LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng

3,725
738
90
tư nước ngoài 1996 cũng không đưa ra khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
mà chỉ thừa nhận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp liên doanh
doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Và về mặt pháp lý, cả doanh nghiệp liên doanh và
doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đều hoạt động với tư cách công ty trách nhiệm hữu
hạn.
Như vậy, khác với Luật doanh nghiệp Luật doanh nghiệp nhà nước quan tâm
đến tiêu chí trách nhiệm của doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty hợp danh, doanh nghiệp nhân) tiêu chí nguồn gốc vốn của doanh nghiệp
(công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước khác), thì qui định của Luật đầu tư nước ngoài
về doanh nghiệp lại nhấn mạnh theo tiêu chí tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trong
doanh nghiệp. Điều này không phù hợp với thực tiễn về quản nhà nước đối với doanh
nghiệp, bởi vì điều các bên thứ ba quan tâm ở doanh nghiệp không phải nhà đầu tư
có tỷ lệ góp vốn bao nhiêu,... mà là doanh nghiệp chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản
trước đối tác, trước Nhà nước và các chủ thể khác như thế nào. Đây chính là điểm hạn chế
trước đây của pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Để khắc phục hạn chế trên, Luật doanh nghiệp 2005 đã phân loại doanh nghiệp theo
tiêu chí cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp nhân) không phụ thuộc vào nguồn gốc vốn
góp (tức là không phân biệt doanh nghiệp của nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài, của
một nhà đầu tư hay nhiều nhà đầu tư). Luật đầu 2005, khi định nghĩa về doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài cũng không còn sử dụng khái niệm doanh nghiệp 100% vốn đầu
nước ngoài doanh nghiệp liên doanh nữa mà thay vào đó đã sử dụng khái niệm:
“doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài
thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu
tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại”. Vậy, theo luật doanh nghiệp 2005 và Luật
đầu 2005, doanh nghiệp 100% vốn đầu ớc ngoài doanh nghiệp liên doanh về
bản chất vẫn tồn tại nhưng tên gọi pháp lý của chúng đã thay đổi. Tùy theo cách thức góp
vốn và chịu trách nhiệm trong các doanh nghiệp này, chúng có thể là công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân.
tư nước ngoài 1996 cũng không đưa ra khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà chỉ thừa nhận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Và về mặt pháp lý, cả doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đều hoạt động với tư cách công ty trách nhiệm hữu hạn. Như vậy, khác với Luật doanh nghiệp và Luật doanh nghiệp nhà nước quan tâm đến tiêu chí trách nhiệm của doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và tiêu chí nguồn gốc vốn của doanh nghiệp (công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước khác), thì qui định của Luật đầu tư nước ngoài về doanh nghiệp lại nhấn mạnh theo tiêu chí tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp. Điều này không phù hợp với thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, bởi vì điều mà các bên thứ ba quan tâm ở doanh nghiệp không phải là nhà đầu tư có tỷ lệ góp vốn bao nhiêu,... mà là doanh nghiệp chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản trước đối tác, trước Nhà nước và các chủ thể khác như thế nào. Đây chính là điểm hạn chế trước đây của pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Để khắc phục hạn chế trên, Luật doanh nghiệp 2005 đã phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) mà không phụ thuộc vào nguồn gốc vốn góp (tức là không phân biệt doanh nghiệp của nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài, của một nhà đầu tư hay nhiều nhà đầu tư). Luật đầu tư 2005, khi định nghĩa về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không còn sử dụng khái niệm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh nữa mà thay vào đó đã sử dụng khái niệm: “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại”. Vậy, theo luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh về bản chất vẫn tồn tại nhưng tên gọi pháp lý của chúng đã thay đổi. Tùy theo cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm trong các doanh nghiệp này, chúng có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân.
Qua phân tích trên, thể hiểu: Doanh nghiệp vốn đầu trực tiếp nước
ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) là một hình thức tổ chức kinh doanh, trong đó có
một bên hoặc các bên mang quốc tịch khác nhau cùng góp vốn, cùng quản lý cơ sở kinh tế
đó mục tiêu sinh lời, phù hợp với các quy định luật pháp của nước sở tại thông lệ
quốc tế”.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp vốn đầu trực tiếp nước
ngoài
Doanh nghiệp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều loại hình, nhiều cách
thức tổ chức hoạt động khác nhau. Do vậy, nhận thức các đặc điểm hoạt động của các
doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước đối
