LUẬN VĂN: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

3,605
44
102
- Phân công lao động xã hội theo hướng tiến bộ, nghĩa là toàn bộ xã hội có công
ăn việc làm, lao động có tay nghề, hàm lượng khoa học - công nghệ ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn trong cấu lao động, đây một trong những tiêu chí định hướng XHCN
trong phát triển KH&CN.
- Xuất phát từ trình độ KH&CN rất thấp, lại phân bố không đều và bị mất cân đối
lớn giữa các ngành, vùng, lãnh thổ như hiện nay, để khắc phục chúng ta cần phải ứng
dụng nhanh và có hiệu quả những tiến bộ KH&CN vào các ngành, vùng của nền kinh tế,
trong thời gian trước mắt cần hướng vào khu vực nông nghiệp - nông thôn, nhằm thu hẹp
sự chênh lệch giữa các vùng miền, nhất là giữa nông thôn và thành thị trong cả nước.
- Mọi thành quả kinh tế - xã hội của việc phát triển, ứng dụng KH&CN vào thực
tiễn phải mục tiêu phục vụ lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động, cho sự nghiệp xây
dựng CNXH, nó thể hiện chủ yếu trong việc phân phối công bằng những thành quả của sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, trong quá trình phát triển KH&CN đòi hỏi phải
quan tâm ngay từ đầu không chỉ hiệu quả kinh tế - kỹ thuật mà cả hiệu quả hội
nhân văn của nó.
Để những mục tiêu trên được thực hiện, mọi chủ trương, đường lối, chính sách
liên quan đến KH&CN phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, đồng thời việc đánh giá
hiệu quả cũng cần đảm bảo tính độc lập, khách quan.
Hoạt động vấn, phản biện và giám định xã hội vai trò vô cùng quan trọng,
giúp cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách,
chiến lược về KH&CN của Đảng và Nhà nước đảm bảo đúng định hướng XHCN. Những
đóng góp của đội ngũ trí thức nước ta thông qua hoạt động này đã đem lại hiệu quả cao
như: Công trình xây dựng thủy điện Sơn La, Đường Hồ Chí Minh (đoạn qua rừng quốc
gia Cúc Phương), Dự án thay nước Hồ Tây, v.v... Với cách là người nghiên cứu khoa
học, trí thức Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu
cực và đảm bảo đúng định hướng XHCN của các công trình, đề án kinh tế - xã hội.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, cùng với sự phát triển của KH&CN, đội
ngũ trí thức Việt Nam cũng không ngừng tăng cao cả số lượng và chất lượng, ngày càng
- Phân công lao động xã hội theo hướng tiến bộ, nghĩa là toàn bộ xã hội có công ăn việc làm, lao động có tay nghề, hàm lượng khoa học - công nghệ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động, đây là một trong những tiêu chí định hướng XHCN trong phát triển KH&CN. - Xuất phát từ trình độ KH&CN rất thấp, lại phân bố không đều và bị mất cân đối lớn giữa các ngành, vùng, lãnh thổ như hiện nay, để khắc phục chúng ta cần phải ứng dụng nhanh và có hiệu quả những tiến bộ KH&CN vào các ngành, vùng của nền kinh tế, trong thời gian trước mắt cần hướng vào khu vực nông nghiệp - nông thôn, nhằm thu hẹp sự chênh lệch giữa các vùng miền, nhất là giữa nông thôn và thành thị trong cả nước. - Mọi thành quả kinh tế - xã hội của việc phát triển, ứng dụng KH&CN vào thực tiễn phải vì mục tiêu phục vụ lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động, cho sự nghiệp xây dựng CNXH, nó thể hiện chủ yếu trong việc phân phối công bằng những thành quả của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, trong quá trình phát triển KH&CN đòi hỏi phải quan tâm ngay từ đầu không chỉ hiệu quả kinh tế - kỹ thuật mà cả hiệu quả xã hội và nhân văn của nó. Để những mục tiêu trên được thực hiện, mọi chủ trương, đường lối, chính sách liên quan đến KH&CN phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, đồng thời việc đánh giá hiệu quả cũng cần đảm bảo tính độc lập, khách quan. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò vô cùng quan trọng, giúp cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược về KH&CN của Đảng và Nhà nước đảm bảo đúng định hướng XHCN. Những đóng góp của đội ngũ trí thức nước ta thông qua hoạt động này đã đem lại hiệu quả cao như: Công trình xây dựng thủy điện Sơn La, Đường Hồ Chí Minh (đoạn qua rừng quốc gia Cúc Phương), Dự án thay nước Hồ Tây, v.v... Với tư cách là người nghiên cứu khoa học, trí thức Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và đảm bảo đúng định hướng XHCN của các công trình, đề án kinh tế - xã hội. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, cùng với sự phát triển của KH&CN, đội ngũ trí thức Việt Nam cũng không ngừng tăng cao cả số lượng và chất lượng, ngày càng
giữ vị trí quan trọng trong xã hội, cùng với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác, họ chính một lực lượng nòng cốt của qua trình xây
dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới.
1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam
1.2.1. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt
Nam hoạt động trong một tổ chức chính trị - hội của trí thức khoa học công
nghệ Việt Nam
Đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam hoạt động rộng khắp trên hầu hết các lĩnh
vực của đời sống hội. Do làm việc trong nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nên ít
điều kiện hợp tác, trao đổi học thuật và kinh nghiệm với những người cùng chuyên môn,
ngành nghề, cùng lĩnh vực nghiên cứu. Đáp ứng nhu cầu này của trí thức, một số Hội
chuyên ngành đã ra đời. Sớm nhất là Hội Luật gia Việt Nam (1955), Tổng hội Y - Dược
học Việt Nam (1955) và Hội Y học cổ truyền Việt Nam (1957). Sau đó hàng loạt các
Hội Khoa học Kỹ thuật khác được thành lập như: Hội Cơ học Việt Nam (1982), Hội
Xây dựng Việt Nam (1982), Hội Lâm nghiệp Việt Nam Hội các ngành sinh học Việt
Nam (1982)...
