LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội

7,654
794
95
công ty: một Tổng công ty sử dụng 15.000 lao động; một Tổng công ty sử dụng 5.000 lao
động trong 1 năm họ không đóng BHXH hơn 15 tỷ đồng; nếu tính trong cả nước đối với
khu vực tư nhân thì quỹ BHXH đã thất thu một lượng tiền rất lớn; còn nếu tính cho tất cả
các khu vực khác thì con số còn lớn hơn nhiều. Các phương tiện thông tin đại chúng cũng
đã lên tiếng cảnh báo tình trạng vi phạm chính sách BHXH của Công ty TNHH Thiên Hộ -
thành phố Hồ Chí Minh (công ty liên doanh với nước ngoài) sử dụng thường xuyên 2.600
lao động, từ năm 1997-2002, hàng tháng công ty vẫn thu 5% tiền lương của người lao động
đóng BHXH, nhưng lại không đóng BHXH cho cơ quan BHXH với số tiền lên đến 22 tỷ
đồng. Việc nợ đọng hoặc trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp,
trước hết làm thất thu quỹ BHXH, nhưng điều quan trọng hơn làm ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của người lao động, bởi vì theo quy định hiện nay, nếu người lao động, đơn vị sử
dụng lao động không đóng BHXH thì cơ quan BHXH quyền từ chối giải quyết chế
độ, chính sách BHXH cho người lao động.
Theo báo cáo của BHXH các tỉnh, thành phố, từ khi Nghị định số 38/NĐ-CP
ngày 25/6/1996 của Chính phủ có hiệu lực thi hành, số đơn vị bị phát hiện các vi
phạm chính sách BHXH lên tới hàng nghìn, nhưng số đơn vị bị xử phạt chỉ chiếm một tỷ l
rất nhỏ. Mức xử phạt này đã được tăng lên 20.000.000 đồng (Pháp lệnh Xử vi phạm
hành chính được Quốc hội khóa X thông qua ngày 2/7/2002), nhưng cơ chế thực hiện vẫn
chưa có gì thay đổi. Do vậy, trên thực tế chưa có tác dụng ngăn chặn các vi phạm chính
sách BHXH của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH
(về nội dung này, Điều 50 Luật An sinh xã hội Thái Lan quy định: Người sử dụng lao động
nào không chịu nộp các khoản đóng góp hoặc khoản tiền phải nộp thêm, hoặc không chịu
nộp đầy đủ thì Tổng thư ký cơ quan An sinh hội có quyền ký lệch tịch thu, tịch biên
và bán đấu giá tài sản của người đó tới mức cần thiết đủ để trả cho các khoản đóng góp
BHXH chưa nộp).
Năm là: Chưa có cơ chế cụ thể để thực hiện sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước
đối với quỹ BHXH. Hiện tại chính sách BHXH mới chỉ quy định: thời gian m việc
trước 1/1/1995 của cán bộ, công nhân viên chức trong biên chế nhà nước thời gian
phục vụ trong lực lượng vũ trang của quân nhân, công an nhân dân được coi là có đóng
BHXH; kinh phí chi trả do ngân sách nhà nước đảm bảo; quỹ BHXH chỉ chịu trách
công ty: một Tổng công ty sử dụng 15.000 lao động; một Tổng công ty sử dụng 5.000 lao động trong 1 năm họ không đóng BHXH hơn 15 tỷ đồng; nếu tính trong cả nước đối với khu vực tư nhân thì quỹ BHXH đã thất thu một lượng tiền rất lớn; còn nếu tính cho tất cả các khu vực khác thì con số còn lớn hơn nhiều. Các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã lên tiếng cảnh báo tình trạng vi phạm chính sách BHXH của Công ty TNHH Thiên Hộ - thành phố Hồ Chí Minh (công ty liên doanh với nước ngoài) sử dụng thường xuyên 2.600 lao động, từ năm 1997-2002, hàng tháng công ty vẫn thu 5% tiền lương của người lao động đóng BHXH, nhưng lại không đóng BHXH cho cơ quan BHXH với số tiền lên đến 22 tỷ đồng. Việc nợ đọng hoặc trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp, trước hết làm thất thu quỹ BHXH, nhưng điều quan trọng hơn làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động, bởi vì theo quy định hiện nay, nếu người lao động, đơn vị sử dụng lao động không đóng BHXH thì cơ quan BHXH có quyền từ chối giải quyết chế độ, chính sách BHXH cho người lao động. Theo báo cáo của BHXH các tỉnh, thành phố, từ khi Nghị định số 38/NĐ-CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ có hiệu lực thi hành, số đơn vị bị phát hiện có các vi phạm chính sách BHXH lên tới hàng nghìn, nhưng số đơn vị bị xử phạt chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Mức xử phạt này đã được tăng lên 20.000.000 đồng (Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội khóa X thông qua ngày 2/7/2002), nhưng cơ chế thực hiện vẫn chưa có gì thay đổi. Do vậy, trên thực tế chưa có tác dụng ngăn chặn các vi phạm chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH (về nội dung này, Điều 50 Luật An sinh xã hội Thái Lan quy định: Người sử dụng lao động nào không chịu nộp các khoản đóng góp hoặc khoản tiền phải nộp thêm, hoặc không chịu nộp đầy đủ thì Tổng thư ký cơ quan An sinh xã hội có quyền ký lệch tịch thu, tịch biên và bán đấu giá tài sản của người đó tới mức cần thiết đủ để trả cho các khoản đóng góp BHXH chưa nộp). Năm là: Chưa có cơ chế cụ thể để thực hiện sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước đối với quỹ BHXH. Hiện tại chính sách BHXH mới chỉ quy định: thời gian làm việc trước 1/1/1995 của cán bộ, công nhân viên chức trong biên chế nhà nước và thời gian phục vụ trong lực lượng vũ trang của quân nhân, công an nhân dân được coi là có đóng BHXH; kinh phí chi trả do ngân sách nhà nước đảm bảo; quỹ BHXH chỉ chịu trách
nhiệm đảm bảo kinh phí chi trả cho các đối tượng được hưởng lương hưu trợ cấp
BHXH từ 1995 trở đi, bởi vì số người này đều có thời gian làm việc trước năm 1995 (là
thời gian người lao động chưa đóng BHXH, nhưng nay quỹ BHXH phải chi trả). Còn sự
hỗ trợ của ngân sách nhà nước đối với quỹ BHXH cho đến nay vẫn chưa thực hiện
được, việc cân đối thu - chi quỹ BHXH gặp nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện hiện
nay, số người hưởng lương hưu trợ cấp BHXH đang xu hướng tăng nhanh qua
từng năm. Ta có thể thấy được tình hình này qua biểu dưới đây.