với chúng. Doanh nghiệp FDI ở Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau:
- Doanh nghiệp FDI là những tổ chức kinh doanh có yếu tố quốc tế, chủ yếu được
thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, thuộc một phần sở hữu nước ngoài
(doanh nghiệp liên doanh) hoặc thuộc toàn bộ sở hữu nước ngoài (doanh nghiệp 100% vốn
đầu nước ngoài). Quá trình thành lập vận hành của doanh nghiệp FDI luôn sự
cộng đồng trách nhiệm của các bên, đại diện cho lợi ích của các quốc gia khác nhau và
được các bên lấy phương châm “cùng có lợi” làm nguyên tắc cơ bản để giải quyết các vấn
đề trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp;
- Doanh nghiệp FDI có sự tham gia quản lý trực tiếp của nước ngoài, quyền quản lý
của các bên phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đều là những pháp
nhân Việt Nam, ra đời và hoạt động theo luật pháp của Nhà nước Việt Nam, đồng thời
chịu sự chi phối của nhiều hệ thống pháp luật (bao gồm luật pháp của các quốc gia xuất
thân của các bên và luật pháp quốc tế);
- Doanh nghiệp FDI thường có phần sở hữu của các công ty đa quốc gia, nên các
quyết định của nó không hoàn toàn phụ thuộc vào khuôn khổ pháp lý của Việt Nam. Phần
vốn góp của nhà đầu nước ngoài càng cao, thì hoạt động của doanh nghiệp FDI có thể
càng chịu nhiều sự ảnh hưởng của bên nước ngoài. Mặt khác, xu hướng tự nhiên của
doanh nghiệp FDI bao giờ cũng coi lợi nhuận là mục tiêu duy nhất hàng đầu; trong khi đó,
nước chủ nhà lại quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh tế - hội, đến sự phát triển tổng thể
Qua phân tích ở trên, có thể hiểu: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) là một hình thức tổ chức kinh doanh, trong đó có một bên hoặc các bên mang quốc tịch khác nhau cùng góp vốn, cùng quản lý cơ sở kinh tế đó vì mục tiêu sinh lời, phù hợp với các quy định luật pháp của nước sở tại và thông lệ quốc tế”. 1.1.2. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có nhiều loại hình, nhiều cách thức tổ chức hoạt động khác nhau. Do vậy, nhận thức các đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước đối với chúng. Doanh nghiệp FDI ở Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau: - Doanh nghiệp FDI là những tổ chức kinh doanh có yếu tố quốc tế, chủ yếu được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, thuộc một phần sở hữu nước ngoài (doanh nghiệp liên doanh) hoặc thuộc toàn bộ sở hữu nước ngoài (doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài). Quá trình thành lập và vận hành của doanh nghiệp FDI luôn có sự cộng đồng trách nhiệm của các bên, đại diện cho lợi ích của các quốc gia khác nhau và được các bên lấy phương châm “cùng có lợi” làm nguyên tắc cơ bản để giải quyết các vấn đề trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp; - Doanh nghiệp FDI có sự tham gia quản lý trực tiếp của nước ngoài, quyền quản lý của các bên phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đều là những pháp nhân Việt Nam, ra đời và hoạt động theo luật pháp của Nhà nước Việt Nam, đồng thời chịu sự chi phối của nhiều hệ thống pháp luật (bao gồm luật pháp của các quốc gia xuất thân của các bên và luật pháp quốc tế); - Doanh nghiệp FDI thường có phần sở hữu của các công ty đa quốc gia, nên các quyết định của nó không hoàn toàn phụ thuộc vào khuôn khổ pháp lý của Việt Nam. Phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài càng cao, thì hoạt động của doanh nghiệp FDI có thể càng chịu nhiều sự ảnh hưởng của bên nước ngoài. Mặt khác, xu hướng tự nhiên của doanh nghiệp FDI bao giờ cũng coi lợi nhuận là mục tiêu duy nhất hàng đầu; trong khi đó, nước chủ nhà lại quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh tế - xã hội, đến sự phát triển tổng thể
nền kinh tế. Do vậy, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải
dung hòa được hai lợi ích này, phải cho doanh nghiệp FDI trong khi phục vụ lợi ích của họ
cũng đồng thời phải mang lại lợi ích cho bên Việt Nam nói riêng và Nhà nước Việt Nam
nói chung;
- Doanh nghiệp FDI nằm trên lãnh thổ Việt Nam, chịu sự quản mô, chịu ảnh
hưởng của tình hình chính trị, kinh tế - hội của Nhà nước Việt Nam trên các phương
tiện môi trường sinh thái, môi trường chính trị, kinh tế - hội..., đồng thời cũng tác
động trở lại đối với đất nước Việt Nam, thể tích cực hoặc tiêu cực, tuỳ thuộc vào tình
hình hoạt động đúng hay chệch hướng, hiệu quả, hay thua lỗ của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp FDI hoạt động trong một thời hạn nhất định do Chính phủ nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam quyết định đối với từng dự án, thường không quá 50 năm,
trường hợp đặc biệt có thể dài hơn nhưng tối đa không quá 70 năm. Hết thời hạn qui định,
doanh nghiệp FDI phải giải thể hoặc chuyển cho phía Việt Nam (theo hình thức bồi hoàn
hoặc không bồi hoàn). Như vậy, chế độ sở hữu đối với bên nước ngoài chỉ giới hạn trong
thời gian hoạt động của doanh nghiệp, trừ số doanh nghiệp phải giải thể, khi hết thời hạn
hoạt động những doanh nghiệp FDI đó tốt, xấu đều trở thành đơn vị kinh doanh và sở
hữu của phía Việt Nam;