Qua một thời gian hoạt động, các Hội Khoa học và Kỹ thuật cùng nhiều nhà khoa
học Việt Nam mong muốn có một tổ chức chung để đoàn kết, điều hòa và phối hợp các hoạt
động phong phú và đa dạng, để nói lên tiếng nói thống nhất, đề đạt những nguyện vọng và
kiến nghị chung với Đảng và Nhà nước, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
đã ra đời vào năm 1983 (26-3-1983) và chính thức trở thành tổ chức chính trị - xã hội của trí
thức KH&CN Việt Nam.
Với vai trò của một tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội có chức năng cơ bản
tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN trong nước trí thức
người Việt Nam ở nước ngoài; làm đầu mối giữa các hội thành viên với các quan
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề
chung trong Liên hiệp Hội, đồng thời, đại diện, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
giữ vị trí quan trọng trong xã hội, cùng với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, họ chính là một lực lượng nòng cốt của qua trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới. 1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam 1.2.1. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam Đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam hoạt động rộng khắp trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do làm việc trong nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nên ít có điều kiện hợp tác, trao đổi học thuật và kinh nghiệm với những người cùng chuyên môn, ngành nghề, cùng lĩnh vực nghiên cứu. Đáp ứng nhu cầu này của trí thức, một số Hội chuyên ngành đã ra đời. Sớm nhất là Hội Luật gia Việt Nam (1955), Tổng hội Y - Dược học Việt Nam (1955) và Hội Y học cổ truyền Việt Nam (1957). Sau đó là hàng loạt các Hội Khoa học và Kỹ thuật khác được thành lập như: Hội Cơ học Việt Nam (1982), Hội Xây dựng Việt Nam (1982), Hội Lâm nghiệp Việt Nam và Hội các ngành sinh học Việt Nam (1982)... Qua một thời gian hoạt động, các Hội Khoa học và Kỹ thuật cùng nhiều nhà khoa học Việt Nam mong muốn có một tổ chức chung để đoàn kết, điều hòa và phối hợp các hoạt động phong phú và đa dạng, để nói lên tiếng nói thống nhất, đề đạt những nguyện vọng và kiến nghị chung với Đảng và Nhà nước, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã ra đời vào năm 1983 (26-3-1983) và chính thức trở thành tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN Việt Nam. Với vai trò của một tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội có chức năng cơ bản là tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN ở trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài; làm đầu mối giữa các hội thành viên với các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề chung trong Liên hiệp Hội, đồng thời, đại diện, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
các hội thành viên, của trí thức KH&CN Việt Nam.
Mục đích của Liên hiệp Hội phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức
KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp
phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội
dung trên đã chi phối toàn bộ hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Nếu trong các tổ chức hội - nghề nghiệp khác nội dung hoạt động chủ yếu
trao đổi học thuật, phối hợp nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và hiệu quả
công việc cho hội viên của mình, thì mục tiêu của Liên hiệp Hội không chỉ dừng lại ở học
thuật, quyền lợi của trí thức, mà cao hơn đem lại lợi ích cho đất nước, góp phần thực
hiện các mục tiêu Đảng và Nhà nước đề ra giao cho. Skhác biệt này được thể
hiện rõ nét nhất qua các cuộc hội thảo khoa học. đây ngoài mục đích tìm tòi, sáng tạo
tri thức mới, tìm ra chân lý trong khoa học còn nhằm nghiên cứu ứng dụng những tri thức
KH&CN hiện đại đó vào trong thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Bản thân khoa học không có tính chính trị, nhưng làm khoa học phục vụ mục tiêu
phát triển đất nước là làm chính trị. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, mặc dù được tổ
chức trong các Hội ngành Trung ương - hội mang tính chuyên môn, nghề nghiệp cao -
nhưng hướng các hoạt động của mình phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước, cho sự
nghiệp CNH, HĐH tức hướng đến thực hiện những mục tiêu chính trị - xã hội
Đảng và Nhà nước đề ra. Điều này cho thấy tính đặc thù của đội ngũ này so với trí thức
hoạt động trong các tổ chức chỉ thuần túy mang tính xã hội - nghề nghiệp.
Đồng thời, khác với các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động hoàn toàn mang
tính độc lập, không liên quan đến các quan nhà nước, các đảng chính trị, đội ngũ trí
thức thuộc Liên hiệp Hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thông
qua Đảng Đoàn của Liên hiệp Hội.Theo Chỉ thị số 45 - CT/TW của Ban chấp hành Trung
ương Đảng, Đảng đoàn của Liên hiệp Hội chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị.
