Luận văn đề tài: Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945
1,885
18
96
phu được đào tạo theo chương trình Nho học như Ngô Đức Kế, có người là sản phẩm
trong buổi giao thời của Hán học và Tây học như Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên,
Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh… có người được đào tạo hoàn toàn Tây học như nhóm
Tự Lực Văn Đoàn, có người là nhà văn, nhà báo, có người là nhà hoạt động chính
trị
… Về tư tưởng, quan điểm chính trị của họ cũng rất khác nhau: người thì bảo thủ,
người cấp tiến; người cách mạng, người chủ trương cải lương… Nhưng cho dù không
thuần nhất và có cả sự khác biệt thì giữa họ vẫn có điểm chung là sự thiết tha
với văn
hóa dân tộc. Họ đều xúc động, băn khoăn, trăn trở trước hiện trạng văn hóa dân
tộc
đang bị rung động trong cuộc giao lưu với văn hóa phương Tây, đang nằm trong
vòng
nô lệ của nước ngoài. Đứng trước những vấn đề của thực tiễn văn hóa dân tộc, họ
đều
có chung một niềm khát vọng cháy bỏng muốn gây dựng được một nền văn hóa riêng
cho dân tộc Việt Nam - một nền văn hóa có bản sắc, có khả năng thâu thái tinh
hoa của
các dân tộc khác và nhất là phải độc lập trong quá trình tiếp xúc với thế giới.
Đó là
khởi nguồn cho các cuộc tranh luận mang tính học thuật xuất hiện càng nhiều và
thu
hút đông đảo các học giả lúc bấy giờ tham gia, điều mà trước đó chưa hề có.
Trong các
cuộc tranh luận, những người tham gia đã đặt ra vấn đề khái niệm, giới thuyết về
khái
niệm như thế nào, sau đó mới đi vào những nội dung cụ thể. Các cuộc tranh luận
đó
đều thể hiện tinh thần đối thoại, dân chủ mà không hề có sự áp đặt, độc thoại
của một
xu hướng nào cả. Chân lý khoa học dần dần trở thành trọng tài cho các cuộc tranh
luận. Không vì tình cảm yêu mến văn hóa dân tộc mà các tác giả không thẳng thắn
vạch ra những mặt còn bất cập của dân tộc Điều đó đã cắt nghĩa tại sao trong
điều kiện
khó khăn về thông tin khoa học, chịu sự kiểm duyệt của chính quyền thực dân và
quan
trọng là trước đó chưa có nhiều vốn liếng về lý luận, các học giả trong giai
đoạn này
đã để lại nhiều quan niệm về văn hóa có ý nghĩa với việc xây dựng nền văn hóa
mới
của dân tộc và đặt nền móng cho công tác nghiên cứu lý luận văn hóa ở nước ta.
3.1.2. ý nghĩa của những thành tựu nghiên cứu lý luận văn hóa giai đoạn
nửa đầu thế kỷ XX
Trước hết, qua quá trình nhận thức lý luận về văn hóa, văn hóa Việt Nam lần
đầu tiên được nhận diện tương đối toàn diện. Do nhu cầu muốn hiểu biết về dân
tộc
mình, các học giả đã kiểm kê lại hành trang của văn hóa dân tộc cho việc hội
nhập với
thế giới bằng cách đánh giá những di sản do cha ông để lại. Bản sắc của dân tộc
trở
thành mối quan tâm chung của các học giả, với nhiều cách tiếp cận khác nhau như
cho
bản sắc dân tộc là Quốc học, là đặc tính dân tộc, là tính cách của con người
Việt
Nam..., bức tranh văn hóa Việt Nam đã được phác họa một cách chân thực, khách
quan cả trong quá khứ và hiện tại, cả những yếu tố tích cực và yếu tố hạn chế.
Điều
này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh diễn ra sự xung đột giá trị văn hóa cổ
truyền
với văn hóa phương Tây ở đầu thế kỷ XX, sự xung đột đó là một vấn đề “quan hệ
đến
cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy” [2, tr.7] mà giải quyết xung đột này
trước hết
phải biết văn hóa của dân tộc mình là thế nào, biết được chân giá trị của nền
văn hóa mới.