Biểu số 2.4: Đối tượng và kinh phí chi trả BHXH do NSNN
và quỹ BHXH đảm bảo
Năm
Ngân sách nhà nước đảm bảo Quỹ BHXH đảm bảo
Đối tượng
(người)
Tiền chi trả
(triệu
đồng)
% so với
năm trước
Đối tượng
(người)
Tiền chi
trả (triệu
đồng)
% so với
năm trước
1 2 3 4 5 6 7
199
6
1.750.418
4.387.903
100 20.618 383.144 100
199
7
1.716.257
5.163.093
+25,7 43.566 593.525 +54,9
199
8
1.683.500
5.128.425
-0,7 70.077 751.629 +26,6
199
9
1.650.709
5.015.620
-2,2 105.303 940.351 +25,1
200
0
1.616.673
6.239.494
+24,4 145.730 1.330.680
+41,5
200
1
1.588.545
7.321.410
+17,3 191.135 1.856.339
+39,5
nhiệm đảm bảo kinh phí chi trả cho các đối tượng được hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH từ 1995 trở đi, bởi vì số người này đều có thời gian làm việc trước năm 1995 (là thời gian người lao động chưa đóng BHXH, nhưng nay quỹ BHXH phải chi trả). Còn sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước đối với quỹ BHXH cho đến nay vẫn chưa thực hiện được, việc cân đối thu - chi quỹ BHXH gặp nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện hiện nay, số người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH đang có xu hướng tăng nhanh qua từng năm. Ta có thể thấy được tình hình này qua biểu dưới đây. Biểu số 2.4: Đối tượng và kinh phí chi trả BHXH do NSNN và quỹ BHXH đảm bảo Năm Ngân sách nhà nước đảm bảo Quỹ BHXH đảm bảo Đối tượng (người) Tiền chi trả (triệu đồng) % so với năm trước Đối tượng (người) Tiền chi trả (triệu đồng) % so với năm trước 1 2 3 4 5 6 7 199 6 1.750.418 4.387.903 100 20.618 383.144 100 199 7 1.716.257 5.163.093 +25,7 43.566 593.525 +54,9 199 8 1.683.500 5.128.425 -0,7 70.077 751.629 +26,6 199 9 1.650.709 5.015.620 -2,2 105.303 940.351 +25,1 200 0 1.616.673 6.239.494 +24,4 145.730 1.330.680 +41,5 200 1 1.588.545 7.321.410 +17,3 191.135 1.856.339 +39,5
200
2
1.557.004
7.033.016
225.439 2.585.554
Nguồn: Báo cáo quyết toán hàng năm của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Nhìn vào các số liệu trên, ta thấy ngược lại với xu hướng giảm chi của ngân
sách nhà nước cho các đối tượng hưởng BHXH trước m 1995 xu hướng tăng chi
của quỹ BHXH cho các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH từ năm 1995 trở
đi, bình quân từ năm 1996-2006, mỗi năm tăng 37,8%, trong khi đó số thu BHXH cùng
thời gian này chỉ tăng bình quân 20,1%. Với mức tăng này, nếu không có sự đóng, hỗ trợ
của ngân sách nhà nước để chi trả lương hưu cho người lao động thuộc khu vực Nhà
nước về hưu kể từ 1995, quỹ BHXH sẽ dần bị thâm hụt và mất khả năng chi trả.
Về thuyết cũng như thực tế các đối tượng hưởng BHXH do ngân sách nhà
nước đảm bảo chi trả sẽ giảm dần qua các năm (giảm khoảng 2%/năm) như vậy, số
tiền chi trả cũng sẽ giảm theo. Tuy nhiên, nhìn vào biểu số 5 ta thấy một số năm có tăng
lên như năm 1997, tăng so với năm 1996 là 25,7%, năm 2000 tăng so với năm 1999
24,4%… nguyên nhân là do cơ quan BHXH phải giải quyết các trường hợp tồn đọng từ
năm 1995 trở về trước, do Chính phủ bổ sung thêm quyền lợi được hưởng của đối tượng
và do tăng tiền lương tối thiểu.
Sáu là: Chưa có giải pháp hiệu quả cho công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Hiện nay, ngoài việc chủ động nguồn để chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH, quỹ
BHXH mới chủ yếu cho Quỹ hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam,
Bộ Tài chính và các ngân hàng thương mại vay với lãi suất ưu đãi, nên khả năng sinh
lời thấp, thậm chí những năm tỷ lệ lạm phát cao hơn lãi suất cho vay, quỹ BHXH
không bảo toàn được giá trị, mà còn bị thâm hụt so với sức mua thực tế của đồng tiền.
Đây điều nhiều chuyên gia i chính của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
Ngân hàng Thế giới (WB) đã cảnh báo. Để hiểu sâu hơn về hạn chế này, ta có thể xem
các số liệu trong biểu số 6.