Ban Khoa giáo Trung ương giúp Bộ Chính trị theo dõi, chỉ đạo hoạt động của Liên hiệp
Hội, Ban Dân vận Trung ương các ban khác của Đảng trách nhiệm giúp đỡ hoạt
các hội thành viên, của trí thức KH&CN Việt Nam. Mục đích của Liên hiệp Hội là phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung trên đã chi phối toàn bộ hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Nếu trong các tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác nội dung hoạt động chủ yếu là trao đổi học thuật, phối hợp nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và hiệu quả công việc cho hội viên của mình, thì mục tiêu của Liên hiệp Hội không chỉ dừng lại ở học thuật, quyền lợi của trí thức, mà cao hơn là đem lại lợi ích cho đất nước, góp phần thực hiện các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra và giao cho. Sự khác biệt này được thể hiện rõ nét nhất qua các cuộc hội thảo khoa học. ở đây ngoài mục đích tìm tòi, sáng tạo tri thức mới, tìm ra chân lý trong khoa học còn nhằm nghiên cứu ứng dụng những tri thức KH&CN hiện đại đó vào trong thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Bản thân khoa học không có tính chính trị, nhưng làm khoa học phục vụ mục tiêu phát triển đất nước là làm chính trị. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, mặc dù được tổ chức trong các Hội ngành Trung ương - hội mang tính chuyên môn, nghề nghiệp cao - nhưng hướng các hoạt động của mình phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước, cho sự nghiệp CNH, HĐH tức là hướng đến thực hiện những mục tiêu chính trị - xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra. Điều này cho thấy tính đặc thù của đội ngũ này so với trí thức hoạt động trong các tổ chức chỉ thuần túy mang tính xã hội - nghề nghiệp. Đồng thời, khác với các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động hoàn toàn mang tính độc lập, không liên quan đến các cơ quan nhà nước, các đảng chính trị, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Đảng Đoàn của Liên hiệp Hội.Theo Chỉ thị số 45 - CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Đảng đoàn của Liên hiệp Hội chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị. Ban Khoa giáo Trung ương giúp Bộ Chính trị theo dõi, chỉ đạo hoạt động của Liên hiệp Hội, Ban Dân vận Trung ương và các ban khác của Đảng có trách nhiệm giúp đỡ hoạt
động của Liên hiệp Hội.
Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ hội hóa các hoạt động KH&CN, GD&ĐT,
chăm sóc sức khỏe nhân dân, với tính chất là tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội còn
có nhiệm vụ vận động trí thức KH&CN phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân
tộc, ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần hợp tác, tính cộng đồng, tính trung thực
đạo đức nghề nghiệp.
Nhằm thực hiện chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Liên hiệp Hội có
nhiệm vụ vận động trí thức KH&CN người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp công sức,
trí tuệ cho công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Những nhiệm vụ này đã được Liên
hiệp Hội triển khai thực hiện và bước đầu mang lại hiệu quả nhất định, đặc biệt việc
thu hút trí thức Việt kiều về quê hương, một số người đã quyết định trở về định cư ở Việt
Nam để được đóng góp trí tuệ cho sự nghiệp chung của đất nước. Với những chức năng
và nhiệm vụ cơ bản trên, Liên hiệp Hội thực sự đã là một tổ chức chính trị - xã hội quan
trọng và lớn nhất của trí thức KH&CN Việt Nam.
Việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đội ngũ này còn thể hiện rõ nét
thông qua hoạt động vấn, phản biện và giám định xã hội nhằm góp phần xây dựng cơ
sở khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách, pháp luật, các chương trình,
kế hoạch của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, KH&CN, GD&ĐT, bảo
vệ môi trường, tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng; tham gia giám sát độc lập đối
với các đề án, công trình quan trọng của đất nước.
Điểm khác biệt trong việc thực hiện vấn, phản biện giám định hội của
các dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp dành cho mọi tổ chức và cá nhân có pháp nhân tư vấn,
với một tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp Hội thể hiện ở chỗ: Một mặt, đây là
nhiệm vụ đặt ra cho tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN. Bên cạnh việc tư vấn
xã hội nó còn bao gồm cả phản biện xã hội và giám định xã hội. Ngoài những đề án được
giao, Liên hiệp Hội cùng các Hội thành viên có điều kiện chủ động tự đề xuất nhiệm vụ
tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các đề án quan tâm, tổ chức thực hiện và đề
xuất kiến nghị gửi tới các quan liên quan các cấp có thẩm quyền xem xét. Mặt
động của Liên hiệp Hội. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ xã hội hóa các hoạt động KH&CN, GD&ĐT, chăm sóc sức khỏe nhân dân, với tính chất là tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội còn có nhiệm vụ vận động trí thức KH&CN phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần hợp tác, tính cộng đồng, tính trung thực và đạo đức nghề nghiệp. Nhằm thực hiện chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Liên hiệp Hội có nhiệm vụ vận động trí thức KH&CN người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp công sức, trí tuệ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những nhiệm vụ này đã được Liên hiệp Hội triển khai thực hiện và bước đầu mang lại hiệu quả nhất định, đặc biệt là việc thu hút trí thức Việt kiều về quê hương, một số người đã quyết định trở về định cư ở Việt Nam để được đóng góp trí tuệ cho sự nghiệp chung của đất nước. Với những chức năng và nhiệm vụ cơ bản trên, Liên hiệp Hội thực sự đã là một tổ chức chính trị - xã hội quan trọng và lớn nhất của trí thức KH&CN Việt Nam. Việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đội ngũ này còn thể hiện rõ nét thông qua hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội nhằm góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách, pháp luật, các chương trình, kế hoạch của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, KH&CN, GD&ĐT, bảo vệ môi trường, tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng; tham gia giám sát độc lập đối với các đề án, công trình quan trọng của đất nước. Điểm khác biệt trong việc thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội của các dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp dành cho mọi tổ chức và cá nhân có pháp nhân tư vấn, với một tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp Hội thể hiện ở chỗ: Một mặt, đây là nhiệm vụ đặt ra cho tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN. Bên cạnh việc tư vấn xã hội nó còn bao gồm cả phản biện xã hội và giám định xã hội. Ngoài những đề án được giao, Liên hiệp Hội cùng các Hội thành viên có điều kiện chủ động tự đề xuất nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các đề án quan tâm, tổ chức thực hiện và đề xuất kiến nghị gửi tới các cơ quan có liên quan và các cấp có thẩm quyền xem xét. Mặt
khác, Liên hiệp Hội thực hiện hoạt động này không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này cho
thấy, Liên hiệp Hội đề cao mục tiêu chính trị - xã hội, thực hiện trước hết bởi trách nhiệm
của một nhà khoa học và tâm huyết muốn cống hiến cho đất nước. Đây không chỉ là tôn
chỉ mà Liên hiệp Hội đề ra, thực tế đã khẳng định tính phi lợi nhuận trong hoạt động này.
