LUẬN VĂN: GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA, HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHCT 2 TP.HCM
10,108
309
94
Trang 21
Chương 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TẠI NHCT VIỆT NAM -
CHI NHÁNH NHCT 2 TP.HCM
2.1
Tổng quan về NHCT Việt Nam (NHCTVN) và chi nhánh NHCT 2
2.1.1 Vài nét về quá trình phát triển của NHCT Việt Nam
Tên giao dịch hiện tại là Incombank, là một trong năm ngân hàng quốc
doanh cùng nắm giữ khoảng 80% tổng tài sản của ngành ngân hàng và đứng
thứ ba trong năm ngân hàng này về mặt tài sản có. Được thành lập đầu tiên vào
tháng 07/1975, tiền thân của NHCTVN là một trong những chi nhánh của Ngân
Hàng Nhà Nước Việt Nam và chiếm độc quyền về giao dịch bằng tiền đồng tại
Việt Nam. Sau cuộc cải cách ngân hàng vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên
90 thì NHCTVN được tách ra và một phần hoạt động kinh doanh của ngân
hàng được chuyển sang Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển, Ngân hàng Cổ phần Sài Gòn Công Thương. Tuy NHCTVN mất
dần vị thế độc quyền trong kinh doanh bằng nội tệ nhưng ngân hàng đã được
phép tham gia vào lĩnh vực kinh doanh bằng ngoại tệ.
Trên địa bàn TP.HCM, NHCT VN có Sở Giao Dịch 2, văn phòng đại
diện cùng 16 chi nhánh rải đều ở các quận. Không những có mạng lưới rộng
khắp cả nước mà NHCT Việt Nam còn là thành viên sáng lập của các tổ chức
tài chính tín dụng: Sài Gòn Công Thương Ngân hàng, Ngân hàng Indovina,
Công ty cho thuê tài chính quốc tế VILC, Công ty liên doanh bảo hiểm Châu
Á–NHCT.
Ngân hàng Công Thương còn là thành viên chính thức của: hiệp hội ngân
hàng Việt Nam, hiệp hội các ngân hàng Châu Á, hiệp hội tài chính viễn thông
liên ngân hàng (SWIFT), tổ chức phát hành và thanh toán thẻ Visa, Master
Card.
Trang 22
Với đối ngoại thì NHCT cũng đã ký 8 hiệp định tín dụng khung với các
quốc gia như Bỉ, Đức, Hàn Quốc, Thụy Sỉ và có quan hệ đại lý với 600 ngân
hàng lớn của hơn 50 nước trên thế giới.
2.1.2 Khái quát về Chi nhánh NHCT 02 TP.HCM
Trước năm 1988, NHCT chi nhánh 2 là một đơn vị kinh doanh tiền tệ
trực thuộc NHCT TP.HCM. Sự hoạt động của chi nhánh được hình dung như
cánh tay nối dài của cấp trung gian (NHCT TP.HCM). Chi nhánh hoạt động
trong cơ chế hoàn toàn bị động, tất cả mọi vấn đề đều phải thực hiện theo
chương trình của NHCT thành phố, nói cách khác là hoạt động chi nhánh nằm
trong sự bảo hộ của NHCT thành phố. Sự năng động nhạy bén trong kinh
doanh hầu như bị triệt tiêu và điều này đã ảnh hưởng khá mạnh mẽ cho sự
thành đạt của hệ thống NHCTVN tại TP.HCM.