- Doanh nghiệp FDI là nơi gặp gỡ và cọ xát giữa các nền văn hoá khác nhau, phản
ánh sự pha trộn các yếu tố văn hoá của nhiều nước, thể hiện qua triết kinh doanh, tập
quán, sự hiểu biết pháp luật, ngôn ngữ, lối sống, thói quen, lòng tin, thái độ, phong cách
ứng xử của các bên tham gia. Văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp FDI tương đối phức
tạp, nhiều khi mang sắc thái chính trị, tôn giáo rệt, làm cho quá trình triển khai vận
hành doanh nghiệp FDI hết sức phức tạp đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị đủ các điều kiện
cần thiết để tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài một cách bình đẳng và
đảm bảo hiệu quả, đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất những thua thiệt có thể xẩy ra đối
với nước mình;
Doanh nghiệp FDI được coi loại doanh nghiệp không quan chủ quản,
quan lãnh đạo cao nhất và có quyền quyết định mọi vấn đề của doanh nghiệp là Hội đồng
quản trị. Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hội đồng quản trị. Hoạt động của
nền kinh tế. Do vậy, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải dung hòa được hai lợi ích này, phải cho doanh nghiệp FDI trong khi phục vụ lợi ích của họ cũng đồng thời phải mang lại lợi ích cho bên Việt Nam nói riêng và Nhà nước Việt Nam nói chung; - Doanh nghiệp FDI nằm trên lãnh thổ Việt Nam, chịu sự quản lý vĩ mô, chịu ảnh hưởng của tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của Nhà nước Việt Nam trên các phương tiện môi trường sinh thái, môi trường chính trị, kinh tế - xã hội..., đồng thời cũng có tác động trở lại đối với đất nước Việt Nam, có thể tích cực hoặc tiêu cực, tuỳ thuộc vào tình hình hoạt động đúng hay chệch hướng, hiệu quả, hay thua lỗ của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp FDI hoạt động trong một thời hạn nhất định do Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quyết định đối với từng dự án, thường không quá 50 năm, trường hợp đặc biệt có thể dài hơn nhưng tối đa không quá 70 năm. Hết thời hạn qui định, doanh nghiệp FDI phải giải thể hoặc chuyển cho phía Việt Nam (theo hình thức bồi hoàn hoặc không bồi hoàn). Như vậy, chế độ sở hữu đối với bên nước ngoài chỉ giới hạn trong thời gian hoạt động của doanh nghiệp, trừ số doanh nghiệp phải giải thể, khi hết thời hạn hoạt động những doanh nghiệp FDI đó dù tốt, xấu đều trở thành đơn vị kinh doanh và sở hữu của phía Việt Nam; - Doanh nghiệp FDI là nơi gặp gỡ và cọ xát giữa các nền văn hoá khác nhau, phản ánh sự pha trộn các yếu tố văn hoá của nhiều nước, thể hiện qua triết lý kinh doanh, tập quán, sự hiểu biết pháp luật, ngôn ngữ, lối sống, thói quen, lòng tin, thái độ, phong cách ứng xử của các bên tham gia. Văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp FDI tương đối phức tạp, nhiều khi mang sắc thái chính trị, tôn giáo rõ rệt, làm cho quá trình triển khai và vận hành doanh nghiệp FDI hết sức phức tạp đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết để tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài một cách bình đẳng và đảm bảo hiệu quả, đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất những thua thiệt có thể xẩy ra đối với nước mình; Doanh nghiệp FDI được coi là loại doanh nghiệp không có cơ quan chủ quản, cơ quan lãnh đạo cao nhất và có quyền quyết định mọi vấn đề của doanh nghiệp là Hội đồng quản trị. Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hội đồng quản trị. Hoạt động của
doanh nghiệp FDI là hoạt động theo luật, trong khuôn khổ pháp luật và các quan quản
lý nhà nước của Việt Nam chỉ thực hiện chức năng quản về mặt Nhà nước đối với các
hoạt động của loại hình doanh nghiệp này.
Những đặc điểm trên cho thấy, để có thể tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư
nước ngoài một ch bình đẳng, đồng thời các doanh nghiệp FDI hoạt động đúng định
hướng, hiệu quả cao, phát huy được tác dụng tích cực đến đời sống chính trị, kinh tế
- hội trong nước, ngăn ngừa hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu
cực, những rủi ro thể xảy ra trong quá trình hợp tác đầu tư. Việt Nam phải chuẩn bị
đủ các điều kiện cần thiết như hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, phương thức
biện pháp quản lý thích hợp.
1.1.3. Tác động kinh tế - xã hội của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến địa bàn tiếp nhận đầu tư
1.1.3.1. Tác động tích cực
Doanh nghiệp FDI góp phần gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, kích thích các
công ty khác tham gia đầu tư vào nước chủ nhà, là một tác nhân để thu hút vốn ODA; tăng
thêm tỷ lệ huy động vốn trong nước; phương tiện để tiếp nhận công nghệ hiện đại; tạo
thêm nhiều việc làm và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước... Cụ thể là:
- Thu hút vốn cho đầu phats triển: đối với những địa bàn thiếu vốn, tích lũy từ
nội bộ nền kinh tế thấp (thường là ở các nước đang phát triển) thì việc thành lập các doanh
nghiệp đầu trực tiếp nước ngoài, biện pháp thu hút vốn đầu hiệu quả. Lượng
vốn này, đôi khi là “cú hích” từ bên ngoài khá hữu hiệu tạo nên một loạt sự thay đổi theo
chiều hướng tích cực của nền kinh tế.