Như công trình thủy điện Sơn La, nếu theo chi phí thuê các chuyên gia nước ngoài thì hết
hàng trăm tỷ, nhưng trong mười năm thực hiện nghiên cứu tư vấn đề án tối ưu cho Chính
phủ, với sự đóng góp công sức của hơn bốn mươi nhà khoa học, chi phí chi hết khoảng
500 đến 600 triệu đồng. Không những tích kiệm được chi phí cho Nhà nước, các
phương án của các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội đưa ra còn mang lại hiệu quả kinh tế
- xã hội cao và giảm bớt chi phí khi thi công.
Một ví dụ khác đó là việc trùng tu, bảo tồn khu di chỉ Hoàng thành Thăng Long -
nơi Nhà nước đã kế hoạch xây dựng công trình tòa nhà Quốc hội và Bảo tàng lịch sử
quân sự Việt Nam, trên sở luận chứng khoa học các nhà nghiên cứu đã kiến nghị với
Chính phủ tạm dừng thi công các công trình này được Chính phủ chấp thuận. Đây
việc mà Liên hiệp Hội tự đề xuất, không phải nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho. Điều đó
càng chứng tỏ tinh thần trách nhiệm cao của các nhà khoa học mà hoàn toàn không vì mục
tiêu lợi nhuận.
Do hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của đội ngũ trí thức KH&CN
Việt Nam, nên cũng đem lại những ưu thế nhất định: trí thức có điều kiện để nói lên tiếng
nói thống nhất, bày tỏ những tâm tư hay đề đạt nguyện vọng đối với Đảng và Nhà nước.
Không những thế Liên hiệp Hội còn là tổ chức đại diện, bảo vệ những quyền lợi, lợi ích
hợp pháp của trí thức KH&CN Việt Nam.
Ngoài ra khi tham gia Liên hiệp Hội trí thức còn có điều kiện thuận lợi trong
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, như tham gia soạn thảo các văn kiện quan
trọng, tham mưu cho Đảng Nhà nước những vấn đ quốc kế dân sinh, cung cấp
những luận cứ khoa học một cách có hệ thống giúp cho việc ban hành các chủ trương,
chính sáchthêm cơ sở khách quan và đạt hiệu quả…
Tuy nhiên, đây là một tổ chức mang tính tự nguyện có quy mô lớn nên việc quản
khác, Liên hiệp Hội thực hiện hoạt động này không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này cho thấy, Liên hiệp Hội đề cao mục tiêu chính trị - xã hội, thực hiện trước hết bởi trách nhiệm của một nhà khoa học và tâm huyết muốn cống hiến cho đất nước. Đây không chỉ là tôn chỉ mà Liên hiệp Hội đề ra, thực tế đã khẳng định tính phi lợi nhuận trong hoạt động này. Như công trình thủy điện Sơn La, nếu theo chi phí thuê các chuyên gia nước ngoài thì hết hàng trăm tỷ, nhưng trong mười năm thực hiện nghiên cứu tư vấn đề án tối ưu cho Chính phủ, với sự đóng góp công sức của hơn bốn mươi nhà khoa học, chi phí chi hết khoảng 500 đến 600 triệu đồng. Không những tích kiệm được chi phí cho Nhà nước, mà các phương án của các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội đưa ra còn mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao và giảm bớt chi phí khi thi công. Một ví dụ khác đó là việc trùng tu, bảo tồn khu di chỉ Hoàng thành Thăng Long - nơi Nhà nước đã có kế hoạch xây dựng công trình tòa nhà Quốc hội và Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, trên cơ sở luận chứng khoa học các nhà nghiên cứu đã kiến nghị với Chính phủ tạm dừng thi công các công trình này và được Chính phủ chấp thuận. Đây là việc mà Liên hiệp Hội tự đề xuất, không phải nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho. Điều đó càng chứng tỏ tinh thần trách nhiệm cao của các nhà khoa học mà hoàn toàn không vì mục tiêu lợi nhuận. Do hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam, nên cũng đem lại những ưu thế nhất định: trí thức có điều kiện để nói lên tiếng nói thống nhất, bày tỏ những tâm tư hay đề đạt nguyện vọng đối với Đảng và Nhà nước. Không những thế Liên hiệp Hội còn là tổ chức đại diện, bảo vệ những quyền lợi, lợi ích hợp pháp của trí thức KH&CN Việt Nam. Ngoài ra khi tham gia Liên hiệp Hội trí thức còn có điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, như tham gia soạn thảo các văn kiện quan trọng, tham mưu cho Đảng và Nhà nước những vấn đề quốc kế dân sinh, cung cấp những luận cứ khoa học một cách có hệ thống giúp cho việc ban hành các chủ trương, chính sách có thêm cơ sở khách quan và đạt hiệu quả… Tuy nhiên, đây là một tổ chức mang tính tự nguyện có quy mô lớn nên việc quản
lý, tập hợp hội viên để phối hợp hoạt động cũng có những khó khăn nhất định. Mặt khác,
hiện nay còn tồn tại tâm lý chỉ muốn làm khoa học thuần túy mà không liên quan đến các
nhiệm vụ chính trị, cho nên tính chất chính trị - xã hội của Liên hiệp Hôi cũng là một
trong những lý do khiến một số trí thức chưa muốn tham gia.