Từ đó mới có thể tìm ra con đường để hiện đại hóa văn hóa dân tộc, xây dựng một
nền
văn hóa riêng phù hợp với xu thế vận động của thời đại.
Không chỉ dừng lại ở việc phản ánh thực tiễn văn hóa, quá trình nhận thức lý
luận về văn hóa trong giai đoạn này còn có ý nghĩa quan trọng trên con đường
giải
phóng văn hóa dân tộc, mở đường cho văn hóa dân tộc phát triển. Văn minh tân học
sách đã phê phán khá triệt để những tư tưởng cũ, phân tích thực trạng xã hội
Việt Nam
trong cảnh lạc hậu, nô lệ, từ đó khởi xướng những tư tưởng đổi mới. Văn minh Tân
học sách là ngọn cờ duy tân, tự cường, tự phát triển, trở thành tuyên ngôn,
cương lĩnh
của phong trào Duy tân nổ ra ở đầu thế kỷ XX. Đây không chỉ là sự thay đổi trong
khuôn khổ của nền văn minh á Đông cũ mà là sự thay đổi căn bản theo hướng mở
rộng
giao lưu với văn minh âu Tây - đối tác kích thích các quốc gia phương Đông trong
thời
đại mới. Các phong trào Đông Kinh nghĩa thục, Đông du đã đi vào lịch sử dân tộc
như
một cuộc vận động chính trị của cách mạng dân tộc dân chủ, kết hợp công cuộc
giải
phóng dân tộc với sự hiện đại hóa đất nước thành một quá trình thống nhất. Năm
1943,
Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời, với tư cách là một cương lĩnh văn hóa, những
tư
tưởng mà Đề cương nêu ra đã tập hợp giới trí thức lập nên mặt trận văn hóa của
những
người yêu nước chống văn hóa nô dịch Pháp - Nhật, đặt những đường nét cơ bản
thiết
kế về một nền văn hóa mới Việt Nam. Đề cương đã có tác dụng “thức tỉnh và thu
hút
nhiều người làm công tác văn hóa, văn nghệ vào con đường cách mạng” [11,
tr.364],
góp phần cho thắng lợi chung của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong
công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa nửa đầu thế kỷ XX đánh dấu sự ra đời,
hình thành và phát triển của chuyên ngành lý luận văn hóa ở nước ta. Với sự phát
triển
mạnh mẽ của các khoa học về văn hóa như hiện nay, nhất là văn hóa học, nhiều
quan
niệm các học giả đưa ra đã bị vượt qua. Nhưng rõ ràng, nó đã ghi một dấu mốc
quan
trọng trong buổi đầu chập chững đến với khoa học ở đầu thế kỷ XX của giới trí
thức
dân tộc, đóng góp cho di sản văn hóa dân tộc. Phải đặt trong bối cảnh nửa đầu
thế kỷ
XX, trong điều kiện một đất nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua hàng nghìn năm
phong
kiến chịu ảnh hưởng của Nho giáo, không tiếp xúc rộng rãi với thế giới bên
ngoài,
trình độ tư duy lý luận kém phát triển, thân phận một nước thuộc địa mới thấy
được ý
nghĩa lớn lao của những thành tựu này. Đó là sự phát triển từ không đến có và
đặt nền
tảng ban đầu cho quá trình nghiên cứu tiếp theo. Trong đó, những tác phẩm của
học
giả Đào Duy Anh như Việt Nam văn hóa sử cương, Văn hóa là gì xứng đáng là những
cột mốc đầu tiên, chỉ đường cho những người đi sau, đặt nền móng cho công tác
nghiên cứu lý luận văn hóa sau này. Với tư cách là cương lĩnh văn hóa đầu tiên
của
những người mácxít Việt Nam, Đề cương văn hóa Việt Nam cũng đã mở ra sự phát
triển mới của lý luận văn hóa mácxít ở nước ta. Trên cơ sở những tư tưởng mà Đề
cương đưa ra, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục phát triển và hoàn thiện lý luận
văn
hóa và đường lối văn hóa trong các giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng. Năm
1948, Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam ra đời như một bước hoàn chỉnh lý luận
văn hóa của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn hiện
nay, đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc
dân tộc vẫn có dấu ấn của những tư tưởng quan trọng của Đề cương văn hóa Việt
Nam.