Biểu số 2.5: Hoạt động đầu tư, tăng trưởng quỹ BHXH năm 2001
200 2 1.557.004 7.033.016 225.439 2.585.554 Nguồn: Báo cáo quyết toán hàng năm của Bảo hiểm xã hội Việt Nam Nhìn vào các số liệu trên, ta thấy ngược lại với xu hướng giảm chi của ngân sách nhà nước cho các đối tượng hưởng BHXH trước năm 1995 là xu hướng tăng chi của quỹ BHXH cho các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH từ năm 1995 trở đi, bình quân từ năm 1996-2006, mỗi năm tăng 37,8%, trong khi đó số thu BHXH cùng thời gian này chỉ tăng bình quân 20,1%. Với mức tăng này, nếu không có sự đóng, hỗ trợ của ngân sách nhà nước để chi trả lương hưu cho người lao động thuộc khu vực Nhà nước về hưu kể từ 1995, quỹ BHXH sẽ dần bị thâm hụt và mất khả năng chi trả. Về lý thuyết cũng như thực tế các đối tượng hưởng BHXH do ngân sách nhà nước đảm bảo chi trả sẽ giảm dần qua các năm (giảm khoảng 2%/năm) và như vậy, số tiền chi trả cũng sẽ giảm theo. Tuy nhiên, nhìn vào biểu số 5 ta thấy một số năm có tăng lên như năm 1997, tăng so với năm 1996 là 25,7%, năm 2000 tăng so với năm 1999 là 24,4%… nguyên nhân là do cơ quan BHXH phải giải quyết các trường hợp tồn đọng từ năm 1995 trở về trước, do Chính phủ bổ sung thêm quyền lợi được hưởng của đối tượng và do tăng tiền lương tối thiểu. Sáu là: Chưa có giải pháp hiệu quả cho công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Hiện nay, ngoài việc chủ động nguồn để chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH, quỹ BHXH mới chủ yếu cho Quỹ hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam, Bộ Tài chính và các ngân hàng thương mại vay với lãi suất ưu đãi, nên khả năng sinh lời thấp, thậm chí có những năm tỷ lệ lạm phát cao hơn lãi suất cho vay, quỹ BHXH không bảo toàn được giá trị, mà còn bị thâm hụt so với sức mua thực tế của đồng tiền. Đây là điều mà nhiều chuyên gia tài chính của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã cảnh báo. Để hiểu sâu hơn về hạn chế này, ta có thể xem các số liệu trong biểu số 6. Biểu số 2.5: Hoạt động đầu tư, tăng trưởng quỹ BHXH năm 2001
Nơi đầu tư
Tiền đầu tư
(tỷ đồng)
Lãi suất đầu
tư (%/năm)
Tiền lãi thu
từ đầu tư (tỷ
đồng)
Mua công trái chính phủ 700 10 70
Mua trái phiếu kho bạc 1.000 5,4 54
Quỹ hỗ trợ phát triển 7.700 5,4 415
Ngân hàng ĐTPT Việt
Nam
3.200 5,1 163
Bộ Tài chính 2.078 3,6 74
Các ngân hàng thương mại 6.374 6,6 400
Tổng số 21.052 1.100
Nguồn: Báo cáo quyết toán năm 2001 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Trong tổng số 21.052 tỷ đồng đầu tư, BHXH Việt Nam chỉ được chủ động thực
hiện đầu tư vào các ngân hàng thương mại với số tiền 6.374 tỷ đồng (chiếm 30,3%), còn
lại 14.678 tỷ đồng (69,7%) là đầu tư theo chỉ định của Chính phủ với lãi suất thấp. Với
các số liệu trên, ta nhận thấy chỉ có khoản đầu tư vào Công trái Chính phủ và các ngân
hàng thương mại là có khả năng tăng trưởng, còn vào các địa chỉ khác, khả năng này rất
hạn chế. Ta giả sử, nếu các khoản đầu còn lại đều được đầu vào các ngân hàng
thương mại với lãi suất 6,6%/năm, thì trong năm 2001 sẽ thu về được 1.316 tỷ đồng,
nhiều hơn số lãi đã thu được 216 tỷ đồng. Trong điều kiện hiện nay, khi tốc độ tăng thu
BHXH còn có sự chênh lệch quá lớn với tốc độ tăng chi, thì 216 tỷ đồng là con số rất có
ý nghĩa đối với việc bảo toàn và làm tăng khả năng chi trả của quỹ BHXH.
- Nguyên nhân:
Thứ nhất: ảnh hưởng của chiến tranh của chính sách BHXH trong mô hình
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, trải qua hơn 30 năm, từ khi có Điều lệ tạm thời
về các chế độ BHXH thi hành từ m 1962, chúng ta đã xây dựng và thực hiện chính
sách BHXH trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, người lao động không phải
Nơi đầu tư Tiền đầu tư (tỷ đồng) Lãi suất đầu tư (%/năm) Tiền lãi thu từ đầu tư (tỷ đồng) Mua công trái chính phủ 700 10 70 Mua trái phiếu kho bạc 1.000 5,4 54 Quỹ hỗ trợ phát triển 7.700 5,4 415 Ngân hàng ĐTPT Việt Nam 3.200 5,1 163 Bộ Tài chính 2.078 3,6 74 Các ngân hàng thương mại 6.374 6,6 400 Tổng số 21.052 1.100 Nguồn: Báo cáo quyết toán năm 2001 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam Trong tổng số 21.052 tỷ đồng đầu tư, BHXH Việt Nam chỉ được chủ động thực hiện đầu tư vào các ngân hàng thương mại với số tiền 6.374 tỷ đồng (chiếm 30,3%), còn lại 14.678 tỷ đồng (69,7%) là đầu tư theo chỉ định của Chính phủ với lãi suất thấp. Với các số liệu trên, ta nhận thấy chỉ có khoản đầu tư vào Công trái Chính phủ và các ngân hàng thương mại là có khả năng tăng trưởng, còn vào các địa chỉ khác, khả năng này rất hạn chế. Ta giả sử, nếu các khoản đầu tư còn lại đều được đầu tư vào các ngân hàng thương mại với lãi suất 6,6%/năm, thì trong năm 2001 sẽ thu về được 1.316 tỷ đồng, nhiều hơn số lãi đã thu được 216 tỷ đồng. Trong điều kiện hiện nay, khi tốc độ tăng thu BHXH còn có sự chênh lệch quá lớn với tốc độ tăng chi, thì 216 tỷ đồng là con số rất có ý nghĩa đối với việc bảo toàn và làm tăng khả năng chi trả của quỹ BHXH. - Nguyên nhân: Thứ nhất: ảnh hưởng của chiến tranh và của chính sách BHXH trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, trải qua hơn 30 năm, từ khi có Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH thi hành từ năm 1962, chúng ta đã xây dựng và thực hiện chính sách BHXH trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, người lao động không phải
đóng BHXH; kinh phí chi trả các chế độ BHXH phần lớn do ngân sách nhà nước đảm
bảo. Cơ chế này dẫn đến tình trạng:
- Về phía người sử dụng lao động cũng như người lao động không quan tâm
đến việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH mà chỉ quan tâm đến quyền lợi được hưởng về
BHXH.