- Tạo điều kiện tiếp nhận công nghệ hiện đại: Hoạt động của FDI tác động rất lớn
đối với quá trình phát triển khoa học, công nghệ. Bởi vì, các doanh nghiệp FDI khi được
thành lập luôn gắn liền với công nghệ, máy móc thiết bị, knăng quản đảm bảo năng
lực sản xuất và năng suất lao động nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Đối với những địa bàn
kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa vào khu vực nông nghiệp thì việc chuyển giao công nghệ
thông qua các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài là một giải pháp khá tiết kiệm
an toàn. Việc tiếp thu được các công nghệ tiên tiến của nước ngoài tạo điều kiện cho địa
doanh nghiệp FDI là hoạt động theo luật, trong khuôn khổ pháp luật và các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam chỉ thực hiện chức năng quản lý về mặt Nhà nước đối với các hoạt động của loại hình doanh nghiệp này. Những đặc điểm trên cho thấy, để có thể tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài một cách bình đẳng, đồng thời các doanh nghiệp FDI hoạt động đúng định hướng, có hiệu quả cao, phát huy được tác dụng tích cực đến đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ở trong nước, ngăn ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực, những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hợp tác đầu tư. Việt Nam phải chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết như hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, phương thức và biện pháp quản lý thích hợp. 1.1.3. Tác động kinh tế - xã hội của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến địa bàn tiếp nhận đầu tư 1.1.3.1. Tác động tích cực Doanh nghiệp FDI góp phần gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, kích thích các công ty khác tham gia đầu tư vào nước chủ nhà, là một tác nhân để thu hút vốn ODA; tăng thêm tỷ lệ huy động vốn trong nước; là phương tiện để tiếp nhận công nghệ hiện đại; tạo thêm nhiều việc làm và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước... Cụ thể là: - Thu hút vốn cho đầu tư phats triển: đối với những địa bàn thiếu vốn, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thấp (thường là ở các nước đang phát triển) thì việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, là biện pháp thu hút vốn đầu tư có hiệu quả. Lượng vốn này, đôi khi là “cú hích” từ bên ngoài khá hữu hiệu tạo nên một loạt sự thay đổi theo chiều hướng tích cực của nền kinh tế. - Tạo điều kiện tiếp nhận công nghệ hiện đại: Hoạt động của FDI tác động rất lớn đối với quá trình phát triển khoa học, công nghệ. Bởi vì, các doanh nghiệp FDI khi được thành lập luôn gắn liền với công nghệ, máy móc thiết bị, kỹ năng quản lý đảm bảo năng lực sản xuất và năng suất lao động nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Đối với những địa bàn kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa vào khu vực nông nghiệp thì việc chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài là một giải pháp khá tiết kiệm và an toàn. Việc tiếp thu được các công nghệ tiên tiến của nước ngoài tạo điều kiện cho địa
bàn nhận đầu tư mở những bước “đột phá” sâu vào những ngành nghề sản xuất kinh doanh
quan trọng như điện tử, ô tô, công nghệ luyện kim, công nghệ hóa chất, khai thác dầu khí...
- Tạo điều kiện học tập kinh nghiệp quản lý tiên tiến của nước ngoài: không những
trong doanh nghiệp liên doanh ngay cả trong doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài, các nhân viên của địa bàn nhận đầu nước ngoài có dịp tiếp xúc với một phong
cách quản lý tiên tiến của nước ngoài, qua đó từng bước học tập được các mô hình quản lý,
kỹ năng kinh doanh và thích nghi với cạnh tranh, thích nghi với công nghệ... đặc biệt là kỹ
năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, các doanh nghiệp đầu nước
ngoài còn góp phần hình thành thế hệ doanh nhân mới trong nước đầy đủ bản lĩnh
khả năng để thành lập điều nh các doanh nghiệp đương đầu với cạnh tranh trên thị
trường. Từ những bài học được tích lũy đó, địa bàn nhận đầu tư nước ngoài có thể áp dụng
các mô hình quảntiên tiến dựa trên các công cụ hiện đại vào công ty điều hành các
sở sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả việc áp dụng các kinh
nghiệm quản lý tiến tiến này phụ thuộc rất lớn vào bản lĩnh và trình độ của đội ngũ cán bộ
của địa bàn tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Việc áp dụng dập khuôn đôi khi gây ra hậu quả
phản tác dụng không phải nhỏ. Tiếp thu kinh nghiệm quản tiên tiến của nước ngoài
chính là một khoản lợi ích vô hình mà địa bàn đầu tư nước ngoài có được, nhưng nó cũng
yêu cầu chính địa bàn nhận đầu nước ngoài phải những điểu chỉnh phù hợp trong
việc áp dụng.
- Khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển kết cấu hạ tầng, phát
triển thị trường và kích thích tăng trưởng kinh tế trên địa bàn nhận đầu tư: Đối với địa bàn
có nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng không đủ khả năng khai thác thì việc thành lập các
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện để khai thác lợi thế về tư nhiên. Sự
phát triển của doanh nghiệp đầu trực tiếp nước ngoài cũng tạo sức ép điều kiện để
hiện đại hoá kết cấu hạ tầng như hệ thống đường xá, kho tàng, sân bay, bến cảng, hệ thống
thông tin liên lạc, cung cấp điện, nước... đồng thời tăng năng lực sản xuất và năng suất lao
động cho các cơ sở sản xuất hiện có.
