nhất là trên lĩnh vực công nghiệp. Qua tình hình thu hút các dự án mới trong giai đoạn này như đã phân tích, ta có thể thấy ngoài nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ xẩy ra, đồng thời cũng có thể thấy nó còn phản ánh một số bất cập ở Việt Nam. Đó là các chính sách pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài trong gia đoạn này còn thiếu ổn định, chưa có sự thống nhất giữa các cấp các ngành, đôi khi còn chồng chéo nhất là qui định của các Bộ ngành và địa phương. Những bật cập này đã làm ảnh
hưởng đến i trường đầu của Việt Nam i chung Đà Nẵng nói riêng. Hơn
nữa, trong giai đoạn này xét về sở vật chất phục vụ cho các d án đầu nước
ngoài và sở vật chất của Đà Nẵng n kém hơn nhiều so với các tỉnh khác trong
nước như Nội, Hải phòng, thành phố Hồ C Minh... một điểm yếu mang tính
khách quan dường như không thể thay đổi được khí hậu của miền Trung nói
chung của Đà Nẵng nói riêng không được thuận lợi so với các vùng khác trong
nước.
Các dự án liên tục giảm như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế
của Đà Nẵng, không những làm giảm nguồn vốn bổ sung cho nguồn vốn của thành phố mà
nó còn ảnh hưởng đến cả kinh ngạch suất khẩu, số lượng lao động...
a) Tình hình rút giấy phép của các dự án FDI
Bảng 2.2: Tình hình rút giấy phép của các dự án FDI
ĐVT 1997 1998 1999 2000
Số dự án rút Dự án 1 2 3 3
Vốn đầu tư USD 1.022.000
7.000.000
41.000.000
11.500.000
Vốn pháp định USD 328.330
2.700.000
14.500.000
4.300.000
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng
Đối lập với việc giảm dự án đăng ký mới, số lượng các dự án rút giấy phép đăng ký
kinh doanh trong giai đoạn này lại có xu hướng tăng, bình quân mỗi năm có 2,25 dự án bị
rút giấy phép, đây con stương đối lớn trong hoạt động thu hút đầu nước ngoài.
Thường thì phản ánh tình trạng yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Nhưng trong giai đoạn này phần lớn là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ Châu Á, cụ thể là có hai dự án liên doanh chuyển thành doanh nghiệp đầu
tư trong nước (Công ty liên doanh TNHH dệt Hải Vân công ty liên doanh thuốc lá Đà
Nẵng). Mặc dù trong năm 1999 số lượng dự án rút giấy phép đăng ký kinh doanh chỉ có 3
dự án nhưng lượng vốn rút ra lên tới 41 triệu USD, là do có hai dự án lớn do gặp khó khăn
hưởng đến môi trường đầu tư của Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng. Hơn nữa, trong giai đoạn này xét về cơ sở vật chất phục vụ cho các dự án đầu tư nước ngoài và cơ sở vật chất của Đà Nẵng còn kém hơn nhiều so với các tỉnh khác trong nước như Hà Nội, Hải phòng, thành phố Hồ Chí Minh... và một điểm yếu mang tính khách quan và dường như không thể thay đổi được là khí hậu của miền Trung nói chung và của Đà Nẵng nói riêng là không được thuận lợi so với các vùng khác trong nước. Các dự án liên tục giảm như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế của Đà Nẵng, không những làm giảm nguồn vốn bổ sung cho nguồn vốn của thành phố mà nó còn ảnh hưởng đến cả kinh ngạch suất khẩu, số lượng lao động... a) Tình hình rút giấy phép của các dự án FDI Bảng 2.2: Tình hình rút giấy phép của các dự án FDI ĐVT 1997 1998 1999 2000 Số dự án rút Dự án 1 2 3 3 Vốn đầu tư USD 1.022.000 7.000.000 41.000.000 11.500.000 Vốn pháp định USD 328.330 2.700.000 14.500.000 4.300.000 Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng Đối lập với việc giảm dự án đăng ký mới, số lượng các dự án rút giấy phép đăng ký kinh doanh trong giai đoạn này lại có xu hướng tăng, bình quân mỗi năm có 2,25 dự án bị rút giấy phép, đây là con số tương đối lớn trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài. Thường thì nó phản ánh tình trạng yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhưng trong giai đoạn này phần lớn là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, cụ thể là có hai dự án liên doanh chuyển thành doanh nghiệp đầu tư trong nước (Công ty liên doanh TNHH dệt Hải Vân và công ty liên doanh thuốc lá Đà Nẵng). Mặc dù trong năm 1999 số lượng dự án rút giấy phép đăng ký kinh doanh chỉ có 3 dự án nhưng lượng vốn rút ra lên tới 41 triệu USD, là do có hai dự án lớn do gặp khó khăn
trong việc triển khai dự án nên đã rút giấy phép đó Công ty liên doanh ô Nissan
công ty liên doanh khách sạn Tourane với lượng vốn rút lên tới 39,5 triệu USD (bảng 2.2).