- Về phía Nhà nước, phải tập trung sức người, sức của vào cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, nên mới chỉ quan tâm đến hiệu quả hội của chính sách BHXH,
còn hiệu quả kinh tế chưa trở thành mục tiêu được quan tâm, do vậy, khi mới xây dựng,
hoạch định chính sách BHXH theo chế mới, nhất là từ năm 1995 khó tránh khỏi
những ảnh hưởng của thời kỳ bao cấp, dẫn đến những bất cập, những tồn tại, hạn chế
trong các chính sách BHXH đã ban hành.
Thứ hai: Hiệu lực quản hoạt động BHXH còn thấp: quy định của pháp luật
trong việc xử lý các vi phạm chính sách BHXH chưa rõ về cơ chế, hiệu quả kém. Theo
quy định hiện hành, chỉ có Thanh tra lao động và Thanh tra Liên ngành mới có quyền xử
phạt các đơn vị khi vi phạm chính sách BHXH. Trong khi đó lực lượng Thanh tra lao động
lại quá mỏng, theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh hội, trên phạm vi
toàn quốc chỉ gần 100 người; con số này nếu so với trên 90.000 đơn vị sử dụng lao
động thì quá nhỏ. Hơn nữa, nhiệm vụ thanh tra, phát hiện xử các vi phạm chính
sách BHXH lại không phải là trách nhiệm chính của lực lượng này.
Thứ ba: Thiếu một hệ thống chính sách BHXH đồng bộ, hệ thống chính sách
BHXH ở nước ta vừa thiếu lại vừa thừa, tính khả thi của một số chính sách còn thấp; sự
gắn kết giữa các chính sách chưa chặt chẽ, nhất trong các quy định của pháp luật về
mức đóng và hưởng BHXH, một số chính sách chỉ quan tâm đến quyền được hưởng của
người lao động không tính đến nguồn để đảm bảo chi trả. Nguyên nhân chính của
tình hình này là chính sách BHXH của ta còn nặng về sửa đổi, bổ sung để giải quyết các
tồn tại, phát sinh trước mắt, chưa tầm chiến lược lâu dài phù hợp với tình hình của
đất nước, của các nước trong khu vực và trên thế giới. Những chuyên gia và cơ quan có
trách nhiệm hoạch định, xây dựng chính sách BHXH chưa nắm chắc cũng chưa
lường hết những diễn biến ở sở, trong nước và tình hình thế giới; chưa thường
đóng BHXH; kinh phí chi trả các chế độ BHXH phần lớn do ngân sách nhà nước đảm bảo. Cơ chế này dẫn đến tình trạng: - Về phía người sử dụng lao động cũng như người lao động không quan tâm đến việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH mà chỉ quan tâm đến quyền lợi được hưởng về BHXH. - Về phía Nhà nước, vì phải tập trung sức người, sức của vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nên mới chỉ quan tâm đến hiệu quả xã hội của chính sách BHXH, còn hiệu quả kinh tế chưa trở thành mục tiêu được quan tâm, do vậy, khi mới xây dựng, hoạch định chính sách BHXH theo cơ chế mới, nhất là từ năm 1995 khó tránh khỏi những ảnh hưởng của thời kỳ bao cấp, dẫn đến những bất cập, những tồn tại, hạn chế trong các chính sách BHXH đã ban hành. Thứ hai: Hiệu lực quản lý hoạt động BHXH còn thấp: quy định của pháp luật trong việc xử lý các vi phạm chính sách BHXH chưa rõ về cơ chế, hiệu quả kém. Theo quy định hiện hành, chỉ có Thanh tra lao động và Thanh tra Liên ngành mới có quyền xử phạt các đơn vị khi vi phạm chính sách BHXH. Trong khi đó lực lượng Thanh tra lao động lại quá mỏng, theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trên phạm vi toàn quốc chỉ có gần 100 người; con số này nếu so với trên 90.000 đơn vị sử dụng lao động thì quá nhỏ. Hơn nữa, nhiệm vụ thanh tra, phát hiện và xử lý các vi phạm chính sách BHXH lại không phải là trách nhiệm chính của lực lượng này. Thứ ba: Thiếu một hệ thống chính sách BHXH đồng bộ, hệ thống chính sách BHXH ở nước ta vừa thiếu lại vừa thừa, tính khả thi của một số chính sách còn thấp; sự gắn kết giữa các chính sách chưa chặt chẽ, nhất là trong các quy định của pháp luật về mức đóng và hưởng BHXH, một số chính sách chỉ quan tâm đến quyền được hưởng của người lao động mà không tính đến nguồn để đảm bảo chi trả. Nguyên nhân chính của tình hình này là chính sách BHXH của ta còn nặng về sửa đổi, bổ sung để giải quyết các tồn tại, phát sinh trước mắt, chưa có tầm chiến lược lâu dài phù hợp với tình hình của đất nước, của các nước trong khu vực và trên thế giới. Những chuyên gia và cơ quan có trách nhiệm hoạch định, xây dựng chính sách BHXH chưa nắm chắc và cũng chưa lường hết những diễn biến ở cơ sở, ở trong nước và tình hình thế giới; chưa thường
xuyên tổng kết thực tiễn để rút ra bài học, kinh nghiệm về tính quy luật của hoạt động
BHXH trong cơ chế thị trường.
2.2.2.Thực trạng quản lý chi bảo hiểm xã hội
Chi trả các chế độ BHXH là bước tiếp theo và cũng là kết quả của các hoạt
động trước đó là thu BHXH xét duyệt hồ sơ của người lao động khi đủ điều kiện
hưởng BHXH theo quy định của pháp luật. Chi trả các chế độ BHXH là hoạt động liên
quan trực tiếp đến tiền nhằm đảm bảo ổn định đời sống và quyền lợi chính đáng của
người lao động trong quá trình làm việc. vậy, pháp luật về quản chi BHXH đã
được quy định và không ngừng sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện, qua từng thời kỳ phát
triển của đất nước, nhất là từ năm 1995 trở lại đây.