3.2. Những bài học kinh nghiệm
Từ quá trình nhận thức lý luận về văn hóa trong giai đoạn từ đầu thế kỷ đến
năm 1945 và những vấn đề đặt ra trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có thể rút ra một số bài học đối với công tác
nghiên cứu
lý luận văn hóa giai đoạn hiện nay:
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận văn hóa phải gắn liền với thực tiễn dân tộc. Đây
tưởng như một điều rất hiển nhiên vì bất kỳ một lý luận nào chẳng phải dựa vào
thực
tiễn, khái quát thực tiễn, vạch quy luật vận động, phát triển của thực tiễn để
bổ sung
cho lý luận, mở đường cho thực tiễn phát triển. Nhưng ở đây nhấn mạnh đến thực
tiễn
của dân tộc Việt Nam chứ không phải thực tiễn nói chung. Với trình độ lý luận
văn
hóa ở đầu thế kỷ XX và ngay trong cả giai đoạn hiện nay chúng ta còn khoảng cách
khá xa so với thế giới thì việc đóng góp cho khoa học văn hóa về lý thuyết khó
có khả
năng thực hiện được. Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa của giai đoạn này là
quá
trình tiếp thu lý luận văn hóa thế giới để nghiên cứu và làm sáng tỏ thực tiễn
văn hóa
Việt Nam. Trong đó những vấn đề mang tính lý luận về văn hóa như : bản sắc văn
hóa,
bản sắc văn hóa Việt Nam, con đường để giải phóng văn hóa, xây dựng một nền văn
hóa mới... là kết quả của sự tiếp thu lý luận văn hóa thế giới để vận dụng vào
nghiên
cứu văn hóa dân tộc. Xét trên phương diện lý thuyết thì những nhận thức lý luận
về
văn hóa giai đoạn này không phải là mới với thế giới lúc đó. Đây là những thành
quả
của khoa học văn hóa mà các học giả Việt Nam tiếp thu được. Nhưng chính nhờ sự
vận dụng lý thuyết này để xử lý những vấn đề cụ thể của văn hóa dân tộc mà các
học
giả đưa ra được nhiều quan niệm về văn hóa, về văn hóa dân tộc mà trước đó chưa
được đề cập đến. Như vậy, sự sáng tạo đã được nảy sinh trong việc vận dụng những
tư
tưởng khoa học này để giải quyết vấn đề của Việt Nam. Sự đóng góp của quá trình
nhận thức lý luận về văn hóa cũng thể hiện tập trung nhất trên phương diện này.
ở một
phương diện khác, chúng ta có thể thấy những nhận thức lý luận về văn hóa trong
giai
đoạn này đều xuất phát từ những băn khoăn, trăn trở của giới trí thức dân tộc
trước
thực tiễn văn hóa dân tộc đang trong cơn khủng hoảng khi tiếp xúc với văn hóa
phương Tây. Họ cố gắng tìm tòi về mặt lý luận để tìm ra một con đường thích hợp
đưa
văn hóa dân tộc thoát ra khỏi khủng hoảng, gây dựng cho dân tộc một nền văn hóa
độc
lập. Nhưng không phải mọi cố gắng đó đều đến được mục tiêu mở đường, giải phóng
cho văn hóa dân tộc ra khỏi thân phận nô lệ. Tuy đều có tư tưởng dân tộc nhưng
có
khuynh hướng thiên về bảo thủ, có khuynh hướng cải lương tư sản, có khuynh hướng
xa quần chúng cho nên trên thực tế chưa phản ánh đúng bản chất của văn hóa dân
tộc
là dân tộc có được tự do thì văn hóa dân tộc mới phát triển được. Do đó, những
lý luận
này chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của văn hóa dân tộc. Một nền “văn hóa
ngu
dân”, “văn hóa nô dịch” đang rên xiết, kìm kẹp dưới ách thống trị của chủ nghĩa
phát
xít, thực dân chỉ có thể được giải phóng, phát triển khi nó hướng tới dân tộc,
hướng tới