1.2.2. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt
Nam lực lượng trí thức chuyên ngành về khoa học và công nghệ lớn nhất Việt
Nam hiện nay
Trong các tổ chức KH&CN Việt Nam hiện nay, Liên hiệp Hội tổ chức
tiềm năng chuyên gia lớn nhất với 54/56 Hội ngành Trung ương, nơi tập hợp trí thức
chuyên ngành (không tính hai Hội tập hợp chủ yếu nông dân là Hội Nuôi ong, Hội
Làm vườn Việt Nam) thuộc các lĩnh vực:
- Khoa học xã hội và nhân văn gồm 08 Hội đó là: Hội Luật gia Việt Nam, Tổng
Hội Y - Dược học Việt Nam, Hội Đông y Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội
Khoa học Tâm lý giáo dục Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội Dân tộc học Việt
Nam, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam.
- Khoa học tự nhiên gồm 07 Hội: Hội Vật lý Việt Nam, Hội Toán học Việt Nam,
Hội Địa lý Việt Nam, Hội Hóa học Việt Nam, Hội Khoa học Đất Việt Nam, Hội Địa Vật
lý Việt Nam, Hội các ngành Sinh học Việt Nam.
- 39 Hội và Tổng hội khoa học công nghệ, cụ thể: Hội Đúc - Luyện kim Việt
Nam, Hội Khoa học công nghệ Mỏ Việt Nam, Tổng Hội Xây dựng Việt Nam, Hội Khoa
học - Kỹ thuật Địa chất Việt Nam, Hội Cơ học Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Lâm
nghiệp Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Cơ khí Việt Nam, Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ
người tiêu dùng Việt Nam, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, Hội Tin học
Việt Nam, Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ
Viễn thám Việt Nam, Hội Điện lực Việt Nam, Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hội Thú y Việt
Nam, Hội Bảo quản nông sản thực phẩm Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật nhiệt Việt
Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Biển Việt Nam, Hội Kế toán Việt Nam, Hội Khoa học -
lý, tập hợp hội viên để phối hợp hoạt động cũng có những khó khăn nhất định. Mặt khác, hiện nay còn tồn tại tâm lý chỉ muốn làm khoa học thuần túy mà không liên quan đến các nhiệm vụ chính trị, cho nên tính chất chính trị - xã hội của Liên hiệp Hôi cũng là một trong những lý do khiến một số trí thức chưa muốn tham gia. 1.2.2. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam là lực lượng trí thức chuyên ngành về khoa học và công nghệ lớn nhất Việt Nam hiện nay Trong các tổ chức KH&CN ở Việt Nam hiện nay, Liên hiệp Hội là tổ chức có tiềm năng chuyên gia lớn nhất với 54/56 Hội ngành Trung ương, nơi tập hợp trí thức chuyên ngành (không tính hai Hội tập hợp chủ yếu là nông dân là Hội Nuôi ong, Hội Làm vườn Việt Nam) thuộc các lĩnh vực: - Khoa học xã hội và nhân văn gồm 08 Hội đó là: Hội Luật gia Việt Nam, Tổng Hội Y - Dược học Việt Nam, Hội Đông y Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội Khoa học Tâm lý giáo dục Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội Dân tộc học Việt Nam, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam. - Khoa học tự nhiên gồm 07 Hội: Hội Vật lý Việt Nam, Hội Toán học Việt Nam, Hội Địa lý Việt Nam, Hội Hóa học Việt Nam, Hội Khoa học Đất Việt Nam, Hội Địa Vật lý Việt Nam, Hội các ngành Sinh học Việt Nam. - 39 Hội và Tổng hội khoa học công nghệ, cụ thể: Hội Đúc - Luyện kim Việt Nam, Hội Khoa học công nghệ Mỏ Việt Nam, Tổng Hội Xây dựng Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Địa chất Việt Nam, Hội Cơ học Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Cơ khí Việt Nam, Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, Hội Tin học Việt Nam, Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ Viễn thám Việt Nam, Hội Điện lực Việt Nam, Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hội Thú y Việt Nam, Hội Bảo quản nông sản thực phẩm Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật nhiệt Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Biển Việt Nam, Hội Kế toán Việt Nam, Hội Khoa học -
Công nghệ Tự động Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Phân tích Hóa, Lý và Sinh học
Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Cầu đường Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật ăn
mòn bảo vệ kim loại Việt Nam, Hội Quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam, Hội
Khoa học - Kỹ thuật Mã số Mã vạch Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Không phá hủy,
Hội Thông tin liệu KH&CN Việt Nam, Hội Sở hữu công nghiệp Việt Nam, Hội Khoa
học - Kỹ thuật Đo lường Việt Nam, Hội Bảo vệ Thực vật Việt Nam, Hội Giống cây trồng
Việt Nam, Hội Khoa học Kỹ thuật - An toàn thực phẩm Việt Nam, Hội Khoa học công
nghệ Lương thực thực phẩm Việt Nam, Hội Vệ sinh an toàn lao động, Hội Các phòng thử
nghiệm Việt Nam, Hội Thiết bị y tế Việt Nam, Hội Dược học Việt Nam, Hội Trí thức
KH&CN trẻ Việt Nam, Hội Kỹ thuật Điện lạnh và Điều hòa không khí Việt Nam.