- Tạo thêm việc làm, p phần bồi dưỡng đội ngũ lao động kng tay
nghề cao cho địa bàn tiếp nhận đầu tư: Chính hoạt động của các doanh nghiệp đầu
bàn nhận đầu tư mở những bước “đột phá” sâu vào những ngành nghề sản xuất kinh doanh quan trọng như điện tử, ô tô, công nghệ luyện kim, công nghệ hóa chất, khai thác dầu khí... - Tạo điều kiện học tập kinh nghiệp quản lý tiên tiến của nước ngoài: không những trong doanh nghiệp liên doanh mà ngay cả trong doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, các nhân viên của địa bàn nhận đầu tư nước ngoài có dịp tiếp xúc với một phong cách quản lý tiên tiến của nước ngoài, qua đó từng bước học tập được các mô hình quản lý, kỹ năng kinh doanh và thích nghi với cạnh tranh, thích nghi với công nghệ... đặc biệt là kỹ năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài còn góp phần hình thành thế hệ doanh nhân mới trong nước có đầy đủ bản lĩnh và khả năng để thành lập và điều hành các doanh nghiệp đương đầu với cạnh tranh trên thị trường. Từ những bài học được tích lũy đó, địa bàn nhận đầu tư nước ngoài có thể áp dụng các mô hình quản lý tiên tiến dựa trên các công cụ hiện đại vào công ty điều hành các cơ sở sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả việc áp dụng các kinh nghiệm quản lý tiến tiến này phụ thuộc rất lớn vào bản lĩnh và trình độ của đội ngũ cán bộ của địa bàn tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Việc áp dụng dập khuôn đôi khi gây ra hậu quả phản tác dụng không phải là nhỏ. Tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài chính là một khoản lợi ích vô hình mà địa bàn đầu tư nước ngoài có được, nhưng nó cũng yêu cầu chính địa bàn nhận đầu tư nước ngoài phải có những điểu chỉnh phù hợp trong việc áp dụng. - Khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển thị trường và kích thích tăng trưởng kinh tế trên địa bàn nhận đầu tư: Đối với địa bàn có nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng không đủ khả năng khai thác thì việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện để khai thác lợi thế về tư nhiên. Sự phát triển của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng tạo sức ép và điều kiện để hiện đại hoá kết cấu hạ tầng như hệ thống đường xá, kho tàng, sân bay, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc, cung cấp điện, nước... đồng thời tăng năng lực sản xuất và năng suất lao động cho các cơ sở sản xuất hiện có. - Tạo thêm việc làm, góp phần bồi dưỡng đội ngũ lao động có kỹ năng và tay nghề cao cho địa bàn tiếp nhận đầu tư: Chính hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài sự tăng trưởng kinh tế mang lại đã tạo ra nhiều hội việc m,
làm giảm thất nghiệp. Bài toán khó về việc m được giải quyết một phần đáng kể nh
vào doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài những ảnh hưởng dây chuyền của
đối với các ngành cung cấp nguyên liệu tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, thông qua quá
trình lao động trong các doanh nghiệp đầu nước ngoài người lao động của địa
bàn nhận đầu tư trực tiếp sẽ tiếp thu được những kỹ năng sản xuất mới, tiên tiến góp
phần nâng cao tay nghề và tạo được thu nhập ổn định, đảm bảo đời sống.
- Tiếp cận với thị trường thế giới: Thông qua doanh nghiệp đầu trực tiếp nước
ngoài, địa bàn tiếp nhận đầu tưthể tiếp cận với thị trường thế giới. Bởi vì hầu hết các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều do các công ty đa
quốc gia thực hiện, mà các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng
những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thân thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu
dáng của sản phẩm.
Những tác động tích cực nói trên cho thấy vai trò quan trọng của doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn tiếp nhận đầu
tư.
1.1.3.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có
các tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội của địa bàn tiếp nhận đầu tư:
- Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài có mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, vì thế
họ có thể bất chấp những đòi hỏi tôn trọng truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc, khai
thác tài nguyên quá mức, không quan tâm tới việc xử ô nhiễm môi trường, đẩy mạnh
bóc lột người lao động bằng các hình thức tăng cường độ lao động đối với công nhân, kéo
dài thời gian làm việc, cắt xén điều kiện bảo hộ lao động, làm phân hoá đội ngũ cán bộ,
“chảy máu chất xám”. Điều đó thể gây nên mâu thuẫn làm nảy sinh nhiều vấn đề
mới trong xã hội.
- Doanh nghiệp đầu trực tiếp nước ngoài thường lợi dụng, khai thác những mặt
yếu kém của Chính phủ và các doanh nghiệp sở tại, đặc biệt họ thường chú ý khai thác
những sơ hở, yếu kém về luật lệ, thủ tục cán bộ trong khâu quản lý, sự nắm bắt không
nước ngoài và sự tăng trưởng kinh tế mà nó mang lại đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, làm giảm thất nghiệp. Bài toán khó về việc làm được giải quyết một phần đáng kể nhờ vào doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài và những ảnh hưởng dây chuyền của nó đối với các ngành cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, thông qua quá trình lao động trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mà người lao động của địa bàn nhận đầu tư trực tiếp sẽ tiếp thu được những kỹ năng sản xuất mới, tiên tiến góp phần nâng cao tay nghề và tạo được thu nhập ổn định, đảm bảo đời sống. - Tiếp cận với thị trường thế giới: Thông qua doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, địa bàn tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều do các công ty đa quốc gia thực hiện, mà các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thân thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng của sản phẩm. Những tác động tích cực nói trên cho thấy vai trò quan trọng của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn tiếp nhận đầu tư. 1.1.3.2. Tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động tích cực, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có các tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội của địa bàn tiếp nhận đầu tư: - Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài có mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, vì thế họ có thể bất chấp những đòi hỏi tôn trọng truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc, khai thác tài nguyên quá mức, không quan tâm tới việc xử lý ô nhiễm môi trường, đẩy mạnh bóc lột người lao động bằng các hình thức tăng cường độ lao động đối với công nhân, kéo dài thời gian làm việc, cắt xén điều kiện bảo hộ lao động, làm phân hoá đội ngũ cán bộ, “chảy máu chất xám”. Điều đó có thể gây nên mâu thuẫn và làm nảy sinh nhiều vấn đề mới trong xã hội. - Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài thường lợi dụng, khai thác những mặt yếu kém của Chính phủ và các doanh nghiệp sở tại, đặc biệt họ thường chú ý khai thác những sơ hở, yếu kém về luật lệ, thủ tục và cán bộ trong khâu quản lý, sự nắm bắt không
kịp thời các thông tin thị trường về công nghệ, giá cả của nước chủ nhà để khai khống giá
trị máy móc thiết bị công nghệ góp vốn, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ không thích hợp,
lạc hậu, làm thiệt hại đến lợi ích của phía nhận đầu tư.
- Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm tăng sự phụ thuộc về vốn, kỹ
thuật và mạng lưới tiêu thụ của địa bàn nhận đầu tư vào phía nước ngoài, vì các qui trình kỹ
thuật, công nghệ sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ hàng hoá do các nhà đầu tư nắm giữ
chỉ được chuyển giao dần dần. Sự phụ thuộc càng nhiều thì tính chủ động của địa bàn nhận
đầu tư càng yếu. Do vậy, nếu không tranh thủ được những tác động tích cực của doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp nước ngoài để nhanh chóng phát triển công nghiệp nội địa, tạo nguồn tích lũy,
đa dạng hóa thị trường tiêu thụ, tiếp nhận kỹ thuật mới, thì địa bàn tiếp nhận đầu tư khó có khả
năng giảm và loại bỏ được sự phụ thuộc.
- Các nhà đầu tư nước ngoài có thể bằng nhiều cách làm tổn hại đến chủ quyền kinh
tế của địa bàn tiếp nhận đầu tư. Thông qua các công ty xuyên quốc gia, các doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là doanh nghiệp 100% vốn đầu nước ngoài
thể gây ảnh hưởng tới chính trị của địa bàn tiếp nhận đầu tư, gây sức ép đối với Chính phủ,
tác động không lành mạnh đến cấu xã hội. Mục tiêu chiến lược của họ không phải bao
giờ cũng thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế của địa bàn nhận đầu tư, do đó, các nhà
đầu nước ngoài thể quan điểm, ý kiến trái ngược hoặc hành vi vi phạm các
chính sách quản lý tài chính, tiền tệ của địa bàn tiếp nhận đầu tư.
- Trong điều kiện nền kinh tế mở, nếu sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa trên
địa bàn tiếp nhận đầu tư nước ngoài yếu thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có thể dẫn
đến sự lũng đoạn và làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước.
Bởi vì, các doanh nghiệp FDI thường chiếm ưu thế về kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm tổ chức
quản lý so với doanh nghiệp trong nước.
Như vậy, doanh nghiệp FDI không chỉ mang lại những tác động tích cực mà còn
ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên,
chúng ta cũng không nên quá lo ngại về điều này, bởi lẽ bất kỳ một loại hình doanh nghiệp
nào trong nền kinh tế thị trường cũng đều có mặt trái của nó. Vấn đề đặt ra là, quản lý nhà
nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu trực tiếp nước ngoài phải ngăn chặn, giảm
kịp thời các thông tin thị trường về công nghệ, giá cả của nước chủ nhà để khai khống giá trị máy móc thiết bị công nghệ góp vốn, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ không thích hợp, lạc hậu, làm thiệt hại đến lợi ích của phía nhận đầu tư. - Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm tăng sự phụ thuộc về vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ của địa bàn nhận đầu tư vào phía nước ngoài, vì các qui trình kỹ thuật, công nghệ sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ hàng hoá do các nhà đầu tư nắm giữ và chỉ được chuyển giao dần dần. Sự phụ thuộc càng nhiều thì tính chủ động của địa bàn nhận đầu tư càng yếu. Do vậy, nếu không tranh thủ được những tác động tích cực của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài để nhanh chóng phát triển công nghiệp nội địa, tạo nguồn tích lũy, đa dạng hóa thị trường tiêu thụ, tiếp nhận kỹ thuật mới, thì địa bàn tiếp nhận đầu tư khó có khả năng giảm và loại bỏ được sự phụ thuộc. - Các nhà đầu tư nước ngoài có thể bằng nhiều cách làm tổn hại đến chủ quyền kinh tế của địa bàn tiếp nhận đầu tư. Thông qua các công ty xuyên quốc gia, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có thể gây ảnh hưởng tới chính trị của địa bàn tiếp nhận đầu tư, gây sức ép đối với Chính phủ, tác động không lành mạnh đến cơ cấu xã hội. Mục tiêu chiến lược của họ không phải bao giờ cũng thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế của địa bàn nhận đầu tư, do đó, các nhà đầu tư nước ngoài có thể có quan điểm, ý kiến trái ngược hoặc có hành vi vi phạm các chính sách quản lý tài chính, tiền tệ của địa bàn tiếp nhận đầu tư. - Trong điều kiện nền kinh tế mở, nếu sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa trên địa bàn tiếp nhận đầu tư nước ngoài yếu thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có thể dẫn đến sự lũng đoạn và làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Bởi vì, các doanh nghiệp FDI thường chiếm ưu thế về kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm tổ chức quản lý so với doanh nghiệp trong nước. Như vậy, doanh nghiệp FDI không chỉ mang lại những tác động tích cực mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá lo ngại về điều này, bởi lẽ bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường cũng đều có mặt trái của nó. Vấn đề đặt ra là, quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải ngăn chặn, giảm
thiểu những ảnh hưởng tiêu cực các doanh nghiệp này, đồng thời tạo điều kiện hấp thu tối
đa các tác động tích cực của chúng, thu hút ngày càng nhiều hơn lượng vốn FDI, qua đó
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa bàn tiếp nhận đầu trong bối cảnh cạnh tranh thu
hút FDI trên thế giới diễn ra ngày một khốc liệt.
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh
Quản một chức năng bắt nguồn từ tính hội của lao động trong điều kiện
phát triển kinh tế quản lý được xem là thước đo của hầu hết các hoạt động xã hội.
Từ khái niệm về quản lý chúng ta thể hiểu, quản lý nhà nước là hoạt động chấp
hành và điều hành của các quan hành chính nhà nước được tiến hành trên sở pháp
luật và để thi hành pháp luật.
Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù các quốc gia trên thế giới có nhiều chế độ chính
trị khác nhau, nhưng đều điểm chung ngày càng coi trọng vai trò quản lý, điều tiết
của Nhà nước. Như vậy, vai trò quản kinh tế của Nhà nước, trong đó có quản nhà
nước đối với doanh nghiệp ngày càng được tăng thêm.
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp một bộ phận, đồng thời là nội dung cơ
bản của quản lý nhà nước về kinh tế, nên Nhà nước có chức năng và nhiệm vụ quản lý đối
với tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhưng không được can thiệp trực
tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế nói chung, doanh nghiệp FDI nói riêng hoàn toàn quyền tự chủ khi tiến
hành hoạt động kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm.
Doanh nghiệp FDI cũng như các đơn vị kinh doanh khác, ngoài sự chi phối của thị
trường, còn chịu sự điểu chỉnh bởi hệ thống pháp luật và quản lý vĩ mô của Nhà nước kể từ
khi thành lập cho đến khi giải thể. Quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp FDI trong nền
kinh tế thị trường chủ yếu là quan hệ quản lý bằng pháp luật, cơ chế chính sách, kế hoạch,
định hướng, hỗ trợ, điều chỉnh và không chế trong phạm vi cần thiết để đảm bảo lợi ích chung
của quốc gia.
thiểu những ảnh hưởng tiêu cực các doanh nghiệp này, đồng thời tạo điều kiện hấp thu tối đa các tác động tích cực của chúng, thu hút ngày càng nhiều hơn lượng vốn FDI, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa bàn tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI trên thế giới diễn ra ngày một khốc liệt. 1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh Quản lý là một chức năng bắt nguồn từ tính xã hội của lao động trong điều kiện phát triển kinh tế quản lý được xem là thước đo của hầu hết các hoạt động xã hội. Từ khái niệm về quản lý chúng ta có thể hiểu, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù các quốc gia trên thế giới có nhiều chế độ chính trị khác nhau, nhưng đều có điểm chung là ngày càng coi trọng vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước. Như vậy, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, trong đó có quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ngày càng được tăng thêm. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là một bộ phận, đồng thời là nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế, nên Nhà nước có chức năng và nhiệm vụ quản lý đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhưng không được can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung, doanh nghiệp FDI nói riêng hoàn toàn có quyền tự chủ khi tiến hành hoạt động kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm. Doanh nghiệp FDI cũng như các đơn vị kinh doanh khác, ngoài sự chi phối của thị trường, còn chịu sự điểu chỉnh bởi hệ thống pháp luật và quản lý vĩ mô của Nhà nước kể từ khi thành lập cho đến khi giải thể. Quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp FDI trong nền kinh tế thị trường chủ yếu là quan hệ quản lý bằng pháp luật, cơ chế chính sách, kế hoạch, định hướng, hỗ trợ, điều chỉnh và không chế trong phạm vi cần thiết để đảm bảo lợi ích chung của quốc gia.
Như vậy, Nhà nước với doanh nghiệp FDI có mối quan hệ qua lại với nhau và tác
động lẫn nhau, bởi vì:
Về phía Nhà nước, việc thiết lập quản lý đối với các doanh nghiệp FDI là cần thiết
vì quan hệ giữa từng doanh nghiệp với nền kinh tế nói chung là quan hệ giữa bộ phận
tổng thể, nhiều khi quyền lợi giữa bộ phận tổng thể không thống nhất, thậm chí còn
mâu thuẫn nhau. Vai trò của quản lý nhà nước là để cho lợi ích của từng doanh nghiệp FDI
không lấn át nhau, không làm tổn hại tới lợi ích các quốc gia và của doanh nghiệp khác.
Về phía các doanh nghiệp FDI, cũng cần có sự quản lý của Nhà nước,đó chính
là chỗ dựa về mặt pháp lý để doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước không những đóng vai trò
trong việc tạo lập môi trường kinh doanh, mà còn hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy doanh
nghiệp FDI phát triển. Phần lớn hoạt động này thực hiện thông qua sự điều tiết, quản
của Nhà nước. Mặt khác, trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp FDI, mỗi bước đi từ
khi khởi đầu đến kết thúc đều phải gắn liền vào quá trình quản lý liên tục cả dưới góc độ vĩ
mô và vi mô. Doanh nghiệp FDI có thành công hay không, hoạt động có theo chiến lược
phát triển chung của xã hội hay không, không những phụ thuộc vào quản lý kinh tế vi
của bản thân doanh nghiệp, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà
nước.
Với những trình bày trên cho thấy, Nhà nước với các doanh nghiệp FDI có mối
quan hệ qua lại chắt chẽ với nhau. Nhà nước có ảnh hưởng quyết định tới cách thức hoạt
động của doanh nghiệp FDI; ngược lại, sự phát triển và lớn mạnh của các doanh nghiệp
FDI ảnh hưởng tới sức mạnh của Nhà nước và tác động đến kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhà nước có nhiệm vụ hướng các doanh nghiệp FDI sản xuất kinh doanh theo định hướng
mà nhà nước đã chọn, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở pháp
luật cho phép. Nhà nước với tư cách chủ thể quản lý có những tác động đến hoạt động
của doanh nghiệp, có thể khuyến khích giúp đỡ doanh nghiệp nếu đem lại hiệu quả kinh tế
- xã hội; hoặc có thể ngăn cản, hạn chế nếu hoạt động của doanh nghiệp FDI không theo
định hướng hay làm tổn hại đến lợi ích quốc gia.