Do đó để phát triển hệ thống NHCT trong môi trường kinh doanh tiền tệ
tại TP.HCM. Năm 1993, NHCTVN đã quyết định chuyển đổi mô hình hoạt
động của các chi nhánh từ trực thuộc NHCT TP.HCM sang phụ thuộc NHCT
trung ương tại TP.HCM với 13 chi nhánh hoạt động theo cơ chế mới. Các chi
nhánh đã vượt qua những khó khăn ban đầu do các chi nhánh có thêm quyền
hạn đồng thời gắn liền với nhiều trách nhiệm. Mô hình mới đã buộc chi nhánh
2 phải động não trong mọi lĩnh vực kinh doanh tiền tệ được NHCTVN cho
phép để đạt mục đích cuối cùng là an toàn và hiệu quả tốt. Tại chi nhánh 2, quá
trình chuyển đổi đã giúp chi nhánh trưởng thành hữu dụng hơn. Chi nhánh đã
từng bước sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị cho các bàn tiết kiệm, tạo một hình
thức khá tốt cho công tác huy động vốn và cho vay. Chi nhánh cũng đã hoàn
thiện và mở rộng mạng lưới kinh doanh đối ngoại tạo tiền đề cho chủ trương đa
dạng hóa nghiệp vụ như mở và thanh toán thư tín dụng, kinh doanh ngoại tệ.
Từ năm 1994 đến nay, chi nhánh 2 đã thể hiện được tính tích cực của cơ
chế mới, chi nhánh đã trưởng thành trong nghiệp vụ cũng như trong phong cách
giao dịch với khách hàng. Chi nhánh đã thể hiện được vai trò tích cực trong
hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong hệ thống NHCTVN.
Trang 23
2.2 Thực trạng tín dụng tại NHCT Việt Nam, chi nhánh NHCT 2:
2.2.1
Khái quát về điều kiện kinh tế xã hội và một số nét chính trong
hoạt động của ngành ngân hàng năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007
Năm 2006
Năm 2006, năm đầu tiên của Chiến lược phát triển 5 năm 2006-2010,
Việt Nam đạt được nhiều thành tựu, sự kiện nổi bật về chính trị, kinh tế, xã
hội,
đối ngoại, với những thành công trong nước cũng như hội nhập quốc tế. Nền
kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, đạt xấp xỉ 8,2%, chỉ số giá tiêu dùng tăng
6,6%, vốn đầu tư nước ngoài vượt mốc 10 tỷ USD, xuất khẩu đạt trên 39,6 tỷ
USD, sản xuất công nghiệp tăng trưởng 17%. Cũng có nhiều khó khăn tác động
ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng như : Sự biến động phức tạp, trái chiều
của giá vàng trong nước và thế giới, giá cả xăng dầu điều chỉnh nhiều lần trong
năm, lãi suất thị trường quốc tế và trong nước đều tăng, hoạt động chứng khoán
sôi động đã ảnh hưởng đến huy động vốn của các ngân hàng, thị trường bất
động sản tiếp tục đóng băng, dịch bệnh gia súc, gia cầm, thiên tai, bão lũ diễn
ra gây phức tạp gây tổn thất về người và tài sản tại nhiều địa phương.
Dù có nhiều khó khăn nhưng phải nói năm 2006 là năm đánh dấu bước
tiến bộ vượt bậc của ngành ngân hàng trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ
giá hối đoái, tăng nhanh dự trữ ngoại tệ (thêm 2,5 tỷ USD), tích cực cải cách
thể chế và hiện đại hoá công nghệ phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế.
Đặc biệt, hệ thống các NHTM nhất là NHTM cổ phần đã có những bước
tiến lớn về quy mô hoạt động, mạng lưới và năng lực cạnh tranh… Tổng tài sản
của các NHTM Việt Nam đã đạt xấp xỉ gần 1.200 nghìn tỷ đồng, tăng 33% so
cuối năm 2005 và lần đầu tiên vượt mức GDP (gần bằng 120% GDP).
Chất lượng tài sản đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ nợ tồn đọng tính trên
cùng một chuẩn mực kế toán đã giảm từ khoảng 5% cuối năm 2005 xuống còn
3,5% cuối năm 2006. Hàng loạt sản phẩm ngân hàng mới dựa trên nền tảng
công nghệ thông tin đã được áp dụng và hoạt động kinh doanh bán lẻ, dịch vụ
ngân hàng điện tử, thanh toán và chuyển tiền...
Trang 24
Năm 2006 là năm các NHTM đạt mức sinh lời rất cao: tỷ lệ lãi ròng trên
vốn tự có bình quân 17%-18%. Một số NHTM cổ phần đạt trên mức 30%.