những đơn vị mang tính chuyên ngành, các Hội trên tập hợp được nhiều
chuyên gia hàng đầu của cả nước trong nhiều lĩnh vực quan trọng. Cơ cấu tổ chức rất đa
dạng phong phú với mức độ chuyên u quy khác nhau, Hội hoạt động
trong phạm vi chuyên ngành hẹp như: Hội Dân tộc học Việt Nam (01 đơn vị thành viên),
Hội Bảo vệ thực vật Việt Nam (01 đơn vị thành viên), Hội Khoa học - Kỹ thuật ăn mòn
và bảo vệ kim loại Việt Nam (10 đơn vị thành viên), Hội Vệ sinh an toàn lao động Việt
Nam (03 đơn vị thành viên)… Bên cạnh đó nhiều Hội hoạt động trong phạm vi rất
rộng như Hội Khoa học Kỹ thuật Mã số Mã Vạch Việt Nam (670 đơn vị thành viên), Hội
Kế toán Việt Nam (130 đơn vị thành viên),Tổng hội Y - Dược học Việt Nam (với 96 đơn
vị thành viên), Hội Luật gia Việt Nam (86 đơn vị thành viên), Hội Đông y Việt Nam (70
đơn vị thành viên), Tổng Hội Xây dựng Việt Nam (47 đơn vị thành viên),… [55, tr. 14-
16].
Đội ngũ trí thức thuộc các Liên hiệp Hội được tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau
(từ các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp hay những người hoạt
động tự do, không thuộc cơ quan, tổ chức đơn vị nào của Nhà nước, những người đã nghỉ
hưu hoặc nghỉ theo các chế độ lao động), trong số họ không ít người đã và đang nắm giữ
những vị trí quan trọng tại các Viện Nghiên cứu khoa học, các Bộ, ngành quan trọng của
đất nước. Tuy nhiên, khi gia nhập Liên hiệp Hội, họ hoạt động với tư cách là những nhà
khoa học theo đúng chuyên môn của mình.
Công nghệ Tự động Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Phân tích Hóa, Lý và Sinh học Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Cầu đường Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật ăn mòn và bảo vệ kim loại Việt Nam, Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Mã số Mã vạch Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Không phá hủy, Hội Thông tin tư liệu KH&CN Việt Nam, Hội Sở hữu công nghiệp Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Đo lường Việt Nam, Hội Bảo vệ Thực vật Việt Nam, Hội Giống cây trồng Việt Nam, Hội Khoa học Kỹ thuật - An toàn thực phẩm Việt Nam, Hội Khoa học công nghệ Lương thực thực phẩm Việt Nam, Hội Vệ sinh an toàn lao động, Hội Các phòng thử nghiệm Việt Nam, Hội Thiết bị y tế Việt Nam, Hội Dược học Việt Nam, Hội Trí thức KH&CN trẻ Việt Nam, Hội Kỹ thuật Điện lạnh và Điều hòa không khí Việt Nam. Là những đơn vị mang tính chuyên ngành, các Hội trên tập hợp được nhiều chuyên gia hàng đầu của cả nước trong nhiều lĩnh vực quan trọng. Cơ cấu tổ chức rất đa dạng và phong phú với mức độ chuyên sâu và quy mô khác nhau, Có Hội hoạt động trong phạm vi chuyên ngành hẹp như: Hội Dân tộc học Việt Nam (01 đơn vị thành viên), Hội Bảo vệ thực vật Việt Nam (01 đơn vị thành viên), Hội Khoa học - Kỹ thuật ăn mòn và bảo vệ kim loại Việt Nam (10 đơn vị thành viên), Hội Vệ sinh an toàn lao động Việt Nam (03 đơn vị thành viên)… Bên cạnh đó có nhiều Hội hoạt động trong phạm vi rất rộng như Hội Khoa học Kỹ thuật Mã số Mã Vạch Việt Nam (670 đơn vị thành viên), Hội Kế toán Việt Nam (130 đơn vị thành viên),Tổng hội Y - Dược học Việt Nam (với 96 đơn vị thành viên), Hội Luật gia Việt Nam (86 đơn vị thành viên), Hội Đông y Việt Nam (70 đơn vị thành viên), Tổng Hội Xây dựng Việt Nam (47 đơn vị thành viên),… [55, tr. 14- 16]. Đội ngũ trí thức thuộc các Liên hiệp Hội được tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau (từ các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp hay những người hoạt động tự do, không thuộc cơ quan, tổ chức đơn vị nào của Nhà nước, những người đã nghỉ hưu hoặc nghỉ theo các chế độ lao động), trong số họ không ít người đã và đang nắm giữ những vị trí quan trọng tại các Viện Nghiên cứu khoa học, các Bộ, ngành quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, khi gia nhập Liên hiệp Hội, họ hoạt động với tư cách là những nhà khoa học theo đúng chuyên môn của mình.
Tính chuyên ngành của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thể hiện chỗ các
Hội trên chỉ tập hợp những trí thức thuộc cùng chuyên môn, lĩnh vực nhất định: Hội Toán
học Việt Nam nơi tập hợp những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu về Toán
học; Hội kế toán Việt Nam chỉ tập hợp những người thuộc chuyên ngành tài chính, kế
toán, kiểm toán...