Nghiên cứu pháp luật về quản chi BHXH chúng ta có thể xem xét trên hai
giác độ. Thứ nhất, là xem xét đến việc quản lý các nguồn chi trả. Với đặc thù hoạt động
BHXH của nước ta, kinh phí để chi trả cho các chế độ BHXH được đảm bảo từ hai
nguồn: ngân sách nhà nước và quỹ BHXH, các nguồn chi trả này chỉ thực sự được tách
biệt rõ từ năm 1995. Thứ hai, xem xét việc quản lý tổ chức chi trả BHXH của
quan chức năng. Việc xem xét trên hai giác độ này cũng chỉ mang tính tương đối
nhằm m những mặt được, chưa được trong quá trình thực thi pháp luật về chi
BHXH, bởi vì cả hai giác độ đều nhằm đạt được mục đích là bảo đảm chi trả đúng, chi
trả kịp thời an toàn cho người lao động khi họ đủ điều kiện để hưởng các chế độ
BHXH, đồng thời tránh gây thất thoát cho ngân sách nhà nước và quỹ BHXH do chi trả
sai, chi trả không đúng và các quy định của pháp luật.
2.2.2.1. Thời kỳ trước năm 1995
Đây thời kỳ chính sách BHXH của nước ta thực hiện trong chế bao cấp
(mặc dù từ năm 1993 đã bắt đầu có sự đổi mới chính sách BHXH theo cơ chế thị trường
nhưng trên thực tế vẫn chưa thực hiện được) nguồn thu BHXH đã được quy định nhưng
kết quả thu vào quỹ BHXH rất thấp. vậy, kinh phí để chi trả các chế độ BHXH
chủ yếu là từ nguồn ngân sách nhà nước đảm bảo (xem kết quả trong biểu số 2.1 và số
2.2 ở phần trước).
xuyên tổng kết thực tiễn để rút ra bài học, kinh nghiệm về tính quy luật của hoạt động BHXH trong cơ chế thị trường. 2.2.2.Thực trạng quản lý chi bảo hiểm xã hội Chi trả các chế độ BHXH là bước tiếp theo và cũng là kết quả của các hoạt động trước đó là thu BHXH và xét duyệt hồ sơ của người lao động khi đủ điều kiện hưởng BHXH theo quy định của pháp luật. Chi trả các chế độ BHXH là hoạt động liên quan trực tiếp đến tiền nhằm đảm bảo ổn định đời sống và quyền lợi chính đáng của người lao động trong quá trình làm việc. Vì vậy, pháp luật về quản lý chi BHXH đã được quy định và không ngừng sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện, qua từng thời kỳ phát triển của đất nước, nhất là từ năm 1995 trở lại đây. Nghiên cứu pháp luật về quản lý chi BHXH chúng ta có thể xem xét trên hai giác độ. Thứ nhất, là xem xét đến việc quản lý các nguồn chi trả. Với đặc thù hoạt động BHXH của nước ta, kinh phí để chi trả cho các chế độ BHXH được đảm bảo từ hai nguồn: ngân sách nhà nước và quỹ BHXH, các nguồn chi trả này chỉ thực sự được tách biệt rõ từ năm 1995. Thứ hai, là xem xét việc quản lý và tổ chức chi trả BHXH của cơ quan chức năng. Việc xem xét trên hai giác độ này cũng chỉ mang tính tương đối và nhằm làm rõ những mặt được, chưa được trong quá trình thực thi pháp luật về chi BHXH, bởi vì cả hai giác độ đều nhằm đạt được mục đích là bảo đảm chi trả đúng, chi trả kịp thời và an toàn cho người lao động khi họ đủ điều kiện để hưởng các chế độ BHXH, đồng thời tránh gây thất thoát cho ngân sách nhà nước và quỹ BHXH do chi trả sai, chi trả không đúng và các quy định của pháp luật. 2.2.2.1. Thời kỳ trước năm 1995 Đây là thời kỳ chính sách BHXH của nước ta thực hiện trong cơ chế bao cấp (mặc dù từ năm 1993 đã bắt đầu có sự đổi mới chính sách BHXH theo cơ chế thị trường nhưng trên thực tế vẫn chưa thực hiện được) nguồn thu BHXH đã được quy định nhưng kết quả thu vào quỹ BHXH là rất thấp. Vì vậy, kinh phí để chi trả các chế độ BHXH chủ yếu là từ nguồn ngân sách nhà nước đảm bảo (xem kết quả trong biểu số 2.1 và số 2.2 ở phần trước).
Trước hết, đối với nguồn quỹ BHXH: Thời kỳ này mặc dù đã có quy định hình
thành quỹ BHXH, nhưng lại phân tán và do các cơ quan khác nhau quản lý.
- Đối với quỹ BHXH do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý để chi trả
cho các chế độ ngắn hạn là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được
pháp luật quy định hình thành trên mức đóng 5% tổng quỹ lương (mức này thực hiện từ
10/1986, trước đó3,7%). Song về chế, thu và chi lại quy định đơn vị sử dụng
lao động được để luôn lại đơn vị để thực hiện chi trả cho người lao động khi bị ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp, số còn lại để chi cho nghỉ ngơi
dưỡng sức và nộp lên công đoàn để chi cho hoạt động của bộ máy trực tiếp làm công tác
BHXH của công đoàn và điều tiết trong phạm vi có thể giữa các đơn vị chi vượt và chi
không hết, tỷ lệ này thường chiếm khoảng 2%.
Do cơ chế trên nên công tác quản lý và chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn của
tổ chức Công đoàn chỉ thực hiện trên sổ sách thông qua báo cáo của các đơn vị, với
chế này, những đơn vị nào có nhiều người ốm đau, thai sản… sẽ chi vượt tỷ lệ 5% cho
phép, trong trường hợp này, đơn vị không những không còn tiền để nộp lên tổ chức
công đoàn mà ngân sách nhà nước còn phải cấp bù nếu quỹ BHXH do công đoàn quản
lý không đủ khả năng cân đối. Thực hiện cơ chế này, việc quản lý chi BHXH có những
mặt được và chưa được: Cụ thể là đơn vị sử dụng lao động chủ động trong việc xét
duyệt chi trả kịp thời cho người lao động khi đủ điều kiện được hưởng. Tuy nhiên
cũng chính chế y lại tạo nên những bất cập hạn chế trong công tác quản chi
BHXH, đó là: Vì được khoán chi nên không ít đơn vị đã lợi dụng cơ chế này để chi hết cho
người lao động, thậm chí cả trong trường hợp người lao động chưa đủ điều kiện được
hưởng theo quy định của pháp luật. Việc quản lý chi trả các chế độ này hoàn toàn do đơn vị
sử dụng lao động "tự biên, tự diễn" trong điều kiện này đơn vị nào thực hiện nghiêm túc thì
tính ưu việt của việc chi trả các chế độ BHXH mới thực sự phát huy tác dụng, ngược lại
nó sẽ là kẽ hở tạo điều kiện để các hiện tượng tiêu cực nảy sinh.