nhân dân, chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái với khoa học, phản tiến
bộ và
phải được đặt trong quỹ đạo của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Chính vì thế,
khi
những người mácxít Việt Nam đưa ra quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
mang tính dân tộc - khoa học - đại chúng và xác định cuộc vận động văn hóa ở
Việt
Nam phải là một quá trình biến đổi sâu sắc và toàn diện đời sống theo định
hướng: dân
tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa đã tập hợp được một đội ngũ đông đảo những
nhà
văn hóa tài năng, giàu nhiệt huyết tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sự
nghiệp
đó đã thành công mở ra một giai đoạn mới cho văn hóa dân tộc, xây dựng nền văn
hóa
mới độc lập, mang đậm bản sắc dân tộc. Với tất cả những điều đó cho thấy, nghiên
cứu lý
luận văn hóa phải xuất phát từ thực tiễn dân tộc, hướng tới mở đường cho văn hóa
dân tộc
phát triển theo hướng tiến bộ. Trong điều kiện hiện nay, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc là hướng tới nền văn hóa xã hội chủ nghĩa mà các nhà kinh
điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến. Tuy nhiên, do những giới hạn của lịch
sử, Mác,
ăngghen, Lênin chưa thể có những câu trả lời về mặt lý luận đối với nhiều hiện
tượng văn
hóa của hôm nay. Từ thực tiễn xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta trong quá trình
đi lên
chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường và tác động mạnh
mẽ của
quá trình toàn cầu hóa dặt ra cho lý luận văn hóa nhiều vấn đề cần giải đáp. Với
những
điều kiện có tính đặc thù đặc thù như thế, bài học nghiên cứu lý luận văn hóa
phải gắn liền
với thực tiễn dân tộc có thể giúp các nhà nghiên cứu không chỉ có những sáng tạo
trong
việc vận dụng lý thuyết văn hóa để xử lý những vấn đề cụ thể của văn hóa Việt
Nam mà
có thể có những bổ sung lý luận mà ở đây là tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin,
làm cho nó trở thành một học thuyết hoàn chỉnh, có giá trị phổ quát.
Thứ hai, tiếp thu có hệ thống thành tựu lý luận văn hóa thế giới. Nếu như ở đầu
thế kỷ XX, các học giả Việt Nam đã tiếp nhận lý luận văn hóa bên ngoài để vận
dụng vào
thực tiễn của dân tộc thì ngày nay việc tiếp thu đó càng có ý nghĩa hơn bao giờ
hết. Mặc
dù là một ngành khoa học mới ra đời nhưng trong hơn một thế kỷ qua khoa học về
văn
hóa đã có bước phát triển nhanh chóng với nhiều lý thuyết văn hóa ra đời. Đó là
thành tựu
chung của thế giới và có những giá trị phổ quát đối với văn hóa các dân tộc. Hơn
nữa,
trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, muốn hội nhập mạnh mẽ với thế giới, văn
hóa Việt
Nam phải tăng cường đối thoại với các nền văn hóa khác, lý luận văn hóa của Việt
Nam
phải vươn lên đạt trình độ phổ quát của thế giới và đóng góp tiếng nói của mình
cho
những thành tựu chung đó. Như vậy, việc tiếp thu lý luận văn hóa của thế giới
trong giai
đoạn hiện nay nhằm mục đích hiện đại hóa lý luận văn hóa Việt Nam là đòi hỏi
khách
quan trên con đường hội nhập thế giới, vấn đề đặt ra ở đây là trong điều kiện
mới chúng ta
phải tiếp thu cái gì và tiếp thu như thế nào?