Không những thế, một số Hội còn chia thành nhiều Phân hội thể hiện tính chuyên
môn hóa sâu sắc. Tiêu biểu như Hội các ngành Sinh học Việt Nam có 16 Phân hội (2001)
là: Động vật học, Thực vật học, Vi sinh vật học, Di chuyền học, Hóa sinh, sinh, Côn
trùng học, sinh trùng, Công nghệ sinh học, Sinh lý người động vật, Sinh thực
vật, Sinh thái học, Sinh thái đất, Khoa học và công nghệ thực phẩm, Hội Sinh học phân
tử Bệnh thực vật, Hội những người giảng dạy Sinh học; Hội Địa chất Việt Nam
gồm 10 Phân hội cụ thể Cổ sinh - Địa tầng, Kiến tạo, Đệ tứ địa mạo, Trầm tích, Địa
hóa, Khoáng học, Địa chất kinh tế, Địa chất công trình, Địa chất thủy văn, và Phân hội
Công nghệ khoa,…
Trong thực tế hiện nay tại một số quan, đơn vị, tổ chức cũng sự phân
ngành như trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu của Nhà nước... Nhưng với tính chất
là tập hợp đội ngũ trí thức chuyên ngành thì các Hội ngành Trung ương thuộc Liên hiệp
Hội là nơi tập hợp được đông đảo nhất, có quy mô lớn nhất nước ta hiện nay. Toàn Liên
hiệp Hội tập hợp được hơn 40 vạn trí thức KH&CN Việt Nam. Riêng các Hội ngành
Trung ương tập hợp được hơn 20 vạn trí thức chuyên ngành, trong đó tiêu biểu Hội
Đông y Việt Nam (50.000 hội viên), Tổng hội Y dược học Việt Nam (hơn 10.000), Hội
Luật gia Việt Nam (hơn 16.000).
Với lực lượng "chất xám" chuyên ngành có quy mô và chất lượng lớn nhất nước
ta hiện nay, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội lực lượng nòng cốt của trí thức
KH&CN Việt Nam. Do tập hợp trí thức cùng chuyên môn, cùng lĩnh vực nghiên cứu
hoạt động nên rất thuận tiện trong việc phát huy nguồn lực trí tuệ để giải quyết những vấn
đề mang tính chuyên sâu mà thực tiễn đặt ra. Sự phối hợp của nhiều nhà khoa học trong
cùng lĩnh vực nghiên cứu sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn mà ngoài các Hội ngành
Tính chuyên ngành của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thể hiện ở chỗ các Hội trên chỉ tập hợp những trí thức thuộc cùng chuyên môn, lĩnh vực nhất định: Hội Toán học Việt Nam là nơi tập hợp những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu về Toán học; Hội kế toán Việt Nam chỉ tập hợp những người thuộc chuyên ngành tài chính, kế toán, kiểm toán... Không những thế, một số Hội còn chia thành nhiều Phân hội thể hiện tính chuyên môn hóa sâu sắc. Tiêu biểu như Hội các ngành Sinh học Việt Nam có 16 Phân hội (2001) là: Động vật học, Thực vật học, Vi sinh vật học, Di chuyền học, Hóa sinh, Lý sinh, Côn trùng học, Ký sinh trùng, Công nghệ sinh học, Sinh lý người và động vật, Sinh lý thực vật, Sinh thái học, Sinh thái đất, Khoa học và công nghệ thực phẩm, Hội Sinh học phân tử và Bệnh lý thực vật, Hội những người giảng dạy Sinh học; Hội Địa chất Việt Nam gồm 10 Phân hội cụ thể là Cổ sinh - Địa tầng, Kiến tạo, Đệ tứ địa mạo, Trầm tích, Địa hóa, Khoáng học, Địa chất kinh tế, Địa chất công trình, Địa chất thủy văn, và Phân hội Công nghệ khoa,… Trong thực tế hiện nay tại một số cơ quan, đơn vị, tổ chức cũng có sự phân ngành như trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu của Nhà nước... Nhưng với tính chất là tập hợp đội ngũ trí thức chuyên ngành thì các Hội ngành Trung ương thuộc Liên hiệp Hội là nơi tập hợp được đông đảo nhất, có quy mô lớn nhất nước ta hiện nay. Toàn Liên hiệp Hội tập hợp được hơn 40 vạn trí thức KH&CN Việt Nam. Riêng các Hội ngành Trung ương tập hợp được hơn 20 vạn trí thức chuyên ngành, trong đó tiêu biểu là Hội Đông y Việt Nam (50.000 hội viên), Tổng hội Y dược học Việt Nam (hơn 10.000), Hội Luật gia Việt Nam (hơn 16.000). Với lực lượng "chất xám" chuyên ngành có quy mô và chất lượng lớn nhất nước ta hiện nay, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội là lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam. Do tập hợp trí thức cùng chuyên môn, cùng lĩnh vực nghiên cứu và hoạt động nên rất thuận tiện trong việc phát huy nguồn lực trí tuệ để giải quyết những vấn đề mang tính chuyên sâu mà thực tiễn đặt ra. Sự phối hợp của nhiều nhà khoa học trong cùng lĩnh vực nghiên cứu sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn mà ngoài các Hội ngành
này, các cơ quan, tổ chức khác khó có thể có được.