Ngoài việc chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn thời kỳ này tổ chức BHXH của
công đoàn còn kết hợp với các đơn vị sử dụng lao động tổ chức nghỉ dưỡng sức cho
người lao động, đây một ưu đãi, một quy định tốt cho người lao động, nhưng cũng
như các chế độ trên, do không có những quy định cụ thể cũng như cơ chế kiểm tra, giám
Trước hết, đối với nguồn quỹ BHXH: Thời kỳ này mặc dù đã có quy định hình thành quỹ BHXH, nhưng lại phân tán và do các cơ quan khác nhau quản lý. - Đối với quỹ BHXH do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý để chi trả cho các chế độ ngắn hạn là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được pháp luật quy định hình thành trên mức đóng 5% tổng quỹ lương (mức này thực hiện từ 10/1986, trước đó là 3,7%). Song về cơ chế, thu và chi lại quy định là đơn vị sử dụng lao động được để luôn lại ở đơn vị để thực hiện chi trả cho người lao động khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp, số còn lại để chi cho nghỉ ngơi dưỡng sức và nộp lên công đoàn để chi cho hoạt động của bộ máy trực tiếp làm công tác BHXH của công đoàn và điều tiết trong phạm vi có thể giữa các đơn vị chi vượt và chi không hết, tỷ lệ này thường chiếm khoảng 2%. Do cơ chế trên nên công tác quản lý và chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn của tổ chức Công đoàn chỉ thực hiện trên sổ sách thông qua báo cáo của các đơn vị, với cơ chế này, những đơn vị nào có nhiều người ốm đau, thai sản… sẽ chi vượt tỷ lệ 5% cho phép, trong trường hợp này, đơn vị không những không còn tiền để nộp lên tổ chức công đoàn mà ngân sách nhà nước còn phải cấp bù nếu quỹ BHXH do công đoàn quản lý không đủ khả năng cân đối. Thực hiện cơ chế này, việc quản lý chi BHXH có những mặt được và chưa được: Cụ thể là đơn vị sử dụng lao động chủ động trong việc xét duyệt và chi trả kịp thời cho người lao động khi đủ điều kiện được hưởng. Tuy nhiên cũng chính cơ chế này lại tạo nên những bất cập hạn chế trong công tác quản lý chi BHXH, đó là: Vì được khoán chi nên không ít đơn vị đã lợi dụng cơ chế này để chi hết cho người lao động, thậm chí cả trong trường hợp người lao động chưa đủ điều kiện được hưởng theo quy định của pháp luật. Việc quản lý chi trả các chế độ này hoàn toàn do đơn vị sử dụng lao động "tự biên, tự diễn" trong điều kiện này đơn vị nào thực hiện nghiêm túc thì tính ưu việt của việc chi trả các chế độ BHXH mới thực sự phát huy tác dụng, ngược lại nó sẽ là kẽ hở tạo điều kiện để các hiện tượng tiêu cực nảy sinh. Ngoài việc chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn thời kỳ này tổ chức BHXH của công đoàn còn kết hợp với các đơn vị sử dụng lao động tổ chức nghỉ dưỡng sức cho người lao động, đây là một ưu đãi, một quy định tốt cho người lao động, nhưng cũng như các chế độ trên, do không có những quy định cụ thể cũng như cơ chế kiểm tra, giám
sát chặt chẽ, nên hiện tượng người được đi nghỉ nhiều lần trong khi thời gian làm
việc còn ít, nhưng ngược lại không ít người đã thời gian làm việc nhiều, sức khỏe
giảm sút lại không được đi nghỉ theo chế độ này.
Tóm lại, trong chế khoán thu, khoán chi để thực hiện chi trả các chế độ
BHXH ngắn hạn cho người lao động, mặc dù đã đáp ứng được phần nào những yêu cầu
cơ bản của người lao động và đơn vị sử dụng lao động nhưng xét về hiệu quả quản lý thì
rõ ràng là còn thấp, chưa đạt yêu cầu và còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục sửa đổi hoàn
chỉnh.
- Đối với quỹ BHXH do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý để chi trả
các chế độ BHXH dài hạn (hưu trí, mất sức lao động, tử tuất).
Đây là các chế độ có số tiền chi trả chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi BHXH
vậy các quy định của pháp luật cũng đảm bảo chặt chẽ hơn. Theo Nghị định số
39/CP ngày 22/3/1962 quy định nội dung thu, chi của quỹ BHXH của nhà nước thì phần
thu BHXH do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý chưa được đề cập đến, chỉ
đến khi Chính phủ ban hành Nghị định 236/HĐBT ngày 18/9/1985 mới có quy định cụ
thể Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản 8% tổng quỹ lương chi trả cho
3 chế độ BHXH dài hạn. Mặc dù nghị định quy định khá chặt chẽ trách nhiệm đóng góp
của đơn vị sử dụng lao động nhưng trên thực tế số thu thời kỳ này đạt rất thấp, phần chi
cho các chế độ BHXH dài hạn chủ yếu vẫn do ngân sách nhà nước cấp, mặt khác nguồn
thu để hình thành quỹ dùng để chi trả BHXH lại do các Sở Tài chính địa phương đảm
nhận nên hoạt động tổ chức thu, quản lý, sử dụng nguồn quỹ này của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội cũng chỉ tồn tại trên sổ sách và mang tính danh nghĩa nhiều hơn.