6 tháng đầu năm 2007
Tình hình kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2007 vẫn tiếp tục duy trì tốc độ
tăng trưởng cao, GDP ước đạt 7,9%. Các lĩnh vực có mức đóng góp nhiều nhất
cho tăng trưởng là công nghiệp, xây dựng và các ngành dịch vụ. Để đạt được
mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 8,5% thì dự kiến tốc độ tăng trưởng 6 tháng
cuối năm 2007 sẽ phải đạt trên 9%, điều này đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao
từ các ngành, trong đó có ngành tài chính – ngân hàng.
Theo số liệu ước tính của ngân hàng nhà nước thì đến 30/06/2007 tín
dụng nền kinh tế toàn ngành ngân hàng tăng 15% cao hơn so với cùng kỳ năm
2006 (7,5%) trong khi tổng phương tiện thanh toán tăng 19% so với đầu năm,
chủ yếu do luồng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều làm tăng cung ngoại tệ. Mặt
khác chỉ số giá tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm lên đến 5,2%, song vẫn còn
nhiều yếu tố tác động mạnh đến tốc độ tăng giá tiêu dùng trong những tháng
cuối năm cả về nguồn hàng, về giá xuất, nhập khẩu, cả về tiền tệ - tín dụng.
Trước tình hình tổng tiền và chỉ số giá tiêu dùng đều có xu hướng tăng, thị
trường chứng khoán chưa phát triển bền vững, ngân hàng nhà nước thực hiện
chính sách thắt chặt để ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, bình ổn thị trường
chứng khoán, cụ thể là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% đối với tiền
gửi VND, từ 8 lên 10% đối với tiền gửi USD của tổ chức tín dụng, khống chế
tổ chức tín dụng cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán 3% / tổng dư nợ.
Trong môi trường cạnh tranh đầy thử thách, thực hiện định hướng chỉ
đạo của Ngân hàng Nhà nước, với quyết tâm đổi mới và phát triển, NHCTVN
nói chung và chi nhánh NHCT 02 TP.HCM nói riêng tiếp tục đạt được những
thành công cơ bản trong lộ trình cải cách chuẩn bị những điều kiện cần thiết
cho cổ phần hoá và hội nhập kinh tế, cụ thể : chất lượng tài sản, danh mục đầu
tư được nâng lên, lành mạnh tài chính, phát triển sản phẩm dịch vụ, chuyển đổi
củng cố hệ thống mạng lưới, đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại hóa hoạt
Trang 25
động ngân hàng, các chỉ tiêu cơ bản đều hoàn thành vượt cao so với kế hoạch
do liên bộ và hội đồng quản trị đề ra, các hoạt động kinh doanh đều có tăng
trưởng so với năm trước, hiệu quả kinh doanh đạt cao, đóng góp tích cực trong
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước.
2.2.2
Thực trạng hoạt động tín dụng của NHCT Việt Nam
2.2.2.1 Về quy mô :
Nhìn chung tính đến tháng 6/2007 hoạt động tín dụng của NHCT Việt
Nam tăng cao. Dư nợ cho vay đến 30/06/2007 đạt 87,2 ngàn tỷ đồng, so với
đầu năm tăng 8 ngàn tỷ đồng, tỷ lệ tăng 10,5%. Thị phần
tín dụng chiếm 12%
ngành ngân hàng. NHCT Việt Nam chú trọng cho vay đối với tất cả các thành
phần kinh tế, đặc biệt tập trung vốn vào các ngành kinh tế trọng điểm như Điện,
Bưu chính viễn thông, Xi măng, Than, Dầu khí, các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
NHCT Việt Nam đã ký kết hợp tác chiến lược toàn diện với một số tập đoàn
kinh tế lớn như tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Than khoáng
sản Việt Nam, Tập đoàn xi măng Việt Nam… để tạo lập liên minh kinh tế, hoạt
động đa năng, khai thác tiềm năng thế mạnh của mỗi bên, thu hút vốn và tăng
đầu tư
tín dụng, tiện ích sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
2.2.2.2
Về cơ cấu dư nợ
Có sự chuyển dịch theo định hướng an toàn, hiệu quả và bền vững. Đến
30/06/2007 dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng 39,2% / tổng dư nợ,
thấp hơn mức hội đồng quản trị đề ra (40%), đảm bảo phù hợp giới hạn về
nguồn vốn được sử dụng cho vay trung dài hạn của Ngân Hàng Nhà Nước. Dư
nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản chiếm tỷ trọng 76,3% / tổng dư nợ. Dư nợ
cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng 28,6% / tổng dư nợ, giảm 5%
so với đầu năm, phù hợp với tiến trình cổ phần hoá DNNN. Dư nợ của NHCT
được chuyển dịch tăng đối với các thành phần kinh tế năng động như các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, khu kinh tế tập trung, cho vay tiêu dùng… trong đó cho vay
theo các chương trình bằng nguồn vốn quốc tế lên tới 765 tỷ đồng.