Ngoài ra, Liên hiệp Hội có ưu thế về liên kết các ngành khoa học, khi cần có thể huy
động được lực lượng đông đảo trí thức liên ngành đáp ứng được yêu cầu của những vấn đề đòi
hỏi tri thức tổng hợp, toàn diện cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học
và công nghệ. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi KH&CN phát triển mạnh thì sự phân
công lao động xã hội ngày càng có tính chất chuyên môn hóa cao. Nó đòi hỏi người lao động
không chỉ hiểu sâu sắc, vận dụng hiệu quả những tri thức khoa học của lĩnh vực mà mình
tham gia, mà nó cần ở người lao động một lượng kiến thức tổng hợp, sâu rộng, phong phú.
Tuy nhiên ngoài những lợi thế trên, đội nnày cũng gặp phải một số hạn chế
nhất định như: do không quản lý về mặt hành chính như các cơ quan, đơn vị kinh tế - xã
hội, nên cùng lúc trí thức có thể đảm nhiệm nhiều công việc, vừa tham gia sinh hoạt Hội
vừa phải hoàn thành nhiệm vụ nơi công tác nên không đầu đúng mức cho công việc
của Liên hiệp Hội. Hơn nữa, phần lớn kinh phí hoạt động không được Nhà nước cấp nên
số lượng trí thức mặc đông nhưng không đủ điều kiện phát huy hết năng lực của
mình. Nếu khắc phục được những bất cập trên để trí thức có thể tập trung nhiều hơn cho
công việc chuyên môn của Liên hiệp Hội thì sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp trong việc thực
hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đặt nước.
Kết luận chương 1
Đội ngũ trí thức nước ta là một lực lượng quan trọng trong khối liên minh công nhân
- nông dân - trí thức. Cùng với sự phát triển của KH&CN, số lượng và chất lượng của đội
ngũ này không ngừng tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức còn nhiều bất cập
trong cơ cấu và phân bố không đều, nhưng những đóng góp quan trọng cho thành công của
công cuộc đổi mới đã ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của đội ngũ này đối
với sự phát triển của đất nước.
Trong quá trình CNH, HĐH, đội ngũ trí thức vừa cung cấp những luận cứ khoa
học, vừa là người góp phần to lớn đưa những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước vào cuộc sống. Với vai trò chủ thể, họ chính là lực lượng trực tiếp và đi đầu
này, các cơ quan, tổ chức khác khó có thể có được. Ngoài ra, Liên hiệp Hội có ưu thế về liên kết các ngành khoa học, khi cần có thể huy động được lực lượng đông đảo trí thức liên ngành đáp ứng được yêu cầu của những vấn đề đòi hỏi tri thức tổng hợp, toàn diện cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học và công nghệ. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi KH&CN phát triển mạnh thì sự phân công lao động xã hội ngày càng có tính chất chuyên môn hóa cao. Nó đòi hỏi người lao động không chỉ hiểu sâu sắc, vận dụng hiệu quả những tri thức khoa học của lĩnh vực mà mình tham gia, mà nó cần ở người lao động một lượng kiến thức tổng hợp, sâu rộng, phong phú. Tuy nhiên ngoài những lợi thế trên, đội ngũ này cũng gặp phải một số hạn chế nhất định như: do không quản lý về mặt hành chính như các cơ quan, đơn vị kinh tế - xã hội, nên cùng lúc trí thức có thể đảm nhiệm nhiều công việc, vừa tham gia sinh hoạt Hội vừa phải hoàn thành nhiệm vụ nơi công tác nên không đầu tư đúng mức cho công việc của Liên hiệp Hội. Hơn nữa, phần lớn kinh phí hoạt động không được Nhà nước cấp nên số lượng trí thức mặc dù đông nhưng không có đủ điều kiện phát huy hết năng lực của mình. Nếu khắc phục được những bất cập trên để trí thức có thể tập trung nhiều hơn cho công việc chuyên môn của Liên hiệp Hội thì sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đặt nước. Kết luận chương 1 Đội ngũ trí thức nước ta là một lực lượng quan trọng trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Cùng với sự phát triển của KH&CN, số lượng và chất lượng của đội ngũ này không ngừng tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức còn nhiều bất cập trong cơ cấu và phân bố không đều, nhưng những đóng góp quan trọng cho thành công của công cuộc đổi mới đã ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của đội ngũ này đối với sự phát triển của đất nước. Trong quá trình CNH, HĐH, đội ngũ trí thức vừa cung cấp những luận cứ khoa học, vừa là người góp phần to lớn đưa những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. Với vai trò chủ thể, họ chính là lực lượng trực tiếp và đi đầu
trong việc thực hiện nội dung của quá trình CNH, HĐH. Thông qua chức năng cơ bản là
phổ biến, truyền tri thức khoa học- kỹ thuật, trí thức còn giữ vai trò chính trong đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Là một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam, ngoài những đặc điểm chung, đội
ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam những đặc thù
riêng, đó hoạt động trong một tổ chức chính trị - hội, lực lượng "chất xám"
chuyên ngành lớn nhất ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, đội ngũ trí thức trong Liên hiệp
các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã, đang tạo nên ưu thế nhất định trong việc kết
hợp nghiên cứu khoa học chuyên sâu với các hoạt động mang tính liên ngành phục vụ sự
nghiệp xây dựng CNXH và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
trong việc thực hiện nội dung của quá trình CNH, HĐH. Thông qua chức năng cơ bản là phổ biến, truyền bá tri thức khoa học- kỹ thuật, trí thức còn giữ vai trò chính trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Là một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam, ngoài những đặc điểm chung, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có những đặc thù riêng, đó là hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội, là lực lượng "chất xám" chuyên ngành lớn nhất ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, đội ngũ trí thức trong Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã, đang tạo nên ưu thế nhất định trong việc kết hợp nghiên cứu khoa học chuyên sâu với các hoạt động mang tính liên ngành phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.