Nghiên cứu lý luận về văn hóa trong giai đoạn này để giải quyết những vấn đề
của văn hóa dân tộc mà không hướng tới xây dựng lý thuyết văn hóa cho nên như đã
trình bày ở trên, những kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng ở việc nhận thức lý luận
về
văn hóa mà chưa tạo ra được hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật của một
lý
thuyết. Những kết quả này không thể đạt đến sự sáng tạo thực sự, đi xa hơn nữa
trên
cơ sở những thành tựu đã tiếp nhận được, vấn đề ở đây là chúng ta đã không tiếp
thu
có hệ thống các lý thuyết văn hóa của thế giới. Có nhiều lý thuyết văn hóa đã
không
đến được Việt Nam. Việc tiếp thu lý thuyết Tiến hóa luận, Truyền bá luận văn hóa
ở
Việt Nam thì không phải là toàn bộ mà chỉ những khía cạnh, chưa nói đến việc
nghiên
cứu cơ sở triết học của các lý thuyết này hầu như chưa được đề cập đến. ở đây có
nguyên nhân các trí thức dân tộc không được tiếp xúc giao lưu nhiều với thế
giói, thiếu
thông tin, sự tiếp thu chủ yếu qua con đường Nhật Bản và Trung Quốc với những
sách
Tân thư. Nhưng nguyên nhân sâu xa hạn chế trong tư duy lý luận của người Việt
Nam,
nó bắt nguồn từ cơ chế tiếp nhận của văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa mở thâu
nhận các yếu tố của nhiều nền văn hóa khác nhau. Đó là sự tiếp nhận không theo
hệ
thống mà chỉ lựa chọn những giá trị phù hợp “chỉ nhận vào mình những gì mình
muốn
và những gì phù hợp với mình theo nguyên tắc thêm bớt lấy bỏ” và cách tiếp nhận
không hệ thống này “mang tính thực dụng, nông nổi nên thường quy giản và làm
biến
đổi bản nguyên” [66, tr.18] Cách tiếp nhận này khác với người Nhật Bản, thông
qua
hai cuộc cải cách lớn: Đại Hóa cải tân và Minh Trị Duy Tân, họ đã tiếp thu hệ
thống
để đạt đến trình độ “bằng người” để trên cơ sở đó phát triển, sáng tạo hơn
người, hoặc
ít nhất là khác người. Chúng ta biết rằng, một lý thuyết thường bao gồm hai bộ
phận:
bộ phận riêng có và bộ phận kế thừa từ các lý thuyết khác, trong đó, bộ phận thứ
hai
như điều kiện cần, không thể thiếu được với bất kỳ lý thuyết nào. Những thành
tựu lý
luận văn hóa là kết quả của sự khái quát thực tiễn trên cơ sở các học thuyết
triết học,
mặt khác đó còn là kết quả một quá trình phát triển có sự kế thừa nhau. Do đó,
muốn
hiểu các lý thuyết một cách sâu sắc, bản chất để từ đó tiếp thu và có sáng tạo
thực sự
thì phải nghiên cứu có hệ thống, lần ngược trở lại gốc vấn đề, từ lý thuyết văn
hóa tới
các học thuyết triết học. Con đường này có thể giúp công tác nghiên cứu lý luận
văn
hóa ở nước ta đi xa hơn, đóng góp cho kho tàng chung của thế giới.
3.3. Một số kiến nghị đối với công tác nghiên cứu lý luận văn hóa hiện nay
Với những gì trình bày ở trên cho thấy lý luận văn hóa đã đóng góp phần quan
trọng trong sự phát triển của văn hóa dân tộc, nhất là từ khi Đề cương văn hóa
Việt
Nam ra đời đã tham gia trực tiếp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
văn hóa
để xây dựng một nền văn hóa mới. Lý luận văn hóa đã trở thành một bộ phận và
ngày
càng có tác động lớn trong nền văn hóa mới đó. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất
nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mục tiêu định hướng
phát triển văn hóa được xác định là: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà
bản sắc dân tộc. Xây dựng văn hóa Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa đang
diễn
ra mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc, hội nhập sâu rộng hơn với
thế
giới đang là nhu cầu bức thiết trên con đường phát triển của đất nước. Những vấn
đề
đặt ra đối với văn hóa dân tộc hồi đầu thế kỷ XX dường như lặp lại: hiện đại hóa
văn
hóa dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa nhưng thách thức thì lớn hơn nhiều. Mặt
khác,
khi chúng ta bước vào thực hiện công nghiệp hóa, phát triển nền kinh tế thị
trường,
văn hóa Việt Nam đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập và hàng loạt các vấn đề mới
nảy
sinh. Nghiên cứu lý luận văn hóa đang đứng trước những yêu cầu hết sức nặng nề
là
phải tổng kết thực tiễn xây dựng văn hóa, giải đáp những vấn đề văn hóa đang nảy
sinh để mở đường cho văn hóa dân tộc phát triển, góp phần vào thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với những gì đã đạt được của
nghiên
cứu lý luận văn hóa thời gian qua so với yêu cầu của thực tiễn xây dựng văn hóa
dân
tộc, với sự phát triển mạnh mẽ của lý luận văn hóa trên thế giới thì công tác
nghiên
cứu lý luận văn hóa hiện nay có rất nhiều việc phải làm, phải hiện đại hóa lý
luận văn
hóa để vượt lên, rút ngắn khoảng cách so với trình độ của thế giới. Trong khuôn
khổ
của luận văn xin đưa ra một số kiến nghị:
Thứ nhất, nhận thức đúng vị trí của nghiên cứu lý luận văn hóa như một bộ phận
của
nền văn hóa Việt Nam để từ đó có chính sách đầu tư nguồn lực con người, tài
chính tạo môi
trường thuận lợi cho công tác nghiên cứu lý luận văn hóa.