Bảng 2.1 : Tổng hợp các chỉ tiêu tín dụng của NHCTVN
ĐVT : triệu đồng
Chỉ tiêu / năm 2003 2004 2005 2006 6T/2007
Tổng dư nợ 61.412 68.516 73.946 78.985 87.263
Ngắn hạn 36.009 40.870 44.460 47.464 53.027
Trung dài hạn 25.403 27.646 29.486 31.521 34.236
Nguồn : Ngân hàng Công Thương Việt Nam
Hình 2 .1
: Diễn bi ến cho vay trung , d ài hạn
25.403
27.646
29.486
31.521
34.236
39,2%
39,9%
39,9%
41,4%
40,3%
-
10.000
20.000
30.000
40.000
2003 2004 2005 2006 6T/2007
Năm
Triệu đồng
38%
39%
40%
41%
42%
43%
44%
Tỷ trọng
Trung dài hạn Tỷ trọng cho vay trung dài hạ n
Hình 2.2
: Diễn biến tỷ trọng cho vay không có bảo
đảm bằng tài sản
23,7%
48,5%
25,4%
36,5%
30,3%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
2003 2004 2005 2006 6T/2007
Năm
Tỷ trọng
Trang 26
Hình 2.3
: Diễn biến dư nợ cho vay DNNN
34.636
32.662
28.132
23.673
24.968
28,6%
30,0%
38,0%
47,7%
56,4%
-
10.000
20.000
30.000
40.000
2003 2004 2005 2006 6T/2007
Năm
Triệu đồng
0%
20%
40%
60%
80%
Tỷ trọng
DNNN Tỷ trọng
Nguồn : Ngân hàng Công Thương Việt Nam
2.2.2.3 Về sản phẩm tín dụng :
Cho đến nay sản phẩm tín dụng của NHCT Việt Nam đã phát triển khá
đa dạng, mở rộng các sản phẩm cho vay truyền thống như cho vay hợp vốn,
đồng tài trợ, chiết khấu, bảo lãnh, tài trợ thương mại, ủy thác đầu tư… Hiện
NHCT Việt Nam đang nghiên cứu để triển khai sản phẩm mới có tính kết hợp
về dịch vụ thanh toán, tiền gửi, tín dụng … đặc biệt lĩnh vực cho vay tiêu dùng
với hình thức như cho vay du học, mua ô tô, mua nhà ở, căn hộ chung cư và
các hàng hóa tiêu dùng giá trị, cho vay sản xuất kinh doanh, dịch vụ… Có thể
thấy rằng mạng lưới rộng khắp toàn quốc và bề dày hoạt động tín dụng, NHCT
Việt Nam đã và đang đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
2.2.2.4 Về cơ chế chính sách tín dụng
Đang được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện theo hướng tăng tính cạnh tranh
và hạn chế rủi ro, phù hợp với đòi hỏi thực tiễn cũng như yêu cầu của pháp
luật. Ngay từ đầu năm 2007 NHCT đã tháo gỡ, giải quyết kịp thời khó khăn,
vướng mắc, bất cập của cơ chế bảo đảm tính thông suốt và an toàn trong quá
trình kinh doanh. Sửa đổi, bổ sung quy định cho vay, xác định giới hạn tín dụng
và thẩm quyền quyết định giới hạn tín dụng, quy định về bảo đảm tiền vay…
Trang 27
Trang 28
Ban hành văn bản điều chỉnh các trường hợp phải thẩm định rủi ro độc lập,
hướng dẫn xác thực tài sản bảo đảm và thu nợ từ chính tài sản bảo đảm đó,
hướng dẫn thực hiện cho vay và bảo lãnh vốn vay cho các dự án tiết kiệm và
hiệu quả năng lượng.