Như vậy, Nhà nước với doanh nghiệp FDI có mối quan hệ qua lại với nhau và tác động lẫn nhau, bởi vì: Về phía Nhà nước, việc thiết lập quản lý đối với các doanh nghiệp FDI là cần thiết vì quan hệ giữa từng doanh nghiệp với nền kinh tế nói chung là quan hệ giữa bộ phận và tổng thể, nhiều khi quyền lợi giữa bộ phận và tổng thể là không thống nhất, thậm chí còn mâu thuẫn nhau. Vai trò của quản lý nhà nước là để cho lợi ích của từng doanh nghiệp FDI không lấn át nhau, không làm tổn hại tới lợi ích các quốc gia và của doanh nghiệp khác. Về phía các doanh nghiệp FDI, cũng cần có sự quản lý của Nhà nước, vì đó chính là chỗ dựa về mặt pháp lý để doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước không những đóng vai trò trong việc tạo lập môi trường kinh doanh, mà còn hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy doanh nghiệp FDI phát triển. Phần lớn hoạt động này thực hiện thông qua sự điều tiết, quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp FDI, mỗi bước đi từ khi khởi đầu đến kết thúc đều phải gắn liền vào quá trình quản lý liên tục cả dưới góc độ vĩ mô và vi mô. Doanh nghiệp FDI có thành công hay không, hoạt động có theo chiến lược phát triển chung của xã hội hay không, không những phụ thuộc vào quản lý kinh tế vi mô của bản thân doanh nghiệp, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Với những trình bày ở trên cho thấy, Nhà nước với các doanh nghiệp FDI có mối quan hệ qua lại chắt chẽ với nhau. Nhà nước có ảnh hưởng quyết định tới cách thức hoạt động của doanh nghiệp FDI; ngược lại, sự phát triển và lớn mạnh của các doanh nghiệp FDI ảnh hưởng tới sức mạnh của Nhà nước và tác động đến kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước có nhiệm vụ hướng các doanh nghiệp FDI sản xuất kinh doanh theo định hướng mà nhà nước đã chọn, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở pháp luật cho phép. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý có những tác động đến hoạt động của doanh nghiệp, có thể khuyến khích giúp đỡ doanh nghiệp nếu đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội; hoặc có thể ngăn cản, hạn chế nếu hoạt động của doanh nghiệp FDI không theo định hướng hay làm tổn hại đến lợi ích quốc gia.
Trong hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI, yếu tố quan trọng có
nghĩa quyết định đến mức độ thành công của quản lý là xác định rõ mục tiêu quản lý, từ đó
làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI.
1.2.2. Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài
Việc xác định mục tiêu quản lý n nước đối với doanh nghiệp vốn đầu
trực tiếp nước ngoài điểm khởi đầu khâu rất quan trọng của quá trình quản lý.
Mục tiêu quản lý nnước đối với doanh nghiệp FDI nhằm giải quyết các vấn đề
bản trong quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài và suy cho cùng là làm thế nào để cho
các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả phù hợp với chiếnợc phát triển kinh tế -
hội của địa bàn tiếp nhận đầu . Chủ trương của Đảng Nhà ớc ta tạo điều
kiện để doanh nghiệp FDI phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế, hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm.
Trên cơ sở đó, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm đạt các mục tiêu sau:
Thông qua quản nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm không ngừng hoàn
thiện hệ thống pháp luật, chế chính sách thu hút, nâng cao hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài thực sự trở thành một bộ phận quan trọng đóng
góp cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã
khẳng định: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu trực tiếp của nước ngoài”[4, tr.240],
“xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các hội đầu tư”[4, tr.239], “Đơn
giản hoá thủ tục cấp giấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài”, “ Tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển” [4, tr.240].
Quản nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm kết hợp tối ưu giữa nguồn lực
bên ngoài với nguồn lực trong nước, vừa mở cửa rộng rãi với bên ngoài nhằm tranh thủ
các lợi thế của nhà đầu tư, vừa tính đến bảo hộ một cách hợp để các doanh nghiệp
vốn đầu tư trong nước có thời gian thích ứng để phát triển và đủ khả năng hội nhập kinh tế
quốc tế. Do đó, quản lý nhà nước phải làm sao phát huy hết khả năng tiềm tàng của doanh
nghiệp FDI, tạo ra nhịp sống kinh tế cần thiết để khơi dậy nguồn nội lực của địa bàn tiếp
nhận đầu tư.
Trong hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI, yếu tố quan trọng có nghĩa quyết định đến mức độ thành công của quản lý là xác định rõ mục tiêu quản lý, từ đó làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. 1.2.2. Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Việc xác định mục tiêu quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là điểm khởi đầu và là khâu rất quan trọng của quá trình quản lý. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI là nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản trong quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài và suy cho cùng là làm thế nào để cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn tiếp nhận đầu tư. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tạo điều kiện để doanh nghiệp FDI phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Trên cơ sở đó, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm đạt các mục tiêu sau: Thông qua quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách thu hút, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực sự trở thành một bộ phận quan trọng đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “ Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài”[4, tr.240], “xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư”[4, tr.239], “Đơn giản hoá thủ tục cấp giấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài”, “ Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển” [4, tr.240]. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm kết hợp tối ưu giữa nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước, vừa mở cửa rộng rãi với bên ngoài nhằm tranh thủ các lợi thế của nhà đầu tư, vừa tính đến bảo hộ một cách hợp lý để các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước có thời gian thích ứng để phát triển và đủ khả năng hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, quản lý nhà nước phải làm sao phát huy hết khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp FDI, tạo ra nhịp sống kinh tế cần thiết để khơi dậy nguồn nội lực của địa bàn tiếp nhận đầu tư.