Thứ hai, nhân tố quyết định nhất cho sự phát triển của lý luận văn hóa ở nước ta
vẫn là yếu tố con người. Nếu trong những giai đoạn trước đây, do những điều kiện
khách quan, lực lượng nghiên cứu lý luận văn hóa còn ít thì ngày nay muốn hiện
đại
hóa lý luận văn hóa phải có một đội ngũ những nhà nghiên cứu lý luận có tính
chuyên
nghiệp cao để chúng ta có được một chuyên ngành lý luận văn hóa đủ sức vươn ra
trình độ của thế giới. Hiện nay trên cả nước có 4 địa chỉ được coi là trung tâm
nghiên
cứu về văn hóa: Viện Văn hóa Thông tin (Bộ Văn hóa Thông tin), Viện Nghiên cứu
văn hóa (Viện Khoa học xã hội Việt Nam), Viện Văn hóa (Đại học Văn hóa Hà Nội),
Viện Văn hóa và phát triển (Học viện CTQG Hồ Chí Minh nhưng trên thực tế, số
người chuyên nghiên cứu lý luận văn hóa không nhiều, chúng ta đang thiếu hụt đội
ngũ chuyên gia lý luận văn hóa, cho nên Nhà nước cần chú trọng đến việc xây dựng
cho được một lực lượng những người nghiên cứu lý luận văn hóa có trình độ cao.
Ngoài quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng kể cả cử những nhân tài đi học ở nước
ngoài thì điều quan trọng là tạo ra một môi trường thuận lợi để cho lực lượng
này có
thể sáng tạo và cống hiến cho đất nước. Đó là một môi trường nghiên cứu khoa học
thực sự dân chủ. Đồng thời cần tăng cường dịch và xuất bản rộng rãi những tác
phẩm
kinh điển và những tài liệu mới về lý luận văn hóa - những cuốn sách không phải
là ăn
khách nên cần có sự tài trợ của Nhà nước. Thời gian gần đây, Tạp chí Văn hóa
nghệ
thuật, cơ quan ngôn luận của Bộ Văn hóa Thông tin về nghiên cứu lý luận văn hóa,
nghệ thuật, thông tin chủ trương xây dựng Tủ sách Văn hóa học. Qua đó, bước đầu
đã
giới thiệu những công trình văn hóa học ở các nước phương Tây, Liên Xô (cũ) và
Liên
Bang Nga hiện nay, Trung Quốc, Mỹ như Văn hóa nguyên thủy của E.B. Taylor, Văn
hóa học - Những bài giảng do A.A Radughin chủ biên… Đây là một hướng đi đúng
đắn, bằng việc cung cấp những tư liệu của ngành văn hóa học thế giới sẽ giúp cho
những nhà nghiên cứu chắt lọc tư liệu và kinh nghiệm để xây dựng chuyên ngành lý
luận văn hóa ở nước ta. Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước đầu và công việc này cần
sự
hỗ trợ rất nhiều từ phía Nhà nước.