Với cơ chế như vậy, cơ quan Lao động Thương binh và Xã hội trên thực tế chỉ
làm nhiệm vụ xét duyệt hồ sơ của người lao động khi họ đủ điều kiện để hưởng các chế
độ BHXH dài hạn theo quy định còn việc tổ chức thực hiện chi trả cho người lao động
thời kỳ này quan Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện hoàn toàn thông qua
các đại lý chi trả ở xã, phường, thị trấn. Bên cạnh những mặt đạt được của cơ chế này là
nhìn chung người lao động khi có đủ điều kiện được hưởng các chế độ BHXH dài hạn
đã được đơn vị sử dụng lao động phối hợp với cơ quan Lao động Thương binh
sát chặt chẽ, nên hiện tượng có người được đi nghỉ nhiều lần trong khi thời gian làm việc còn ít, nhưng ngược lại không ít người đã có thời gian làm việc nhiều, sức khỏe giảm sút lại không được đi nghỉ theo chế độ này. Tóm lại, trong cơ chế khoán thu, khoán chi để thực hiện chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn cho người lao động, mặc dù đã đáp ứng được phần nào những yêu cầu cơ bản của người lao động và đơn vị sử dụng lao động nhưng xét về hiệu quả quản lý thì rõ ràng là còn thấp, chưa đạt yêu cầu và còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục sửa đổi hoàn chỉnh. - Đối với quỹ BHXH do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý để chi trả các chế độ BHXH dài hạn (hưu trí, mất sức lao động, tử tuất). Đây là các chế độ có số tiền chi trả chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi BHXH và vì vậy các quy định của pháp luật cũng đảm bảo chặt chẽ hơn. Theo Nghị định số 39/CP ngày 22/3/1962 quy định nội dung thu, chi của quỹ BHXH của nhà nước thì phần thu BHXH do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý chưa được đề cập đến, chỉ đến khi Chính phủ ban hành Nghị định 236/HĐBT ngày 18/9/1985 mới có quy định cụ thể là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý 8% tổng quỹ lương chi trả cho 3 chế độ BHXH dài hạn. Mặc dù nghị định quy định khá chặt chẽ trách nhiệm đóng góp của đơn vị sử dụng lao động nhưng trên thực tế số thu thời kỳ này đạt rất thấp, phần chi cho các chế độ BHXH dài hạn chủ yếu vẫn do ngân sách nhà nước cấp, mặt khác nguồn thu để hình thành quỹ dùng để chi trả BHXH lại do các Sở Tài chính địa phương đảm nhận nên hoạt động tổ chức thu, quản lý, sử dụng nguồn quỹ này của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng chỉ tồn tại trên sổ sách và mang tính danh nghĩa nhiều hơn. Với cơ chế như vậy, cơ quan Lao động Thương binh và Xã hội trên thực tế chỉ làm nhiệm vụ xét duyệt hồ sơ của người lao động khi họ đủ điều kiện để hưởng các chế độ BHXH dài hạn theo quy định còn việc tổ chức thực hiện chi trả cho người lao động thời kỳ này cơ quan Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện hoàn toàn thông qua các đại lý chi trả ở xã, phường, thị trấn. Bên cạnh những mặt đạt được của cơ chế này là nhìn chung người lao động khi có đủ điều kiện được hưởng các chế độ BHXH dài hạn đã được đơn vị sử dụng lao động phối hợp với cơ quan Lao động Thương binh và Xã
hội, cơ quan Tài chính địa phương đảm bảo xét duyệt và chi trả đúng theo quy định
của luật. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện công tác quản chi BHXH cho
các chế độ BHXH dài hạn cũng đã bộc lộ những hạn chế cơ bản sau:
Thứ nhất: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội không chủ động được nguồn
chi trả, việc chi trả đầy đủ, kịp thời hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách
nhà nước, vào Sở Tài chính các địa phương. vậy, hiện tượng chậm lương hưu
trợ cấp BHXH ở thời kỳ này diễn ra thường xuyên và thậm chí có thời gian người nhận
lương hưu phải chờ từ
2-3 tháng mới có, gây kkhăn cho đời sống của đối tượng vốn đã khó khăn nay lại
càng khó khăn hơn.
Thứ hai: Hiệu quả kinh tế của pháp luật quản chi BHXH không được quan
tâm, do chế vận hành như trên nên quá trình xét duyệt không ít trường hợp mặc
không đủ trên chuẩn theo quy định của pháp luật nhưng vẫn được xét duyệt tạo nên sự
không công bằng trong những người lao động tham gia và hưởng BHXH, đồng thời gây
thất thoát cho ngân sách nhà nước. Một cơ chế không hợp lý như vậy đã làm cho chính
sách BHXH nói chung các quy định của pháp luật về quản chi BHXH nói riêng
kém hiệu quả, số thu vào quỹ qthấp so với quy định, nên ngân sách nhà nước phải
cấp bù ngày càng tăng.
Thứ ba: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội vừa là cơ quan xây dựng hoạch
định chính sách BHXH lại vừa quan tổ chức thực hiện các chế độ chính sách
BHXH. Sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý nhà nước về BHXH và chức năng quản lý sự
nghiệp BHXH đã làm hạn chế đáng kể hiệu quả thực hiện chính sách BHXH và gây ra
nhiều bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện quản lý chi trả các chế độ BHXH.
Tóm lại, thời kỳ này quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa, còn thực tế thì
không do vậy kinh phí để chi trả cho các chế độ BHXH chủ yếu do ngân sách nhà
nước đảm bảo; mặt khác pháp luật về quản lý chi BHXH lại thực hiện trong cơ chế bao
cấp nên hiệu quả đạt được còn thấp và xuất hiện nhiều hạn chế, bất cập cần được sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp như: Tổ chức chi trả BHXH phân tán, do nhiều quan thực hiện,
cơ quan chi trả BHXH không quan tâm và cũng không chịu trách nhiệm về nguồn kinh
hội, cơ quan Tài chính ở địa phương đảm bảo xét duyệt và chi trả đúng theo quy định của luật. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện công tác quản lý chi BHXH cho các chế độ BHXH dài hạn cũng đã bộc lộ những hạn chế cơ bản sau: Thứ nhất: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội không chủ động được nguồn chi trả, việc chi trả có đầy đủ, kịp thời hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, vào Sở Tài chính ở các địa phương. Vì vậy, hiện tượng chậm lương hưu và trợ cấp BHXH ở thời kỳ này diễn ra thường xuyên và thậm chí có thời gian người nhận lương hưu phải chờ từ 2-3 tháng mới có, gây khó khăn cho đời sống của đối tượng vốn đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn. Thứ hai: Hiệu quả kinh tế của pháp luật quản lý chi BHXH không được quan tâm, do cơ chế vận hành như trên nên quá trình xét duyệt không ít trường hợp mặc dù không đủ trên chuẩn theo quy định của pháp luật nhưng vẫn được xét duyệt tạo nên sự không công bằng trong những người lao động tham gia và hưởng BHXH, đồng thời gây thất thoát cho ngân sách nhà nước. Một cơ chế không hợp lý như vậy đã làm cho chính sách BHXH nói chung và các quy định của pháp luật về quản lý chi BHXH nói riêng kém hiệu quả, số thu vào quỹ quá thấp so với quy định, nên ngân sách nhà nước phải cấp bù ngày càng tăng. Thứ ba: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội vừa là cơ quan xây dựng hoạch định chính sách BHXH lại vừa là cơ quan tổ chức thực hiện các chế độ chính sách BHXH. Sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý nhà nước về BHXH và chức năng quản lý sự nghiệp BHXH đã làm hạn chế đáng kể hiệu quả thực hiện chính sách BHXH và gây ra nhiều bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện quản lý chi trả các chế độ BHXH. Tóm lại, ở thời kỳ này quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa, còn thực tế thì không do vậy kinh phí để chi trả cho các chế độ BHXH chủ yếu là do ngân sách nhà nước đảm bảo; mặt khác pháp luật về quản lý chi BHXH lại thực hiện trong cơ chế bao cấp nên hiệu quả đạt được còn thấp và xuất hiện nhiều hạn chế, bất cập cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp như: Tổ chức chi trả BHXH phân tán, do nhiều cơ quan thực hiện, cơ quan chi trả BHXH không quan tâm và cũng không chịu trách nhiệm về nguồn kinh
phí chi trả, vậy việc quản quỹ, cũng như quản đối tượng hưởng BHXH trong
thời kỳ không được quan tâm đúng mức, bị buông lỏng, hiệu quả kém dẫn đến những
thất thoát, tiêu cực… trong công tác quản lý chi BHXH.