2.2.3 Thực trạng hoạt động tín dụng của chi nhánh NHCT 2 TP.HCM
Nhìn chung công tác tín dụng của chi nhánh năm 2006 đã bám sát chỉ
đạo của NHCTVN, đó là đổi mới cơ cấu dư nợ cho vay theo hướng không phân
biệt thành phần kinh tế, tăng cường cho vay có TSBĐ, giảm tỷ trọng cho vay
không có TSBĐ, không hạ thấp tiêu chuẩn và điều kiện tín dụng.
Trong số các doanh nghiệp vay chủ yếu làm hàng may mặc xuất khẩu có
thu ngoại tệ, một số đơn vị thương mại xuất khẩu nông sản, thủy sản, kinh
doanh phụ tùng ôtô, giấy tập học sinh, xi măng, thiết bị vi tính văn phòng, cơ
khí, kinh doanh khách sạn, du lịch biển và một số doanh nghiệp kinh doanh xây
dựng hạ tầng khu công nghiệp, xây dựng dân dụng.
Chi nhánh cho vay các đơn vị thực hiện kinh doanh ở nhiều ngành hàng
phong phú đa dạng và có tính ổn định, năng lực tài chính của đơn vị đủ để thực
hiện các phương án kinh doanh (hệ số tự tài trợ đạt trên 20%), có năng lực quản
lý sản xuất kinh doanh và có xu hướng quan hệ tín dụng lâu dài tại Chi nhánh,
có hoạt động xuất nhập khẩu, thanh toán ngoại tệ qua ngân hàng tạo nguồn thu
ngoại tệ cho Chi nhánh, tạo điều kiện để hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát
triển và cân đối được nguồn ngoại tệ, có nguồn ngoại tệ để cho vay.
2.2.3.1 Về các chỉ tiêu tín dụng
Quy mô tín dụng :
Tình hình dư nợ tại chi nhánh không có biến động đáng kể trong thời
gian qua. Tuy nhiên dư nợ năm từ năm 2004, 2005, 2006 giảm so với năm
2003. Năm 2003 chi nhánh chủ yếu cho vay để đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh
bất động sản. Các nhà đầu tư này chạy theo xu thế chung của nền kinh tế và
không mang tính bền vững. Đầu tư vào bất động sản nhưng hầu hết đều sử
Trang 29
dụng vốn ngắn hạn, điều này đã tiềm ẩn rủi ro lớn cho chi nhánh. Tỷ trọng cho
vay ngắn hạn trong năm này chiếm tỷ trọng cao (90%). Năm 2004, 2005 khi thị
trường này bắt đầu lắng lại thì chi nhánh cũng giảm đầu tư đối với lĩnh vực
này, tình hình dư nợ trong 2 năm này giảm đáng kể. Từ năm 2005 mà chủ yếu
là năm 2006 chi nhánh đã chuyển hướng đầu tư. Các khách hàng của ngân hàng
là những đối tượng kinh doanh thực sự, mang tính bền vững cao hơn như lĩnh
vực sản xuất hàng may mặc, kinh doanh nhà hàng, khách sạn và những dịch vụ
khác. Vì thế năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007 dư nợ tại chi nhánh đã tăng
trưởng trở lại.