Thứ ba, phải xây dựng bộ giáo trình lý luận văn hóa. Hiện nay, trong việc giảng
dạy và học tập bộ môn lý luận văn hóa nhu cầu có giáo trình riêng rất lớn. Trên
thực tế,
mới chỉ có cuốn Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin của A.I. ácnônđốp được dịch từ
năm
1976 đến nay đã có nhiều bất cập, Giáo trình lý luận văn hoá và đường lối văn
hoá của
Đảng của Khoa Văn hóa XHCN (Học viện CTQG Hồ Chí Minh), một số sách tham khảo
như cuốn Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn văn hoá ở nước ta của GS Hoàng Vinh,
còn lại
hầu hết những tri thức lý luận văn hóa được đề cập rải rác trong các công trình
nghiên cứu
văn hóa, chứ chưa có một giáo trình lý luận văn hóa. Đã đến lúc nên khuyến khích
các
nhà khoa học biên soạn những bộ giáo trình riêng về lý luận văn hóa, cập nhật và
tiếp cận
với những thành tựu của khoa học về văn hóa hiện đại của thế giới.
Kết luận
Văn hóa xuất hiện cùng với con ngưòi nhưng phải sau hàng nghìn năm đến cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên thế giới, các khoa học về văn hóa mới “phát triển
nở
rộ” và như vậy so với sự phát triển của văn hóa thì khoa học nghiên cứu về văn
hóa
phát triển “quá chậm”. ở nước ta, mãi đến đầu thế kỷ XX, trong quá trình tiếp
xúc với
văn hóa phương Tây, với những tác động của các luồng tư tưởng mới và nhu cầu bảo
vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc, việc nghiên cứu lý luận văn hóa mới bắt đầu
được
tiến hành. Lực lượng chủ đạo trên lĩnh vực mới mẻ này lúc đầu là những trí thức
đào
tạo trong nhà trường phong kiến nặng lòng với văn hóa dân tộc, sau đó thu hút
rộng rãi
thêm nhiều trí thức Tây học và những người mácxít Việt Nam. Quá trình nghiên cứu
lý
luận văn hóa đi từ sự tiếp thu những thành tựu lý luận của thế giới, vận dụng
vào
nghiên cứu văn hóa Việt Nam để nhằm mục tiêu xây dựng nền văn hóa mới cho dân
tộc - một nền văn hóa riêng, độc lập. Xuất phát từ mục tiêu đó, các học giả
trong giai
đoạn này tiếp thu có lựa chọn lý luận của nước ngoài để giải quyết những vấn đề
đang
đặt ra đối với văn hóa dân tộc. Cho nên, những kết quả nghiên cứu không hướng
tới
việc xây dựng lý thuyết văn hóa mới, nó chỉ dừng lại ở những nhận thức lý luận
về văn
hóa. Nội dung chủ yếu của những nhận thức này tập trung ở các vấn đề: khái niệm
văn
hóa, bản sắc văn hóa dân tộc, con đường để xây dựng văn hóa dân tộc. Mặc dù lúc
nào
cũng băn khoăn trăn trở với hiện trạng văn hóa dân tộc trong cuộc tiếp xúc với
văn hóa
phương Tây, có nhiều khác biệt nhưng những con đường mà các học giả đưa ra đều
chưa đi đến được mục tiêu. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào
Việt Nam, những quan điểm văn hóa mácxít được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
văn
hóa Việt Nam, đặt sự nghiệp giải phóng văn hóa trong cách mạng giải phóng dân
tộc,
văn hóa Việt Nam mới mở ra một trang mới, một nền văn hóa độc lập trong một quốc
gia độc lập. Với sự phát triển mạnh mẽ của các khoa học về văn hóa như hiện nay,
nhất là văn hóa học, nhiều quan niệm đã bị vượt qua, chỉ còn là giá trị lịch sử.
Nhưng
rõ ràng, nó đã ghi một dấu mốc quan trọng trong buổi đầu chập chững đến với khoa
học ở đầu thế kỷ XX của giới trí thức dân tộc, đóng góp cho di sản lý luận văn
hóa dân
tộc và để lại những bài học kinh nghiệm cho công tác nghiên cứu lý luận văn hóa
hiện
nay. Ra đời trong bối cảnh đất nước bắt đầu tiếp xúc với thế giới bên ngoài sau
thời
gian dài bế quan tỏa cảng, những nhận thức lý luận về văn hóa giai đoạn này là
cơ sở
cho chúng ta - những thế hệ đi sau - suy ngẫm và tiếp tục có những đóng góp cho
sự
phát triển văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập với thế giới hiện nay.