Tuy nhiên, cũng không thể không kể đến một số nguyên nhân chủ quan về phía Đà
Nẵng. Đó là trình độ của một số cán bộ của Đà Nẵng trong các liên doanh còn yếu kém. Tình
trạng tranh chấp giữa các bên liên doanh tồn tại nhiều. Dẫn đến các doanh nghiệp làm ăn thua l
buộc bên đối tác nước ngoài phải rút vốn về.
b) Cơ cấu theo hình thực đầu tư của các dự án FDI (bảng 2.3)
Trong giai đoạn 1997 đến 2000, hình thức liên doanh giữ vai trò chủ đạo trong thu
hút nguồn vốn đầu trực tiếp nước ngoài. Song số doanh nghiệp liên doanh ngày ng
giảm theo thời gian, số lượng doanh nghiệp liên doanh m 2000 giảm chỉ còn bằng
77,78% so với năm 1997 bằng 75% so vớim 1998. Đối lập với việc liên tục giảm
của các doanh nghiệp liên doanh việc ng đều đặn của các doanh nghiệp 100% vốn
đầu ớc ngoài. Nếu như năm 1997 chỉ có 14 doanh nghiệp 100% vốn đầu nước
ngoài thì tới năm 2000 con số này đã lên đến 19 doanh nghiệp. Trung bình mỗi năm
tăng 1,25 doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tình hình trên cũng cho chúng ta
thấy sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp liên doanh. Đa phần
các doanh nghiệp này liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, trình đquản của các
bộ tham gia liên doanh của Đà Nẵng còn hạn chế, cán bchủ chốt do chính quyền địa
phương ckhông thông qua thi tuyển. n thiếu hiểu biết về chuyên môn, luật pháp...
Hơn nữa nguồn vốn đóng góp lại là của nhà nước nên dường như trách nhiệm của các
chủ thể quản lý không trở thành gánh nặng đối với họ, dẫn đến không m tốt vai trò
đại diện cho nnước tham gia dự án. Lãi hay lỗ đều thuộc về nhà nước. Chính những
tiêu cực này đã dẫn đến việc liên tiếp giảm số doanh nghiệp liên doanh.
Bảng 2.3: Cơ cấu theo hình thức đầu tư các dự án FDI ở Đà Nẵng
ĐVT: Dự án
1997 1998 1999 2000
1.Hình thức FDI
trong việc triển khai dự án nên đã rút giấy phép đó là Công ty liên doanh ô tô Nissan và công ty liên doanh khách sạn Tourane với lượng vốn rút lên tới 39,5 triệu USD (bảng 2.2). Tuy nhiên, cũng không thể không kể đến một số nguyên nhân chủ quan về phía Đà Nẵng. Đó là trình độ của một số cán bộ của Đà Nẵng trong các liên doanh còn yếu kém. Tình trạng tranh chấp giữa các bên liên doanh tồn tại nhiều. Dẫn đến các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ buộc bên đối tác nước ngoài phải rút vốn về. b) Cơ cấu theo hình thực đầu tư của các dự án FDI (bảng 2.3) Trong giai đoạn 1997 đến 2000, hình thức liên doanh giữ vai trò chủ đạo trong thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Song số doanh nghiệp liên doanh ngày càng giảm theo thời gian, số lượng doanh nghiệp liên doanh năm 2000 giảm chỉ còn bằng 77,78% so với năm 1997 và bằng 75% so với năm 1998. Đối lập với việc liên tục giảm của các doanh nghiệp liên doanh là việc tăng đều đặn của các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Nếu như năm 1997 chỉ có 14 doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thì tới năm 2000 con số này đã lên đến 19 doanh nghiệp. Trung bình mỗi năm tăng 1,25 doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tình hình trên cũng cho chúng ta thấy sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp liên doanh. Đa phần các doanh nghiệp này liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, trình độ quản lý của các bộ tham gia liên doanh của Đà Nẵng còn hạn chế, cán bộ chủ chốt do chính quyền địa phương cử không thông qua thi tuyển. Nên thiếu hiểu biết về chuyên môn, luật pháp... Hơn nữa nguồn vốn đóng góp lại là của nhà nước nên dường như trách nhiệm của các chủ thể quản lý không trở thành gánh nặng đối với họ, dẫn đến không làm tốt vai trò đại diện cho nhà nước tham gia dự án. Lãi hay lỗ đều thuộc về nhà nước. Chính những tiêu cực này đã dẫn đến việc liên tiếp giảm số doanh nghiệp liên doanh. Bảng 2.3: Cơ cấu theo hình thức đầu tư các dự án FDI ở Đà Nẵng ĐVT: Dự án 1997 1998 1999 2000 1.Hình thức FDI