Bảng 2.2 : Dư nợ tín dụng tại chi nhánh NHCT 02 TP.HCM từ năm 2003
đến 6 tháng /2007 (ĐVT : triệu đồng)
Chỉ tiêu / năm 2003 2004 2005 2006 6T/2007
Tổng dư nợ 422.758 298.104 216.964 358.159 458.906
Dư nợ 378.791 268.339 189.657 233.275 313.438
Ngắn hạn
Tỷ trọng 90% 90% 87% 65% 68%
Dư nợ 43.967 29.765 27.307 124.884 145.468 Trung dài
hạn
Tỷ trọng 10% 10% 13% 35% 32%
Nguồn : Chi nhánh NHCT 2 TP.HCM
Trong năm 2003, thị trường kinh doanh bất động sản phát triển mạnh,
nhu cầu đầu tư cho lĩnh vực này tăng cao. Phần lớn khách hàng của chi nhánh
vay để kinh doanh nhà, đất nhằm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch. Một số cá
nhân, tổ chức không có chức năng kinh doanh bất động sản vẫn vay để đầu tư
vì mức sinh lợi từ kinh doanh lĩnh vực này tương đối lớn. Nhu cầu về nhà ở
không cao nhưng nhu cầu mua bán nhà tăng mạnh, xu hướng đầu tư này càng
cao đã đẩy giá cả thị trường bất động sản tăng mạnh, nó được ví như sự tăng
trưởng bong bóng vì sự tăng này không phải do nhu cầu mua nhà ở thực sự
tăng mà do vấn đề đầu cơ bất động sản. Sự tăng trưởng này không mang tính
bền vững.
Trang 30
Thực hiện chỉ đạo của Ngân Hàng Nhà Nước nói chung và NHCT Việt
Nam nói riêng, chi nhánh đã bắt đầu đi vào chấn chỉnh hoạt động cho vay, hạn
chế cho vay đầu tư bất động sản đối với những tổ chức, cá nhân không có chức
năng kinh doanh hoặc không có nhu cầu thực sự. Ngoài ra một trong những nội
dung quan trọng của nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của chính
phủ về việc hướng dẫn thi hành Luật đất đai đã hạn chế không cho các tổ chức
mua bán đất nền, đất dự án đã khiến phần đông nhà đầu tư lâm vào tình trạng
đọng vốn. Đầu tư vào lĩnh vực này mang tính dài hạn nhưng các nhà đầu tư này
lại vay vốn ngắn hạn. Nhà, đất chưa bán được trong khi đó nợ ngân hàng đến
hạn. Do đó các nhà đầu tư nào không có đủ vốn để trụ phải đóng cửa, một số
thì chuyển sang kinh doanh ngành nghề khác. Chính vì thế khi thu hồi được
vốn về, chi nhánh đã không tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực này nữa, lượng khách
hàng cũng như dư nợ tại chi nhánh giảm đáng kể, năm 2004 giảm 125 tỷ đồng
so với năm 2003, mức giảm 30%. Năm 2005 giảm 81 tỷ đồng so với năm 2004,
mức giảm 27%.
Sang năm 2006 chi nhánh chuyển hướng sang đầu tư vào những khách
hàng kinh doanh thực sự và có triển vọng. Những khách hàng này có tính ổn
định cao, kinh doanh hiệu quả, rủi ro kinh doanh thấp. Với sự kiện Việt Nam
được gia nhập WTO đã phần nào khẳng định được năng lực hoạt động và khả
năng phát triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may và
doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nhà hàng khách sạn đã biểu hiện rõ
điều đó. Với lợi thế của các ngành này nên trong năm 2006 và 6 tháng đầu năm
2007 lĩnh vực đầu tư chủ yếu của chi nhánh là sản xuất hàng may mặc, một số
khác là kinh doanh nhà hàng, khách sạn… Dư nợ năm 2006 đã tăng 141 tỷ
đồng so với năm 2005 (tỷ lệ tăng 65%) và 6 tháng đầu năm 2007 tăng 100 tỷ so
với năm 2006 (tỷ lệ tăng 28%).
Việc chuyển hướng tài trợ tín dụng vào những doanh nghiệp có hoạt
động sản xuất, kinh doanh ổn định cùng với việc tăng dư nợ trong năm 2006 và
6 tháng đầu năm 2007 đã cho thấy hướng đầu tư của chi nhánh là đúng đắn.
Tuy nhiên chi nhánh vẫn đang muốn mở rộng thêm ngành nghề để đầu tư, một