2.2.2.2. Thời kỳ từ 1995 đến nay
Đây thời kỳ chính sách BHXH cũng như chế tổ chức thực hiện bước
chuyển đổi quan trọng nhằm xóa bỏ tư duy bao cấp, ỷ lại trong lĩnh vực BHXH với
nguyên tắc quan trọng người lao động phải đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi
BHXH. vậy, các quy định của pháp luật về tổ chức chi BHXH cũng đã được quy
định khá rõ chi tiết kể từ nguồn chi và việc quản lý tổ chức chi trả cho người hưởng
chế độ BHXH.
* Về quản lý nguồn kinh phí chi BHXH
Cũng như thời kỳ trước, Bộ luật Lao động Điều lệ BHXH hiệu lực thi
hành từ 1/1/1995 đã quy định rõ có 2 nguồn là từ quỹ BHXH và từ ngân sách nhà nước,
nhưng ở thời kỳ này các quy định của pháp luật đã chi tiết, chặt chẽ và rõ ràng hơn, cụ
thể là:
- Nguồn từ ngân sách nhà nước đảm bảo chi trả cho các đối tượng đang hưởng
lương hưu và trợ cấp BHXH từ năm 1994 trở về trước. Theo số liệu bàn giao từ Bộ Lao
động - Thương binh hội cho Bảo hiểm hội Việt Nam vào năm 1995
1.762.167 người, đồng thời ngân sách nhà nước còn có trách nhiệm đóng và hỗ trợ quỹ
BHXH để chi trả cho người lao động có thời gian làm việc trước m 1995 nhưng lại
nghỉ để hưởng các chế độ BHXH từ 1995 trở đi.
- Nguồn từ quỹ BHXH do BHXH Việt Nam quản lý đảm bảo để chi trả cho các
đối tượng đủ điều kiện để hưởng các chế độ BHXH từ 1995 trở đi. Như vậy về nguồn
đảm bảo chi trả; pháp luật quản chi BHXH thời kỳ này đã phân định rõ, tạo điều
kiện thuận lợi để các quan chức năng thực hiện hiệu quả chính sách BHXH nói
chung và đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời đúng chế độ cho đối tượng khi đủ điều kiện
để hưởng BHXH theo quy định của pháp luật. Hiện tượng chậm chi trả lương hưu và trợ
cấp BHXH trước đây đã được chấm dứt.
phí chi trả, vì vậy việc quản lý quỹ, cũng như quản lý đối tượng hưởng BHXH trong thời kỳ không được quan tâm đúng mức, bị buông lỏng, hiệu quả kém dẫn đến những thất thoát, tiêu cực… trong công tác quản lý chi BHXH. 2.2.2.2. Thời kỳ từ 1995 đến nay Đây là thời kỳ chính sách BHXH cũng như cơ chế tổ chức thực hiện có bước chuyển đổi quan trọng nhằm xóa bỏ tư duy bao cấp, ỷ lại trong lĩnh vực BHXH với nguyên tắc quan trọng là người lao động phải đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi BHXH. Vì vậy, các quy định của pháp luật về tổ chức chi BHXH cũng đã được quy định khá rõ và chi tiết kể từ nguồn chi và việc quản lý tổ chức chi trả cho người hưởng chế độ BHXH. * Về quản lý nguồn kinh phí chi BHXH Cũng như thời kỳ trước, Bộ luật Lao động và Điều lệ BHXH có hiệu lực thi hành từ 1/1/1995 đã quy định rõ có 2 nguồn là từ quỹ BHXH và từ ngân sách nhà nước, nhưng ở thời kỳ này các quy định của pháp luật đã chi tiết, chặt chẽ và rõ ràng hơn, cụ thể là: - Nguồn từ ngân sách nhà nước đảm bảo chi trả cho các đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH từ năm 1994 trở về trước. Theo số liệu bàn giao từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam vào năm 1995 là 1.762.167 người, đồng thời ngân sách nhà nước còn có trách nhiệm đóng và hỗ trợ quỹ BHXH để chi trả cho người lao động có thời gian làm việc trước năm 1995 nhưng lại nghỉ để hưởng các chế độ BHXH từ 1995 trở đi. - Nguồn từ quỹ BHXH do BHXH Việt Nam quản lý đảm bảo để chi trả cho các đối tượng đủ điều kiện để hưởng các chế độ BHXH từ 1995 trở đi. Như vậy về nguồn đảm bảo chi trả; pháp luật quản lý chi BHXH ở thời kỳ này đã phân định rõ, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan chức năng thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH nói chung và đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời đúng chế độ cho đối tượng khi đủ điều kiện để hưởng BHXH theo quy định của pháp luật. Hiện tượng chậm chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH trước đây đã được chấm dứt.